Bạn viết bài phân tích bài viết về sự hy sinh của liệt sĩ của Ruan Tingzhao chắc khó lắm bạn nhỉ! Trong bài viết này, chúng tôi sẽ trình bày chi tiết cách tạo và chọn bài luận mẫu hay nhất để giúp bạn khai thác tối đa bài luận của mình.

Nào! Bây giờ hãy xem…

Hướng dẫn cách tiến hành phân tích từ thiện

1. Phân tích chủ đề

– Đề bài yêu cầu: Phân tích nội dung và nghệ thuật của bài văn về một nhà hảo tâm đang cần một nhà hảo tâm

– Phạm vi tư liệu: Những chi tiết, hình ảnh tiêu biểu trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu)

– Phương pháp lập luận chủ yếu: phân tích

2. Điểm chính Cần triển khai

– Luận điểm 1: Hoàn cảnh thời đại và sự khẳng định của người nông dân bất tử

– Luận điểm 2: Hình tượng người nghĩa sĩ nông dân giàu lòng yêu nước

– Luận điểm 3: Nỗi tiếc thương và cảm phục của tác giả trước sự hi sinh của các liệt sĩ

-Luận điểm 4: Ca ngợi linh hồn bất tử của các liệt sĩ

Lập dàn ý và phân tích thành phần của các nhà hảo tâm

1. Phân tích mở về nhu cầu từ thiện của nhà hảo tâm

– Ruan Tingzhao giới thiệu ngắn gọn: Một người chịu bất hạnh và đau khổ trong cuộc đời, nhưng lại gắn bó giản dị và chân thành với người dân phía nam.

– Giới thiệu chung về nhu cầu của các nhà hảo tâm.

2. Văn bản của bài viếtphân tích nhu cầu văn học của các nhà hảo tâm

A. Phần 1 – Chùn bước: Khái quát về dòng thời gian và sự ghi nhận về sự bất tử của người nông dân anh hùng

– Dòng mở đầu: “Chúa ơi!”

+ thương tiếc người đã khuất

+ Tiếng kêu nguy nan, căng thẳng của dân tộc trước giặc ngoại xâm

=>Lời văn bi tráng cảm động, nỗi niềm đau đáu trong lòng tác giả

<3 Phác thảo cảnh mưa gió thời bấy giờ

<3 Là cuộc xung đột giữa quân xâm lược hung bạo với vũ khí tối tân và ý chí chiến đấu của quân dân ta.

– Mười Năm Chinh Chiến- Chính Nghĩa Tây Tiến

+Nông thành nghĩa sĩ, yếu tố thời gian phản ánh sự vùng dậy, đấu tranh nhanh chóng của các tầng lớp nhân dân yêu nước.

+ Hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược và sự phản ứng mạnh mẽ của nhân dân các cuộc khởi nghĩa.

b. Phần thứ hai——Tình yêu đích thực: Hình ảnh người nông dân đau khổ và người lính

– Trước khi địch đến:

+Bối cảnh: Nông dân

<3

+Dùng từ láy (dùi) để chỉ cuộc sống cần cù, bận rộn, lo toan, vất vả nhưng vẫn nghèo khổ của tầng lớp nông dân. Đây là cuộc sống gắn liền với ruộng đồng, con trâu và cái cày => họ dịu dàng, chất phác.

+ tập khiên, tập giáo, tập mác, tập cờ,… => chưa quen với quân sự và chiến tranh.

– Khi giặc đến: (yêu nước nồng nàn)

<3 Tội ác và sự khiêu khích trắng trợn của kẻ thù đã hủy hoại cuộc sống của người nông dân.

+Dùng yếu tố thời gian để dập tắt mối hận thù: hơn 10 tháng, đã 3 năm, phản ứng tự nhiên dữ dội: Muốn ăn gan, muốn cắn cổ,…

+ Nhận thức: đưa thư đường dài, để người khác giết rắn đuổi hươu => ý thức được trách nhiệm của mình đối với tình hình đất nước.

+ Hành động: Đợi ai đòi, bắt ai, phen này cố mà bẻ, lười chạy tới chạy lui, chuyến này toàn vì hổ -> Tình nguyện nhập ngũ với quyết tâm sắt đá .

– Cuộc chiến giữa liệt sĩ và kẻ thù:

+ Điều kiện chiến đấu cực kỳ khó khăn:

  • Quân đội: Không quen thuộc với quân đội
  • Vũ khí: Vật phẩm cơ bản
  • binh pháp, chiến thuật: không quen, không biết
  • +Tinh thần chiến đấu và sự hy sinh của nông dân

    • tinh thần: thuận theo lẽ tự nhiên, không tính toán, dũng cảm, mạnh mẽ
    • Hành động: đá, đẩy, đấm, đấm, đâm, chém…
    • ->Sử dụng nhiều động từ gợi lên sức mạnh, sự vênh váo và chủ nghĩa anh hùng

      =>Những cảnh chiến đấu thể hiện rõ khí phách hào hùng, anh dũng của các nghĩa sĩ.

      =>Một tượng đài nghệ thuật sừng sững và huy hoàng của hình tượng người lính nông dân.

      c.Phần thứ ba – thương tiếc:Sự tiếc thương và cảm phục của tác giả trước sự hy sinh của các liệt sĩ

      -Thể hiện niềm thương cảm, ngưỡng mộ của tác giả và nhân dân đối với các nghĩa sĩ => bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của tác giả.

