Nêucảm xúc, suy nghĩ của anh/chị về bài thơ: “Thuyền ta căng buồm gió, trăng căng buồm… Để đời ta lớn lên từng ngày.” (Đoàn tàu đánh cá-Huyền), dàn ý toàn diện và bài viết hay nhất, chi tiết, ngắn gọn nhất. Qua bài văn mẫu các em sẽ hiểu sâu hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!
Nêu cảm nhận của em về bài thơ này: “Thuyền anh cưỡi gió trăng… Hằng ngày nâng đỡ em.” (Hạm câu-huyền)
“Thuyền tôi đi theo gió và trăng”
Lướt giữa biển mây cao,
Tránh xa biển,
Một nhóm hàng rào.
Cá chim và cá,
Cá mú tỏa sáng với ngọn đuốc đen hồng
Đuôi vẫy trăng vàng.
Đêm thở: Cách lấy nước ở Vịnh Hạ Long.
Ta hát gọi cá vào,
Có tiếng trăng nhảy khi gõ thuyền.
Biển cho tôi cá như tấm lòng mẹ
Cho đời con lớn lên từng ngày. “
(Đội tàu cá – huyền)
Giới thiệu
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp và sự giàu có của quê hương
– Trong đó, đặc biệt là ba đoạn tả cảnh đánh cá trên biển: “Thuyền chúng tôi… từ ngày nào”
Văn bản
<3
– Hình ảnh con thuyền giữa thiên nhiên rộng lớn
<3
Con người không còn nhỏ bé nữa mà có sự bao la của vũ trụ => con người đã làm chủ thiên nhiên.
– Hình ảnh con người sẵn sàng dùng trí tuệ, khả năng của mình để chống lại thiên nhiên
+”Khám phá lòng biển”: Con người đang tìm kiếm những đàn cá lớn giữa đại dương bao la
<3
Câu thơ là hình ảnh một con người hiện lên trong tư thế kiêu hãnh, sánh ngang với vũ trụ bao la. Một bức tranh đẹp vừa chân thực vừa lãng mạn.
* “sprayfish … ha long”: tả đàn cá ở biển
– Phương pháp liệt kê: liệt kê nhiều loại cá – cá đặc sản quý hiếm -> sự giàu có của đại dương.
<3<3 So sánh hay, thật độc đáo.
– Hình ảnh ánh trăng hòa với nước sôđa “đuôi…doo”: “ánh vàng” – màu vàng óng ánh, tươi mát.
– “Hơi thở của đêm: …dài”: hình ảnh nhân tạo độc đáo nhất trong thơ
+Sao, nước: Xuất hiện và tồn tại trong hơi thở của đêm
+ Hình ảnh lên xuống như hơi thở đều đều của đêm -> hơi thở của biển cả.
=>Khổ thơ này thể hiện sự giàu có của biển cả và sự sáng tạo độc đáo của huyển trong nghệ thuật miêu tả đàn cá.
* “tôi hát… ngày qua ngày”: miêu tả công việc đánh cá và lòng biết ơn thiên nhiên
– Tiếng gọi cá như xua tan mệt nhọc, nhọc nhằn
– Động tác “Gõ thuyền”: Cho cá vào lưới. “Nhịp trăng trên cao”: Vầng trăng gõ nhịp khiến người lao động cất tiếng hát
-Hình ảnh so sánh “Mẹ…biển”: Biển như người mẹ bao dung độ lượng, giúp con người có của ăn của để, làm cho nhà giàu nước mạnh.
<3
->Đoạn thơ vừa là sự miêu tả về một đoàn thám hiểm đánh cá vừa là lời cảm thán về lòng biết ơn sâu sắc đối với nguồn tài nguyên quý giá mà Mẹ Biển đã ban tặng cho loài người.
* Tóm tắt: Ba câu kết là hình ảnh người dân chài lưới trên biển.
– Tái hiện bức tranh con người lao động trong thiên nhiên rộng lớn vừa tươi đẹp vừa hùng vĩ sánh ngang với vũ trụ
– Đồng thời vừa cảm phục sự trù phú của biển cả, vừa vô cùng biết ơn Đức Mẹ Biển Cả đã nuôi dưỡng biết bao thế hệ.