      – Tiếng kêu cộng hưởng từ nhiều nguồn cảm xúc khác nhau:

      <3

      + Nỗi tiếc thương của tang quyến, sự mất mát không thể bù đắp của người mẹ già và người vợ trẻ.

      + Nỗi căm giận kẻ thù gây ra bao nghịch cảnh hòa cùng những giọt nước mắt uất ức, ngột ngạt trước cảnh nước nhà lầm than.

      + Ca ngợi chiến công của các liệt sĩ qua các thời kỳ được nhân dân suy tôn, nhà nước ghi công.

      =>Tiếng reo không chỉ thể hiện tình cảm cá nhân, mà cao hơn, tác giả thay mặt cả nước đưa tang, cất tiếng ca ngợi công lao của các liệt sĩ. Tiếng khóc không chỉ khơi gợi nỗi đau mà còn khơi dậy tinh thần chiến đấu của những người đang sống.

      d.phần 4 – kết (ca ngợi linh hồn bất tử của các liệt sĩ)

      -Hai câu cuối thể hiện sự tôn kính thiêng liêng của tác giả đối với hình tượng nghĩa sĩ nông dân: Nước mắt anh hùng sao lau được =>;Nguyễn Đình Chiểu nước mắt chân tình.

      – Bài điếu văn kết thúc trong một nốt trầm buồn. Giọng điệu câu văn chưa trọn vẹn => giây phút im lặng, tiếng khóc thảm thiết của Đạo Chiêu, của bao người gửi đến các liệt sĩ đã hi sinh vì nước

      =>Ca ngợi đức tính của họ.

      3. Kết luận phân tích nhu cầu văn học của nhà từ thiện

      – Khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:

      + Nội dung: Xót xa cho một giai đoạn lịch sử dân tộc “nhục và vĩ đại”; ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, ngợi ca phẩm chất của người nông dân thời bấy giờ.

      + Đặc điểm nghệ thuật: giọng điệu tượng hình, bi tráng; lối văn xuôi chính luận tương phản và kết cấu tạo cảm giác trang nghiêm cho văn xuôi; ngôn ngữ trang trọng, dân dã, gần gũi đậm chất Nam Bộ.

      >>>Xem thêm: Đề cương phân tích mẫu về các nhà từ thiện trong tài liệu về nghèo đói

      Chọn văn bản mẫu hoặc bài viết từ thiện để phân tích

      1. Phân tích tài liệu của học giả cần càng ngắn càng tốt và số lượng mẫu là 1

      Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Nhưng cuộc đời ông không suôn sẻ, đến năm 1849 ông phải bỏ thi về quê chịu tang mẹ. Trên đường đi, ông bị mù vì bệnh đau mắt, sau đó đi dạy học, bốc thuốc và cuối cùng tham gia kháng chiến chống Pháp. Có lẽ vì ông hay tiếp cận với công chúng, nhất là nông dân, biết gian khổ nhưng với một vẻ đẹp bi tráng, luôn sẵn sàng hy sinh vì người nông dân Nam Bộ, nên ông đã viết nên một kiệt tác của một nhà văn. ” Văn từ thiện cần giốc” theo yêu cầu của Đỗ Quang

      Bố cục gồm bốn phần: bất ngờ, chính đáng, kết thúc và kết thúc. Bố cục của Ruan Tingzhao đã dựng nên một tượng đài bất tử về người nông dân trong mắt người đọc, người nghe.

      Ban đầu, Ruan Tingzhao đưa ra lý thuyết về sự sống và cái chết. Đó là đứng lên chống giặc ngoại xâm, vì tiếng súng giặc làm rung chuyển đất trời, nhưng lòng người đã lộ thiên đạo. Bằng phép loại suy, ông bày tỏ sự phẫn nộ của nhân dân trước cuộc xâm lược đất nước của mình. Ngoài ra, ông còn so sánh danh tiếng cày ruộng đánh giặc, mười năm chưa xong việc với việc đánh Tây, danh tiếng mười năm mang lại không thể như cái phao ra trận. , Tiếng tăm anh hùng như tiếng súng oai hùng vang cả một góc trời.

      Vì sinh tử, cùng với kẻ thù yêu nước, ghét thói như nông dân ghét cỏ, ông hận đến mức muốn ăn gan cắn cổ. Tư tưởng giặc ngoại xâm và “phá nước, diệt gia” sục sôi, giai cấp nông dân nổi dậy. Đó là những nông dân mồ côi làm ăn, chuyên cuốc, cày, bừa, luyện khiên, súng, đánh vạch, đánh cờ và các ngành quân sự khác mà họ chưa từng thấy hoặc chưa từng thấy. Ai đó đang đến, người sẽ bị bắt, và họ đang cố gắng tự nguyện ngừng chiến đấu trước khi trở thành quân nhân.

      Họ là những người nông dân dũng cảm, mang hình ảnh của những người anh hùng không sợ mũi nhọn, nghĩa khí, coi kẻ thù như không, kẻ thù không có gì cả. Vũ khí của họ tuy thô sơ gồm chữ thập ngoặc, đao, đao, mũ lưỡi trai, nhưng họ vẫn xông vào thân địch, đâm, chém, ra đòn hiểm ác. Summer Boys, tiếp theo là Eagles, Tin Ships, Bronze Ships with Guns and Explosives. Họ chiến đấu vì nước, vì dân nên họ sẵn sàng xa gia đình. Đây là những gì thực sự được đánh giá cao.

      Trong phần điếu tang, Nguyễn Đình Chào bày tỏ niềm tiếc thương và lòng yêu nước kiên cường đối với những người nông dân không quản ngại hy sinh trong chiến tranh. “Nhân vật của Changmiande, hay tấm thân bọc da ngựa; thế giới ngầm trăm năm, có điều muốn nói, chờ dao và hùm treo cổ”, vì vậy “già và trẻ là hai đường nhỏ” ”, “mẹ già ngồi khóc, trong lều lại thêm một ngọn đèn leo lét, “Vợ yêu chạy đi tìm chồng”. Đây là niềm xót xa, đau đớn và cảm thông cho người lính Ruan Tingzhao và tất cả những ai gặp hoạn nạn.

      Về phần kết, tác giả nhấn mạnh một lần nữa rằng phải tôn trọng hoàng đế, và khi kẻ thù đến, anh ta phải hết mình bảo vệ ngôi nhà và đất nước của mình như một kẻ tử vì nạn. Các anh hùng liệt sĩ dù có hy sinh cũng sẽ luôn đồng hành cùng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.

      Tóm lại, sự hy sinh trong văn chương của Nguyễn Đình Chào là tiếng kêu bi tráng của một giai đoạn đau thương và trọng đại trong lịch sử dân tộc, là bức tường thành bất tử cho những người nông dân cần được lắng nghe. Đặc biệt là đất nước thời chiến mà nhân dân cả miền Nam đã anh dũng chiến đấu và hy sinh. Văn xuôi cũng là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chất hiện thực, ngôn ngữ giản dị, trong sáng, sinh động.

      ➜Các em nên tham khảo thêm tài liệu Hướng dẫn đọc hiểu mà người học văn cần nắm để nắm vững hơn về ý nghĩa, nội dung, hiểu biết về ý nghĩa, nghệ thuật… của tác phẩm.

      2. Phân tích văn học sĩ cần nộp văn mẫu lớp 2

      Ruan Tingzhao là nhà thơ và nhà văn hàng đầu ở phương Nam thời Trung cổ, và là ngôi sao sáng của nền văn học quốc gia. Người đã để lại cho đời một sự nghiệp sáng tác đồ sộ thể hiện lí tưởng nhân nghĩa và lòng yêu nước sâu sắc. Trong hệ thống tác phẩm đó, chúng ta không thể không nhắc đến Văn tế thơ cần giốc, đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông.

      Văn tế nghĩa sĩ buộc phải ra đời trong bối cảnh thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Sau đó địch chống trả dữ dội, giết chết 20 liệt sĩ. Vào thời điểm đó, Du Guang, hoàng tộc của Jiading, đã nhờ Ruan Tingzhao viết bài văn tế và đọc nó trong buổi họp tưởng niệm liệt sĩ.

      Mở đầu tác phẩm, Ruan Tingzhao bàn về nguyên nhân của sự sống và cái chết: “Giặc tiếng súng vang, lòng người mới lộ/Mười năm gió mưa chưa chắc bằng phao nổi danh; chiến tranh với phương Tây, mặc dù nó đã mất đi tiếng vang như một con la.” Tác giả miêu tả một thời đại với nhiều biến cố và náo động: quân thù trang bị vũ khí tối tân tàn sát đồng bào miền Nam không biết bao nhiêu lần. Chính trong hoàn cảnh đó, lòng dân đối với nước bị thử thách. Người miền Nam lấy thân mình đánh giặc bất chấp sống chết. Họ sẵn sàng từ bỏ, hy sinh những gì quý giá nhất (tài sản, tính mạng) để đổi lấy danh lợi, tiếng tăm sẽ được truyền qua muôn đời. Như vậy là làm sáng tỏ chân lý của thời đại: thà chết vinh còn hơn sống nhục.

      Phần tiếp theo của tác phẩm, chân dung người anh hùng nông dân mộc mạc, đôn hậu nhưng đồng thời cũng rất dũng cảm, cứng cỏi. Trước khi có giặc ngoại xâm, họ chỉ là những người nông dân hết sức bình dị, sống bình dị, “làm ăn”, lam lũ, bon chen. Họ chỉ biết làng nghèo, nhưng họ không biết thế giới bên ngoài. Quanh năm không ngày nghỉ, những người nông dân ấy tất bật với công việc đồng áng: “Cày, cày, bừa, cấy mạ tôi quen rồi”, “Tập khiên, giáo, mác, cờ”. đã thấy “

      Nhưng khi quân xâm lược đến biên cương, nội tâm họ bình an, họ sẵn sàng đứng lên, quan niệm và cảm xúc của họ đã thay đổi rất nhiều. Đầu tiên là sự thay đổi tâm trạng. Họ đã nghe “tiếng gió và tiếng sếu bay lên trong hơn mười tháng” – tin tức rằng kẻ thù đang đến theo gió, họ đã nghe. Họ không chỉ nghe thấy tiếng nói của họ, mà còn ngửi thấy mùi đấu tranh: “Mùi cừu đã được sửa chữa trong ba năm”, và cuối cùng đã tận mắt chứng kiến ​​​​sự hung hăng và tàn ác của kẻ thù: “Khi tôi nhìn thấy những chiếc lốp xe màu trắng, tôi muốn ăn gan; Nhìn ống khói mỗi ngày đen kịt, chỉ muốn ra ngoài cắn cổ.”