– Nghệ thuật được sử dụng rất điêu luyện: so sánh, nhân hóa,… mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc về những bức tranh thiên nhiên, con người, màu sắc, âm thanh.
Kết luận:
– Ba phần trên trong “Đoàn thuyền đánh cá” tái hiện phong cách viết xuất sắc của Hứa Dịch
– Một bức tranh tráng lệ về sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người lao động
– Ông xứng đáng với danh hiệu là nhà thơ lớn trong làng thơ Việt Nam.
Thơ cảm: “Thuyền anh đi theo gió trăng… ngày tháng nuôi đời em.” (Đoàn tàu đánh cá – huyền) – Ví dụ Bài 1
Ai đó đã từng nói rằng, một trong những nguồn tư liệu quan trọng của thơ ca là cuộc sống lao động của nhân dân. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huyền phải thế này. Bài thơ này thực sự xuất phát từ cuộc sống lao động hăng say, hào sảng của người dân vùng chài lưới. Qua thơ, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên trên nền của đại dương và vũ trụ kỳ vĩ. Đoạn thơ sau trong bài thơ nói:
“Thuyền tôi đi theo gió và trăng”
Lướt giữa biển mây cao,
Tránh xa biển,
Một nhóm hàng rào.
Cá chim và cá,
Cá mú tỏa sáng với ngọn đuốc đen hồng
Đuôi vẫy trăng vàng.
Đêm thở: Cách lấy nước ở Vịnh Hạ Long.
Ta hát gọi cá vào,
Có tiếng trăng nhảy khi gõ thuyền.
Biển cho tôi cá như tấm lòng mẹ
Cho đời con lớn lên từng ngày. “
Bài thơ này do Hồ Diên sáng tác năm 1958 khi ông đang đi công tác ở mỏ Hòn Gà, tỉnh Quảng Ninh, lấy cảm hứng ca ngợi công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của miền Bắc độc lập. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” dùng ý nghĩa này để ca ngợi niềm tin của nhân dân lao động vào cuộc sống mới với tinh thần thống trị và niềm vui trong những ngày đầu thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Ba khổ thơ trên đều nằm ở khổ giữa của bài thơ. Mở đầu bài thơ là hình ảnh mặt trời lặn trên biển và đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Những ngư dân đến với DJI với tinh thần làm việc hết mình và tâm hồn mạnh mẽ “giăng buồm cùng gió biển”. Những con cá bào ngư dưới biển dang rộng vòng tay với họ:
“Cá thu biển Đông như quả cầu”
Ngày và đêm đan xen biển ánh sáng
Hãy đến dệt quán cà phê internet của chúng tôi, đội cá của tôi! “.
Câu Kinh Thánh trên theo chu kỳ cảm xúc này.
Thuyền tôi đi theo gió và trăng
Lướt sóng trên biển mây cao
Con tàu có bánh lái và cánh buồm, nhưng nó bị gió đẩy đi, còn cánh buồm là buồm mặt trăng. Con tàu ra khơi trong đêm, không phải nhờ sức người, mà nhờ sức của tiếng hát, cộng với sức gió, cộng với hướng trăng: nên con tàu như lướt, như bay. Dưới ảnh hưởng của vũ trụ, chiếc thuyền đánh cá ban đầu nhỏ bé đã trở nên hùng vĩ và khổng lồ, có thể so sánh với vũ trụ. Và trên con tàu ấy, con người dường như dần dần nổi lên chiếm ưu thế:
Cách xa biển
Hàng loạt cấu trúc hàng rào
Đã qua rồi cái thời con người đủ nhỏ bé để một mình đối mặt với sức mạnh bí ẩn của biển cả. Với tinh thần làm chủ, biển dường như thu hẹp lại, để cho con người “ra khơi dừng xa”, “mở trận địa”, “thám hiểm bụng biển”, để con người tìm tòi, khám phá. Khám phá.. họ ngoan ngoãn đi đến những nơi xa xôi và để thiên nhiên phục vụ họ. Họ là những ngư dân mang theo tuổi trẻ và sức khỏe, tìm tòi khám phá và giải phóng thế giới kỳ bí của thiên nhiên. Câu cá giống như một trận chiến mà mọi người làm việc như một người lính.