      Lúc này nhận thức của họ đã thay đổi rõ rệt, nếu như người nông dân còn một lòng tin tưởng vào triều đình, mong quân “chờ mưa như hạn hán” thì ở đây họ đã nhận thức rất rõ về nền độc lập và sự an ninh của đất nước. đất nước. Danh dự; về kẻ thù – những kẻ xâm lược không có lý do gì tồn tại dưới ánh sáng của công lý, và họ ý thức được bổn phận của mình đối với đất nước: “Chờ ai hỏi bắt ai, lần này hãy cố gắng hết sức. kỳ, không thèm trốn chui trốn nhủi, chuyến này nhằm hổ”. Công việc tiên phong của họ thật tuyệt vời và đầy dũng khí.

      Thời Tây chinh, chúng không có binh pháp, chưa một ngày luyện võ, cúi đầu phục kích”,… Ngược lại, quân địch trang bị vũ khí tối tân được huấn luyện bài bản: “đạn dược”. Đạn nhỏ”. “xuất nhập”, “coi giặc như không”, “chết tận cửa như không”, “chém ngược”. Để dọa ma,…không sợ hãi trước sức mạnh của kẻ thù.Tác giả sử dụng liên tiếp các động từ mạnh, nhịp điệu nhanh, tạo cảm giác khẩn trương, khắc họa cảnh chiến trường ác liệt nhưng cũng toát lên vẻ đẹp của những người nông dân anh hùng: dũng cảm, ngoan cường, dũng cảm, nghĩa hiệp, kiên cường.

      Nhưng vũ khí hiện đại của kẻ thù đã làm cho biết bao liệt sĩ ngã xuống, đất nước tang tóc. Tiếng khóc thương của tác giả, người thân và của cả nước đối với sự hy sinh anh dũng của người anh dũng cũng là tiếng khóc thương cho số phận của gia đình, giờ đây họ sẽ bị giáng xuống làm nô lệ, cho kẻ thù của gia tộc. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ lòng ngưỡng mộ sâu sắc đối với những người anh hùng và những người nông dân nghèo khổ: “Ta thà làm giặc mà theo tổ cũng vẻ vang, còn hơn chịu theo Tây mà sống với chúng. mọi rợ, thật là khốn khổ.” Câu thơ không chỉ thể hiện niềm thương tiếc người đã khuất mà còn khẳng định những điều bất tử và mong được thế hệ mai sau tiếp nối. Vì vậy, bài thơ bi tráng, đáng thương chứ không bi lụy, yếu đuối.

      Câu thơ cuối khẳng định sự bất tử của người anh hùng nông dân cần được người khác thương tiếc và ngưỡng mộ. đồng thời biểu dương công lao của các liệt sĩ đã hy sinh vì đại nghĩa. Đặc biệt là câu: “Nước mắt anh hùng không lau được vì chữ trời người; hương thơm liệt sĩ càng thơm, chữ “cám” trong trời không chỉ diễn tả nỗi tiếc thương người đã khuất mà còn còn so sánh với sự ngầm hiểu của triều đình tưởng nhớ các liệt sĩ.

      Ngôn ngữ giản dị, chân chất, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày, đặc biệt là những câu nói đậm chất Nam Bộ. Tạo hình nghệ thuật – người anh hùng nông dân chân thực, chi tiết và sinh động, lần đầu tiên người nông dân hiện lên đẹp và trang trọng như vậy. Kết hợp hài hòa các chi tiết thể hiện tâm tư, tình cảm của tác giả, làm tăng chất trữ tình cho văn xuôi, đồng thời dễ đi vào lòng người đọc hơn.

      Nhà từ thiện Chanjiu đã khắc họa thành công một tượng đài bi tráng và bất tử của những người anh hùng nông dân bằng ngôn ngữ giản dị và giàu cảm xúc. Đồng thời, Ruan Tingzhao cũng bày tỏ sự ngưỡng mộ và tiếc thương đối với những thành tích và sự hy sinh bất khuất của họ thông qua các tác phẩm của mình.

      ➜Để có bài phân tích hay và đầy đủ, đừng quên xem thêm bình luận trên các bài viết về nhà hảo tâm

      3. Phân tích các giấy tờ của nhà hảo tâm cần nộp Mẫu 3

      “Trời có sao, ánh sáng khác thường… Mắt phải nhìn bằng tâm, càng nhìn càng sáng” là lời đánh giá dành cho đời và thơ của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhà thơ Ruan Tingzhao bị mù nhưng tâm luôn sáng. Nhắc đến ông, người ta không quên nhắc đến “Kẻ sĩ khao khát nhân tài”, một tác phẩm tiêu biểu và thành công nhất về văn phong, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Tác phẩm thể hiện lòng biết ơn, sự đồng cảm và ngưỡng mộ của tác giả đối với những người nông dân- những người nghĩa sĩ, những người cần lao dũng cảm tiến lên, hy sinh vì nước. Để phân tích văn bản một cách toàn diện và độc đáo nhất, chúng tôi đã lựa chọn con mắt và quan điểm yêu nước của nghĩa sĩ nông dân.

      Người nông dân Họ vốn là những người nông dân chất phác, nhưng giờ đây họ đã trở thành những chiến sĩ dũng cảm vì lòng yêu nước và kẻ thù, hy sinh trong trận trăng rằm. Tháng 11 năm 1861 – Thời điểm khó khăn trong những ngày đầu của cuộc chiến tranh chống Pháp.

      Tại sao lại thế này? Thông qua hai câu đối và bốn câu “chiến tranh với đất; lòng trời người đã lộ”, tuy ngắn gọn nhưng đã khái quát được hoàn cảnh, tình hình đất nước lúc bấy giờ. Năm 1858, thực dân Pháp lên đường xâm lược nước ta, thực hiện chính sách áp bức, bóc lột, đẩy nhân dân ta vào cảnh cùng cực. Câu nói trên cho ta thấy sự dã man của bọn thực dân. Chúng có vũ khí tối tân nhất, sức công phá dữ dội, tiếng đại bác vang trời. Điều này làm ta nhớ đến lời tố cáo tội ác của giặc Pháp trong bài “Trốn chạy giặc” của nhà thơ:

      “Chợ tan rồi nghe tiếng súng nổ

      Bàn cờ rơi xuống đất

      Trốn khỏi nhà

      Tổ sóc bị lạc

      Rongshui tại Qianmen

      Đại sơn đình ngói nhuộm mây”

      Giặc vô tình nã pháo không chừa một ai, chỉ có một cảnh. Sau “Guns of the West”, mọi thứ trở nên hoang tàn, đổ nát và hỗn loạn. địch thì chúng hiện đại hơn ta rất nhiều về trang bị, vật chất, quân số, nhưng ta chỉ có một lòng là truyền thống yêu nước quật cường của nông dân, của dân tộc Việt Nam. . Nghệ thuật đối lập nhỏ đã được sử dụng rất thành công với rất chính xác, rất chuẩn mực: mười năm – một trận chiến, công (vật chất) – nghĩa (tinh thần), chắc không nổi tiếng như chiếc phao – tuy đã mất như chiếc phao Tiếng vang với con la, khẳng định tinh thần quyết chiến quyết thắng, trên cơ sở đó nông dân mới xuất hiện. Tiếng kêu “ôi chao” quen thuộc bắt đầu buổi học. Xin cất lên lời tiếc thương và chia buồn cùng hương hồn các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh.

      Nhà thơ đã dùng điệp ngữ “nhớ hương xưa” để gợi nhớ và khắc họa hình ảnh những người nông dân đôn hậu, bần cùng – những người nông dân chất phác chất phác nhưng có tinh thần yêu nước mãnh liệt. Trước hết, họ là những người làm ruộng, nông dân, lao động cần cù, “ra làm ăn lo nghèo”, như Hoài Thanh đã nhận xét “trong một chữ”. Nhà thơ bày tỏ sự đồng cảm với người đàn ông độc ác và đáng thương này. Họ là những người thuần nông, ngoài công việc đồng áng “chỉ biết trại trâu”, họ bị hạn chế về không gian giao tiếp “ở làng quê” và những công việc nhà nông “cuốc, cày, bừa, làm v.v.” Họ biết bao nhiêu về gươm giáo, trường thương, “không quen cung ngựa thì học ở đâu”, “luyện thương, thương, mác, cờ chưa từng thấy”… Còn biết bao nhiêu là điều không biết, nhưng khi địch Khi nào triều đình không chống nổi giặc quấy nhiễu, họ bỗng trở nên anh dũng, trở thành anh hùng, nghĩa sĩ cứu nước.

      Lúc đầu, họ mong chờ một cuộc phản công từ triều đình. Nhưng khi đối mặt với nguy cơ, Ruochao đã để cho người của mình làm “tiếng gió và tiếng hạc lên xuống trong hơn mười tháng, như hạn hán và mưa”. Điệu “Hạc hạc” kinh điển được lấy từ câu “Phong thủy hạc, thảo gai bình” thể hiện sự lo lắng, căng thẳng, sợ hãi trước sự tấn công dữ dội của kẻ thù. Tuổi thơ chỉ biết trông chờ vào cha mẹ, về một đất nước thanh bình để được an cư lạc nghiệp, nhưng mười tháng tươi đẹp mòn mỏi chờ đợi. Tất nhiên, họ không thể mở mắt nhìn đất nước này rơi vào tay quân thù. Trước đó, người ta ghét họ chỉ vì “mùi chiên rán”, tức chỉ mùi hôi của giặc Pháp, với hình ảnh tương phản rất độc đáo “ghét thói tiểu nhân như nhà nông ghét cỏ”. Đây là một lý do rất tự nhiên. Lời lẽ rất trong sáng phù hợp với tâm lý, suy nghĩ của người nông dân. Khi “ngày nhìn bọt nước trên lốp xe trắng”, “ngày nhìn ống khói đen thui” mà “thèm muốn ăn gan”, “muốn cắn vào cổ” thì lòng căm thù càng được đẩy lên cao độ.

      Đau đến tột cùng, hận đến cùng cực, mãi cho đến cao trào của câu tiếp theo “Mối tình gắn bó không thể tách rời, để người khác chặt rắn đuổi nai; hai vầng nhật nguyệt chói lọi, không dung kẻ bán cừu, bán chó.” Truyền thống, điển tích, Hán Việt, đặc biệt là thành ngữ “trồng cừu, bán chó” thể hiện một cách rõ nét ý chí kháng giặc và con mắt tinh tường của nhân dân. Bộ mặt “khai hóa” và “truyền đạo” của giặc Pháp đã bị vạch trần, vạch trần dã tâm cướp nước ta.