Hát trên biển, hát cho chuyến ra khơi, người lao động hát về sự trù phú của biển:
Súng ống thổi với cá chim
Cá biển lấp lánh dưới ánh đuốc đen hồng
Các loài cá được đặt tên: Cá chim, cá chim, cá trê, cá mú, hàm ý sự trù phú của biển cả. Không chỉ giàu mà biển còn đẹp nữa:
Cá biển lấp lánh dưới ánh đuốc đen hồng
Đuôi em vẫy trăng vàng
Trong ánh trăng, cá mú bơi lội dưới nước. Cơ thể của con cá có một khoang màu hồng tỏa sáng như ánh sáng di chuyển dưới ngọn đuốc. Hình ảnh này cũng là nguồn cảm hứng để nhà thơ Chế Lan Văn viết nên một dòng thiên tài: “Cá nâng đuốc trở về với bài thơ”. Có thể nói, ở hình tượng con cá, hai nhà thơ Hoắc Chí Cách không chỉ gặp nhau ở sự liên tưởng, mà còn “cùng một dòng” trong cảm hứng sáng tạo: nghệ thuật xuất phát từ hiện thực, từ cuộc sống lao động của quần chúng nhân dân. .
Trong thơ có nhiều màu ánh sáng: ánh hồng của đàn cá bống, ánh vàng của trăng khuyết trên mặt nước. Màu sắc của ánh sáng hòa lẫn với bóng tối của màn đêm tạo nên một bức tranh sơn mài đầy màu sắc. Giữa dòng cảm xúc của nhà thơ, dường như đã bắt gặp hình ảnh nàng tiên cá ở đâu đó nên Hồ Nhan đã viết nên một câu thơ nên thơ và đẹp như tranh vẽ: “Đuôi em lay động vầng trăng vàng”. Một mối quan hệ khéo léo càng làm nổi bật hình ảnh này:
Rồng lấy nước dưới trời sao
Hình ảnh nhân hóa có một lớp riêng. Đêm vẫn thư thái, với sự lên xuống của thủy triều tạo nên một bầu không khí buổi tối. Những chấm sao khổng lồ in trên mặt nước, bồng bềnh trên những con sóng vỗ vào bãi biển, được ví như: “nước nhấn chìm Vịnh Hạ Long”. Sao và nước cũng xuất hiện và tồn tại trong hơi thở của đêm. Kết nối các vùng không gian lại với nhau, thiên nhiên như một bức tranh sơn mài tráng lệ và huyền ảo.
Bài hát này đã theo người đánh cá suốt chặng đường dài, và bây giờ bài hát này gọi cá vào lưới:
Hát hài gọi cá
Gõ thuyền có nhịp trăng cao
Tiếng người gọi cá, tiếng trăng gõ cửa. Những động tác lao động đời thường: vỗ nhịp vào mạn thuyền để vớt cá, qua lăng kính cảm xúc bỗng trở nên đẹp đẽ vô cùng. Theo thời gian, trăng lên cao dần, trăng tan vào nước đập vào mạn tàu đánh nhịp hay con thuyền lênh đênh giữa biển đánh nhịp như ánh trăng vỡ. Công việc đánh cá ban đầu gian khổ bỗng trở nên thi vị. Sự giàu đẹp của biển là sự phản ánh lòng bao dung của lòng biển:
Biển cho tôi cá như tấm lòng mẹ
Cho đời con lớn lên từng ngày
Nhà thơ Yu Neo đã so sánh đáy biển với “lòng mẹ” thật tài tình. Biển cả bao la dữ dội, biên cương thăm thẳm không còn huyền bí, hãi hùng. Với tấm lòng của thi nhân rộng, bao la và đầy cá giống như tấm lòng của người mẹ bao dung. Tấm lòng của biển, tấm lòng của người mẹ đã “nuôi con từ thuở mới lọt lòng”. Bài thơ này là một cảm xúc chân thành cho tình yêu của biển, cảm ơn biển, biển vô bờ bến và tràn đầy tình yêu.
Bài thơ kết hợp hai thứ cảm hứng: cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, rạo rực của thời kỳ cuộc sống mới ở miền Bắc và cảm hứng vũ trụ nổi bật nhất trong hồn thơ. Sự gặp gỡ, giao hòa của hai nguồn cảm hứng này tạo nên những hình tượng bao la, hoành tráng, lung linh, đặc biệt là tranh sơn mài về thơ và thơ.
Ca ngợi vẻ đẹp nên thơ hùng vĩ của biển cả, ca ngợi cuộc sống tưng bừng xây dựng niềm vui, bài thơ này thực sự là một khúc hát của tâm hồn gần gũi với cuộc đời được hoàng đế ban tặng. Một phong cách vừa cổ điển, vừa rất hiện đại Trong những liên tưởng bất ngờ, cảm hứng vũ trụ gặp cảm hứng lãng mạn, bài thơ này tự tin mở ra một tương lai huy hoàng. Các giống lai chắc chắn sẽ nở hoa.
Cảm hứng thơ: “Thuyền anh rong ruổi theo gió trăng… ngày tháng nuôi đời em.” (Đoàn thuyền đánh cá – huyền) – Bài mẫu 2
Huyền là một trong những nhà thơ lớn nhất của nền văn học Việt Nam, đặc biệt là Phong trào thơ mới. So với các nhà thơ khác, thơ ông luôn có một phong cách rất riêng. Kiệt tác thời kỳ mới của ông là “Đoàn thuyền đánh cá”. Bài thơ là lời ca ngợi thiên nhiên và người lao động Việt Nam trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước. Đoàn thuyền đánh cá có hình ảnh thơ đẹp, đặc biệt là ba câu:
“Thuyền tôi đi theo gió, theo trăng…
Nuôi tôi từ ngàn xưa”
Ba phần trên là ảnh thiên nhiên và con người lao động trên biển. Đó là hình ảnh người dân ra khơi đánh bắt những đàn cá lớn để làm giàu cho gia đình. Hình ảnh những người dân lao động giữa biển khơi bao la thật anh dũng, bất khuất.
Bài thơ kết hợp yếu tố hiện thực và lãng mạn. Vì thế, khi viết về những người lao động đánh cá, huyển đã vẽ ra một khung cảnh rất lãng mạn:
“Thuyền tôi cưỡi gió trăng
Lướt sóng trên biển mây cao
Cách xa biển
Một loạt cấu trúc lưới vây”
Ánh trăng vàng soi biển lấp lánh, đoàn người lướt đi. Ban đầu, hạm đội đó chỉ là những chiếc thuyền nhỏ bình thường, nhưng giờ đây nó dần trở nên khổng lồ và khổng lồ, hòa vào vũ trụ bao la. Con thuyền giờ đây đã có bánh lái gió và cánh buồm trăng vàng, nhẹ nhàng lướt trên bầu trời bao la. Hình ảnh “Cưỡi gió cưỡi trăng, mây cao biển rộng” biến những con thuyền nhỏ bé bình thường thành những đoàn tàu vũ trụ lộng lẫy, tráng lệ dưới ánh trăng. Lúc này, không khí tưởng như vô tận đang hòa vào mặt biển, dẫn thuyền ra khơi xa mấy dặm. Ra khơi, thuyền neo đậu cẩn thận “mò bụng biển”. Phải chăng cuộc tìm kiếm này là hành động tìm kiếm những đàn cá lớn, khám phá những bí ẩn của thế giới đại dương để câu cá, và học hỏi từ những ngư dân trên biển? Cuộc hành quân đó không chỉ để khảo sát luồng cá lớn mà còn để khám phá ý nghĩa sâu xa của loài sứa, Ngài có bằng lòng cho chúng tôi mang về một đàn cá lớn để làm giàu cho quê hương không? Con người và thiên nhiên nơi đây dường như thật hùng vĩ và bao la. Con người không còn là vật tầm thường trong đại dương vũ trụ bao la, mà bỗng trở nên to lớn, sống động biết bao. Chúng ở thế thống trị thiên nhiên nên mạnh dạn “giăng lưới”. Đây là hành động chuẩn bị cho một mẻ cá lớn.