      Truyền thống, tinh thần dân tộc và tội ác của giặc Pháp đã thôi thúc họ một lòng đứng lên chống Pháp cứu nước. Tinh thần và sức lao động của họ đã gây ấn tượng với nhà thơ, điều này hoàn toàn trái ngược với sức mạnh của những người nông dân. Bọn chúng không đợi ai ra lệnh bắt mình mà chủ động tấn công, “Lần này ta cố hết sức không đánh, cũng không thèm trốn, lần này là cọp.” của hành động, động từ, động từ đã thể hiện tinh thần chiến đấu.Khí thế phương Đông của thời đại. Họ “lũy bùn đứng dậy” chiến đấu, trên tay cầm những vật dụng bình dị như quần áo thường dân, áo măng tô, cung rơm, dao phay và những dụng cụ lao động hàng ngày khác của người nông dân… Họ không có dòng máu quân nhân, có không huấn luyện, không tổ chức, không Chỉ huy, không đội ngũ, không kỷ luật, không vũ khí thô sơ.

      Chính những cái “không” đó làm nổi bật cái “có” vô giá tiềm ẩn trong những người túng thiếu. Vì họ có ý chí quyết tâm chống giặc, có lòng yêu nước trường tồn, có lòng căm thù giặc vô hạn. Điều đó đã tạo nên sức mạnh vô song cho họ, cho phép họ xông pha hàng rào, bất chấp kẻ thù, không sợ đạn to, đạn nhỏ mà liều mạng lao vào như không có chuyện gì xảy ra để rồi bị chém gục ngay tại chỗ. qua rồi lại tấn công trở lại, làm cho quân địch khiếp sợ. Giọng hào hùng sôi lên ở những chỗ ngắt nhịp, nhịp điệu dồn dập, gấp gáp đi kèm với những động từ mạnh, giọng điệu mạnh mẽ như “đạp rào”, “đập cửa mà vào”, “đập qua húc lại”.Niềm tiếc thương của nhà thơ đối với người liệt sĩ đã khuất được thể hiện ở câu mở đầu đoạn 3 “rất thương”. Từ “Ôi” xuất hiện ở cuối thể hiện lòng thương xót và lời cầu nguyện của linh mục. Âm điệu buồn như rơi vào vực thẳm đau thương. Tác giả cảm thương cho những con người phải “ăn tuyết nằm xương” làm lụng vất vả “khi mưa rơi gió đổ”. Ông khẳng định ý chí kiên cường của dân tộc “quy về tổ tiên, vinh quy bái tổ”, không chịu nhục làm nô lệ.

      Đằng sau tiếng kêu oang oang, tiếng khóc thê lương là tâm tư nguyện vọng của tác giả. Ông mong đất nước thái bình, dân đen hết nghèo khổ, dân tộc hết giặc ngoại xâm. Mặc dù bị mù và không thể tham gia trận chiến, Ruan Tingzhao vẫn gặp thủ lĩnh của quân nổi dậy để thảo luận về kế hoạch chiến đấu chống lại kẻ thù. Giặc xâm lược phương nam, ông ở lại dụ dỗ mua chuộc nhưng bị người kiên quyết cự tuyệt, dốc lòng vì nước.

      “Văn nghệ huynh đệ” là tác phẩm văn xuôi thành công nhất trong thể loại văn học của Nguyễn Đình Chiêu. Văn xuôi, cùng với những tác phẩm nghệ thuật được sử dụng nhuần nhuyễn và đắt giá, đã có một đóng góp mới cho nền văn học nước nhà. Một là đóng góp mới: hình tượng người nông dân Việt Nam lần đầu tiên đi vào văn học ở dạng thuần khiết nhất, có cử chỉ, dáng vẻ, tính cách, tình cảm, tình cảm rõ nét. Đề tài có liên hệ với thực tế đất nước lúc bấy giờ. Đáng chú ý là hệ tư tưởng của tầng lớp trung lưu đã chuyển sang tăng tính hiện thực và giảm “vũ khí” lý tưởng. Tác phẩm này đã biến văn học giai đoạn này thành vũ khí chống lại kẻ thù, chống lại tư tưởng đầu hàng và phản động tay sai, phản bội.

      Thứ hai, các kỹ thuật nghệ thuật đắt giá được sử dụng thành công. Văn xuôi tự sự được viết theo thể thơ, có vần và độc. Từ biểu đạt trực tiếp, gọi tên các trạng thái khác nhau như buồn bã, đau buồn và đôi khi là tự hào. Việc sử dụng các cụm từ sinh động, gợi cảm: cút, luồn lách, thiểu não, lười biếng,… ngôn ngữ giản dị, đậm màu sắc đồng quê Nam Bộ: cút, đốm, nơ rơm, dao phay… kết hợp tài tình với điển cố điển tích, ước lệ biểu tượng, chẳng hạn : tiếng hạc, cừu hương, mối, rắn, hươu đuổi… Đặc điểm của thể loại văn tế được thể hiện rõ nét qua câu văn, cấu trúc ngữ âm giống nhau: “chờ / phải / thôi / đừng đợi / đừng đợi … ” Phép tương phản hai tầng được sử dụng thành công trong nghệ thuật là ” súng hỏa mai… …/đâm người… hè năm trước… tiếng súng”. Giọng điệu linh hoạt, có lúc hùng tráng, thiết tha, có lúc bi tráng, Đau đớn khi nói về mất mát, đau thương.