Huyền vẽ bức tranh thiên nhiên và con người cùng làm việc với nhau. Thiên nhiên bên trong bao la và tươi đẹp là thế, nhưng con người trên bức tranh huyền bí ấy không còn là những chủ thể yếu đuối trước thiên nhiên vũ trụ. Ở đây, trong bức tranh này, họ đang đứng kiêu hãnh trước thiên nhiên, làm chủ nó, ngồi ngang hàng với nó, mặc dù trong đó còn bao điều bí ẩn mà họ chưa khám phá hết. Có như vậy, dân tộc Việt Nam mới lớn mạnh, trưởng thành, mạnh mẽ, ngoan cường trước mưa gió!
Qua một đoạn khác, độc giả như được đưa đến một bức tranh khác. Bức tranh ấy vẫn là chủ đề thiên nhiên, nhưng thiên nhiên trong đó không chỉ có trăng vàng, biển xanh mà giờ đây những sắc màu khác đang tỏa sáng. Đó là màu của cá biển:
“Cá chim câu
Cá biển lấp lánh dưới ánh đuốc đen hồng
Đuôi vẫy trăng vàng
Đêm để thở: Cách lấy nước ở Vịnh Hạ Long”
Thật là một bức tranh sống động và đầy màu sắc. Con nào màu lấp lánh, con nào “vàng óng”, con nào đen, con nào hồng,… đủ màu, đủ âm thanh, đặc sắc làm sao! Khổ thơ mở đầu bằng tên một loạt loài cá biển là loài cá đặc sản chỉ có ở vùng biển Hòn Gai tỉnh Quảng Ninh. Cá sàn, cá chim, cá trê, cá mú – đây là những loại cá đặc sản, cho thấy biển Việt Nam phong phú và giàu có biết bao! Không chỉ vậy, biển còn đẹp khi:
<3
Đuôi vẫy vầng trăng vàng”
Cá mú, loài cá đặc sản của vùng biển Việt Nam, có chiếc đuôi đen đỏ, nay trong con mắt trìu mến của nhà thơ bỗng trở thành ngọn đuốc giữa biển khơi. Ngọn đuốc thắp sáng một vùng biển tối tăm, và làm cho vùng biển đó sáng lên với ánh đuốc đen và hồng. Chưa bao giờ trong thơ lại có những hình ảnh tương phản đẹp đến thế! Cần có trí tưởng tượng phong phú và con mắt quan sát tinh tường để nhận ra đặc điểm độc đáo này của từng loài cá biển. Không chỉ đốt lên ngọn đuốc soi sáng cả đại dương, trong mắt cá biển, những chú cá biển ấy như những cô em gái nhỏ tinh nghịch, vùng vẫy vẫy chiếc đuôi lấp lánh trên mặt nước. Như vậy, giữa mặt nước bao la, ánh trăng “vàng” nhô lên trời, đẹp và trong vắt, tươi tắn đến lạ. Ở đây Huy Cận dùng tính từ “vàng” để miêu tả màu sắc rất nổi bật – vừa óng ánh vừa có ánh vàng đặc biệt, khiến câu thơ nổi bật trên mặt giấy và nghe rất vang. Phần kết, huyền viết:
“Đêm thở: Cách lấy nước ở Vịnh Hạ Long”
Đây là một hình ảnh nhân hóa nhưng độc đáo thú vị. Đêm đang thở, đang thổi hơi thở của mình vào khoảng không im lặng của biển cả bao la. Tiếng thở đêm đó có phải là tiếng thủy triều lên xuống? Mỗi khi thủy triều ùa vào bãi cát rồi vụt đi, kiêu hãnh như đêm thở phập phồng: Tại sao nước chảy ở Hạ Long? Tại các khu vực này, các chiều không gian khác nhau được liên kết chặt chẽ với nhau một cách liền mạch. Không gian của đêm, không gian của biển, không gian của sao, không gian của trăng nối liền thành một dấu chấm, ở giữa dấu chấm đó là hình ảnh người dân lao động đang say sưa với công việc.
Toàn bộ bài thơ là lời ca tụng của Huyền Xuân về sự giàu có của biển cả. Với nhãn quan của một nhà thơ yêu cuộc sống, huyển đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và muôn loài cá. Bức ảnh đó đầy màu sắc và lấp lánh.
<3
“Tôi hát bài hát có tên là cá
Gõ thuyền có nhịp trăng cao
Biển cho tôi cá như tấm lòng mẹ
Nuôi tôi từ ngàn xưa”
Nếu câu đầu của khổ thơ đầu là câu ca căng buồm căng buồm ra khơi, thì ở đây, những câu thơ này là câu ca “gọi cá về biển”. . Những bài hát vang lên rõ ràng trong không gian tĩnh mịch của đêm và biển. Kèm theo nhịp đập mạn tàu phải chăng là tiếng hát gọi cá, hay tiếng ngư dân thả lưới? Trong câu thơ ấy lồng ghép ánh trăng trên cao, ánh trăng soi rọi từng bước đi của con người, ánh trăng như nhịp đập của con người, cổ vũ con người trong cuộc chiến đấu với thiên nhiên. Mỗi cú tát của cá là một tiếng giật mạnh, báo hiệu lưới ngày càng nặng – mùa cá nhiều. Ánh trăng vàng là người bạn, con thuyền lênh đênh trên sóng nước, lời ca réo rắt tiếp thêm sức mạnh cho ngư dân kéo mẻ lưới đầy.
Nhìn những mẻ lưới nặng trĩu của mình, huy gần bỗng lặng người nghĩ về biển:
“Biển cho tôi cá như lòng mẹ
Nuôi tôi từ ngàn xưa”
Biển ở đây như người mẹ. Một người mẹ luôn bao dung và che chở cho con, một người mẹ luôn dành cho con những điều tốt đẹp nhất, sẽ mãi như vậy, đúng như câu thơ “nghĩa mẹ như nước chảy xiết. Nghĩa mẹ như nước chảy xiết”, không bao giờ cạn. chúng tôi cá”, luôn hào phóng với chúng tôi và không bao giờ để lại bất cứ điều gì cho mình. Đó là một phép ẩn dụ khéo léo, đầy lòng biết ơn và tôn trọng, thu hút sự gần gũi của Huey với biển mẹ và song song với sự hào phóng của thiên nhiên. Biển đã cho ta, nuôi ta từ thuở ấu thơ và nuôi ta từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vâng, chúng tôi rất muốn cảm ơn biển cả bao la đã cho chúng tôi của cải, nuôi dưỡng chúng tôi và giúp chúng tôi làm giàu cho quê hương. Những vần thơ ngân vang như lời yêu thương, như người thì thầm với mẹ giữa biển cả bao la. Đó là một sự biết ơn, một sự biết ơn sâu sắc đối với biển, bởi biển bao la và yêu thương!
Kết thúc câu thơ, ta cảm nhận được sự vất vả của người dân chài trước khi lao động. Đồng thời ta cũng cảm nhận được sự kính trọng biển, lòng biết ơn và tình yêu biển sâu sắc của các em. Đối với họ, biển là mẹ, là phần máu thịt thân thiết nhất của mình.
Ba câu kết lần lượt là hình ảnh thiên nhiên và con người đang đánh cá. Nó lãng mạn và đẹp đẽ, với chủ nghĩa hiện thực rõ ràng. Có thể nói, huyền vẽ nên một bức tranh thiên nhiên và người dân chài đầy màu sắc. Đồng thời, các nghệ thuật so sánh, liệt kê, nhân hóa,… được Huy sử dụng ở những dòng trên cũng góp phần tạo nên nét độc đáo và thành công của đoạn thơ này.
Cảm hứng thơ: “Thuyền anh rong ruổi theo gió trăng… ngày tháng nuôi đời em.” (Đoàn thuyền đánh cá – huyền) – Bài mẫu 3
Đoàn thuyền đánh cá là một bài thơ hay của nhà thơ Hồ Diên. Bài thơ này được viết vào năm 1958 khi nhà thơ đi thực tế ở Hồng Gai, lúc đó ông đang vui vẻ tham gia xây dựng những con đường xã hội chủ nghĩa ở miền bắc nước tôi. Bài thơ gồm bảy khổ thơ, miêu tả nhiều cảnh một đoàn thuyền nhỏ ra khơi đánh cá từ lúc mặt trời lặn vào một buổi chiều cho đến khi mặt trời mọc và trở về biển vào sáng hôm sau. Trong đó, bốn câu miêu tả cảnh đánh cá bằng thuyền và trên biển là nổi bật và đặc sắc nhất.