      Chính những điều đó đã tạo nên hình ảnh người nông dân nghĩa tình – người anh hùng dám hi sinh vì đại nghĩa, với tấm lòng yêu nước nồng nàn “đã tạo thành một ngọn sóng vô cùng mạnh mẽ, vô biên, bấp bênh, khó khăn, Nuốt chửng cả thủy và nước trộm.” Với tinh thần ấy, con người ấy đã trở thành hình ảnh đẹp, đáng ngưỡng mộ, tấm gương sáng cho thế hệ trẻ Việt Nam. Nếu nói trước khi thực dân Pháp xâm lược, thơ, văn của Đỗ Triệu chủ yếu là tiểu thuyết, nhân vật tiêu biểu là Lỗ Vấn Thiên, truyền bá tư tưởng đạo đức nhân văn, thì sau năm 1858, Đỗ Triệu là lá cờ đầu của cuộc kháng chiến chống Nhật. Thơ ca Pháp đề cao chủ nghĩa yêu nước đầu thế kỉ XIX. Sự hy sinh đã khiến Ruan Tingzhao, một ngôi sao sáng, thực sự tỏa sáng trên bầu trời nghệ thuật dân tộc theo cách riêng của anh.

      ➜ Đọc thêm các bài viết mẫu và cảm nhận sự tri ân đến các nhà hảo tâm

      4. Phân tích các giấy tờ nhà hảo tâm cần thiết để gửi mô hình 4

      Ruan Tingzhao sinh ra trong Nho giáo. Năm 1846, ông về Gia Định mở trường, dạy dân bốc thuốc, chữa bệnh và làm thơ. Khi giặc Pháp cám dỗ, ông vẫn một lòng trung với nước, với dân. Văn thơ của ông chan chứa đạo đức và lý tưởng nhân nghĩa cao cả, một con người nhân nghĩa, trung nghĩa, biết giữ liêm sỉ, một nhân cách cao thượng, dám đấu tranh, đủ sức chiến thắng các thế lực man rợ. Cứu nhân loại.

      Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một tác phẩm như thế. Bài thơ này là tiếng khóc thương tâm của tác giả và tiếng khóc anh dũng hy sinh của nhân dân. Văn tế Văn tế là thể văn thường dùng khi cúng tế người chết, và nó có hình thức tế lễ là văn tế. Bài văn tế có các phần: bốc điếu là cảm niệm chung về người quá cố, nhắc lại công đức của người quá cố, thương tiếc người quá cố, phần kết nêu ý nghĩa và lời mời của thầy cúng đối với người quá cố. Một bài luận về nhà từ thiện cần phải có bốn trong số các phần này.

      Mở đầu bằng một lời than thở:

      “Ôi tiếng súng giặc rống trong lòng dân trên trời”

      Tiếng khóc nghe đau đớn quá. Tiếng than thở ấy gợi lên hình ảnh tang tóc, chết chóc, của chiến tranh tàn khốc với những người tử trận. Chúa biết tấm lòng và nỗi đau buồn trong lòng thân nhân của những người đã chết trong chiến tranh. Tiếng kêu thảm thiết của tác giả xuất phát từ nhiều nguồn cảm xúc. Đó chính là thái độ ngưỡng mộ, cảm thông vô hạn của tác giả đối với những người nghĩa sĩ nông dân. Các chi tiết “thoát xác”; “chờ gươm đội mồ” khẳng định người chiến sĩ cũng chỉ là những con người bình thường, nhưng vì tình yêu đất nước mà sẵn sàng lên đường.

      Bên cạnh đó, tác giả còn miêu tả hình ảnh những người lính với vẻ đẹp của “người quê mùa”, “áo vải ngoài chỉnh tề”, “tay cầm đuốc trong tay”. Đó là hình ảnh những con người chân lấm tay bùn, cơm không đủ ăn, không đủ mặc. Còn cuộc sống đời thường của họ, được tác giả miêu tả bằng câu văn dễ hiểu, không dính chữ, dường như là những người “làm quan không lo nghèo”, “không quen cung ngựa”, “công việc cuốc, cày, cào, cấy; tập khiên, giáo, thương, cờ, mắt tôi chưa hề thấy”.

      Từ đó cho chúng ta cái nhìn toàn diện nhất về người nông dân nước ta. Họ là những người dân lao động bình thường, họ rất trung thực, họ không muốn tranh giành, không muốn cướp bóc, không muốn xâm lược nước khác để làm giàu, nhưng họ hài lòng với cuộc sống khốn khổ của mình, mà là khó khăn nhưng hòa bình. Có lẽ ước mơ lớn nhất của họ là có đủ ăn. Tuy nhiên, khi đất nước đang lâm nguy và đạn pháo của kẻ thù đang bắn phá khắp thế giới và bờ cõi của Tổ quốc, họ bỗng hừng hực khí thế phản kháng.

      “Súng” cho thấy đối phương đang sử dụng vũ khí rất tối tân chứ không phải chùy, khiên, mác, cho thấy vũ khí của hai bên rất khác nhau. . Nhà văn đã miêu tả vẻ đẹp của những con người yêu nước một cách giản dị như sau: “Hơn mười tháng gió ầm ầm, mưa nắng như hạn, Ba năm hôi của chiến tranh đã hàn gắn, Người căm ghét mọi thói đời. một con ma ghét cỏ.