Mở đầu bài thơ, ta thấy hình ảnh một chiếc thuyền đánh cá khổng lồ đang dập dềnh trên sóng:
Thuyền tôi đi theo gió và trăng
Lướt sóng giữa mây cao và biển vàng.
Thuyền lấy gió làm bánh lái, lấy trăng làm buồm. Tôi thích thiên nhiên, hòa nhập vào không khí làm việc khẩn trương của đội tàu. Đoàn thuyền nhỏ lướt giữa biển mây cao, lướt trong hư không bao la. Thiên nhiên dường như rộng mở, rộng lớn và vô biên, phía trên là trời trăng sáng, phía dưới là biển cả bao la, ở giữa là những đoàn thuyền nhỏ lướt nhanh giữa những khoáng đạt cao rộng. Con thuyền như hòa vào thiên nhiên, nhưng không hề lạc lõng với thiên nhiên. Trong không gian bao la, con thuyền không hề bị chìm hay giảm bớt, ngược lại trở thành một thứ ánh sáng trung tâm đẹp đẽ, khỏe khoắn và thơ mộng. Gió biển thổi dẫn lối, trăng đậu trên cánh buồm, con thuyền đẹp hơn, thơ mộng hơn khiến tác giả liên tưởng đến vầng trăng như cánh buồm căng gió kéo thuyền lướt sóng. Con thuyền không thuộc về chúng ta, không thuộc về con người mà trở thành tổng thể của tự nhiên. Như thể thiên nhiên và con người đã kết hợp để nắm quyền lãnh đạo thay vì con người. Nếu như ở phần đầu, thiên nhiên đã ngưng đọng, mặt trời đã lặn xuống biển, sóng vỗ ào ào, màn đêm đã khép cánh cửa, thì ở đây, con người đã đánh thức thiên nhiên, ban sự sống cho vũ trụ, thiên nhiên. tình yêu thương con người và trí tưởng tượng phong phú đã giúp nhà thơ xây dựng nên những hình ảnh thơ đẹp và giàu ý nghĩa.
Hai câu thơ sau miêu tả cụ thể công việc của đoàn thuyền đánh cá:
Cách xa biển
Một nhóm hàng rào.
Công việc đầu tiên của ngư dân là tìm đường cá dưới đáy biển. Nhưng giữa biển cả mênh mông, khi đã tìm được luồng cá, thuyền sẽ tung tăng thả lưới khắp nơi. Đây là những công việc và hoạt động bình thường của kẻ ngu. Nhưng qua miêu tả của tác giả, chúng ta thấy những hoạt động này là sự chuẩn bị cho trận chiến. Ngư dân bước vào lao động bình thường cũng giống như tham gia vào một cuộc chiến, vũ khí là một tấm lưới, họ dùng sức mạnh cơ bắp, họ dùng trí tuệ, và họ dùng tám chiêu để nắm chắc phần thắng.
Khi thả lưới, cá sẽ ra. Nhà thơ đã miêu tả rất hay về những loài cá này: cá ngát, cá chim, cá trê. Có rất nhiều loại cá nên có thể thấy chúng là những loại cá rất quý. Phóng tầm mắt ra xa, đàn cá tấp nập. Dưới ánh trăng, thân cá tỏa sáng, hình ảnh đặc biệt bắt mắt giữa đàn cá:
Cá mú tỏa sáng với ngọn đuốc đen hồng
Đuôi vẫy trăng vàng
Đêm thở: Cách lấy nước ở Vịnh Hạ Long.
Câu thơ cho ta thấy toàn cảnh đàn cá. Đặc biệt hình ảnh chiếc đuôi cá được miêu tả rất tài tình
Đuôi vẫy trăng vàng.
Trong muôn ngàn loài cá, con nào cũng đẹp, nhưng cá mú nổi bật không chỉ bởi màu sắc rực rỡ như đuốc, mà còn bởi sự di chuyển nhẹ nhàng, nhanh nhẹn như đang nhảy múa. Sự chuyển động của đàn cá làm cho mặt trăng đẹp hơn và sáng hơn. Chính sự vận động ấy đã tạo nên nét thơ, nâng hồn thi nhân lên, gửi gắm những tình cảm sâu sắc. Trăng đã lên và cá đã vào lưới. Người đánh cá lên tiếng gọi cá:
Ta hát gọi cá vào,
Có tiếng trăng nhảy khi gõ thuyền.
Cùng với tiếng hát, ánh trăng đập vào mạn tàu, đánh nhịp cho lời ca. Trăng trên cao sang, in bóng xuống nước. Nước biển, ánh trăng, sóng như đập vào mạn tàu Tôi vừa chân thực vừa hư Được tạo nên bởi 111 phép thơ tương đồng của nhà thơ, cảnh lao động vừa đẹp, vừa nên thơ lại mang ý nghĩa sâu sắc. Đắm mình trong canh lao thơ mộng, những đổi thay của nữ thi sĩ như lòng mẹ. Mẹ là người sinh ra ta, nuôi nấng ta, dạy dỗ ta nên người. Vì vậy, biển cho ta những con cá như bầu sữa mẹ để nuôi dưỡng sự sống:
Biển cho tôi cá như tấm lòng mẹ
Ta lớn lên từ lúc nào.
Biển được ví như lòng mẹ, biển luôn cưu mang con người. Ở đây ta thấy ngư dân, nhà thơ toát lên tình yêu và lòng biết ơn đối với biển. Khi bắt được cá, trời dần hửng sáng. Mọi hoạt động ngày càng khẩn trương hơn:
Sao mờ, kéo lưới sớm
Ta kéo cánh tay của con cá lớn
Đuôi vàng vảy bạc nhấp nháy ánh ban mai
Hãy thả lưới ra khơi đón nắng hồng…
Những vì sao đang mờ dần và bầu trời sẽ sáng. Tấm lưới cuối cùng đã được kéo lên. Công việc này không hề dễ dàng chút nào. Ngư dân phải “xoắn tay” để kéo lưới vì đầy cá. Hình ảnh đàn cá nằm trong lưới sáng chói lóa trong ánh ban mai không chỉ thể hiện sự kỳ vĩ của biển cả quê hương mà còn thể hiện hiệu quả của lao động. Bây giờ công việc đã kết thúc, những tấm lưới được đưa vào cabin, và những cánh buồm lại một lần nữa được mở ra để đón ánh mặt trời.
Thật ra bài thơ có thể kết thúc ở đây khi hình tượng thơ đã được phát triển và nâng cao đầy đủ. Cả bài thơ là một bức tranh sơn mài, màu của trời trăng sao, màu sóng nước, màu vảy bạc đuôi vàng, màu vảy bạc đuôi vàng, màu thợ quăn tay . bản thảo. Phong cách thơ của bài thơ này vừa hiện thực vừa lãng mạn, lồng ghép giữa cảnh thực với trí tưởng tượng phi nước đại, chất hiện thực và chất trữ tình, tạo nên một thi pháp thi có hương sắc tráng lệ, giàu tầng nghĩa, hàm súc và nhân văn. Nâng hình ảnh người đánh cá lên tầm cao của vũ trụ, đưa việc đánh cá trở thành một tác phẩm đầy chất thơ.
Trước cách mạng, thơ Từ Cẩm thường chứa đựng một nỗi buồn man mác. Nhưng kể từ khi trở thành một nhà thơ cách mạng, Xu Yi gần như nhiệt tình ca ngợi người mới, và cuộc sống mới nên thơ của anh trở nên ấm áp, tràn đầy tình yêu và tràn đầy niềm vui. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” ra đời trong vòng quay của mối quan hệ ấy, nên có thể coi đây là một món quà đặc biệt từ vùng mỏ hồng gai – một tập hợp những bài vè của gian thơ Huy Cận. (mùa xuân tươi đẹp)
-/-
Qua dàn ý và một số bài văn mẫunghiệm về bài thơ: “Thuyền em căng buồm gió trăng… Giữ gìn sức khỏe mỗi ngày.” (Đoàn đánh cá – huyền)Thường của Giải pháp hàng đầu Chọn từ những bài làm xuất sắc của học sinh. Chúc các bạn có những giờ phút học văn thật vui vẻ và bổ ích!