      “Thấy bánh xe trắng muốn ghé qua ăn gan. Thấy ống khói đen xì muốn chui ra cắn cổ”. Vì vậy, dân làng dù trong tay có áo vải, có gậy tre nhưng vẫn sẵn sàng xả thân vì đại nghĩa, ngược lại gươm phay cũng chém đứt đầu hai gia đình”. con rể khua chiêng thúc giục, phải bước qua hàng rào mới thấy rõ quân thù, còn liều mạng xông vào không sợ bọn Tây bắn đạn nhỏ đập cửa, chúng không có ở đó ” và v.v. Đại bàng, xe lửa và súng đã khiến mùa hè khiếp sợ trước khi chúng vang lên.

      Tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh quân khởi nghĩa. Đoạn văn miêu tả xuất thân, ngoại hình và hành động của những người nông dân cho thấy họ chỉ là những người dân bình thường, chất phác, cần cù lao động, nhưng khi nước có giặc, họ đã dũng cảm gánh vác trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc và sẵn sàng hi sinh vì nước. . Người nghệ sĩ thể hiện rất tỉ mỉ hình ảnh người nghệ sĩ từ những trang thiết bị đơn giản, hành động dũng cảm, sẵn sàng xả thân vì nước.

      5. Phân tích tình anh em của nhà thơ yêu cầu tóm tắt ngắn gọn bài văn mẫu số 5

      Có lẽ với những người yêu văn chương, đề tài nông dân đã quá quen thuộc, và nó đã trở thành đề tài “chọn mặt mà phát tài” của nhiều “cây bút”. Chúng ta có một anh nông dân mất hết “nhân tính, nhân tính” khi xã hội đẩy anh đến bờ vực của “chí phèo” – Nan Cao. Hay hình ảnh chú gà trống “chạy ra giữa trời tối, đen như tương lai của mình!” Tuy nhiên, trong “Tắt đèn” của Ngô Dã Từ, lần đầu tiên Nguyễn Đình Chào viết vào văn học Việt Nam qua “văn chương”. của một nhà từ thiện”. Một tượng đài uy nghi đối với người nông dân. Ngoài việc khắc họa hình ảnh bi tráng, hi sinh quên mình của những người nông dân chống Pháp, bài cống còn là nỗi lòng, nỗi xót xa của tác giả đối với những “người anh hùng áo vải”.

      Bài hát ra đời trong bối cảnh thực dân Pháp đang “tung hoành” trên đất nước ta. Sau khi quân Pháp chiếm đóng Jiading Castle, họ bắt đầu xâm chiếm các khu vực lân cận, chẳng hạn như Xin’an, Cang Yue và Manggong. … Ngày 16 tháng 12 năm 1861, vì phẫn nộ, những người nông dân cần lao đã tiến lên phục kích đồn Pháp và tiêu diệt một toán quân Pháp, nhưng rất tiếc khoảng 15 dũng sĩ đã hy sinh và Nguyễn Đình Chiểu đã bị giết chết bởi cái chết này, ông đã viết bài “Văn tế nghĩa sĩ” để đọc lời truy điệu cuối cùng cho các dũng sĩ.

      Mở đầu bài viết, tác giả đã tố cáo tội ác của bọn thực dân:

      “Chúa ơi!

      Súng nổ trời đất, lòng trời nhân tỏ…” Tiếng súng nổ vang trời, chấn động địa cầu. Nhưng từ trong cơn nguy biến mới thấy được bản lĩnh, đức độ của những người nông dân bình dị. Hành động của họ là vì thiên hạ “xác nhận” được sử sách ghi lại, là “chính nghĩa chống Tây Hi, tuy thân như la ngựa mất tiếng”, mấy dòng đầu tác giả đã trực tiếp ca ngợi hành động anh hùng của những người nông dân.Để đánh đuổi quân xâm lược, họ sẵn sàng hy sinh thân mình.

      Ý thức hy sinh từ việc khẳng định người nông dân gặp khó khăn. Tác giả chuyển sang miêu tả hình ảnh của họ trong cuộc sống và công việc hàng ngày, cũng như cảnh họ trở thành những anh hùng chống lại kẻ thù và có những cống hiến:

      Nhớ hồn xưa:

      Mồ côi lao động, lo nghèo đói”

      Họ chỉ là những người nông dân chất phác, hiền lành quanh năm “bán mặt, bán đất, bán lưng” cho trâu bò, cả rừng tre làng xóm suốt ngày. Trước đây tôi chỉ ham làm ăn, chỉ mong “kiếm sống”. Họ chỉ biết “cuốc, cày, bừa, cấy, riết rồi quen tay”, bởi đó là những công việc mà người nông dân phải làm hàng ngày. Nhưng những người lính “không quen với cung và ngựa, vậy học cashmere ở đâu”, và “tập khiên, giáo, mác và cờ cho họ, và họ chưa bao giờ nhìn thấy mắt họ.” Ruan nông dân có thể nhìn thấy nó. Ding Ding chỉ làm công việc đồng áng và chưa bao giờ có “kinh nghiệm” với súng. Mặc dù bản thân anh ta không phải là một người lính lành nghề, anh ta cũng không phải là người có thể sử dụng vũ khí thành thạo. Tuy nhiên, những người anh hùng ấy vẫn anh dũng rèn luyện, đứng lên chiến đấu chống lại kẻ thù. Mọi hành động của họ đều xuất phát từ lòng căm thù tội ác của kẻ thù.

      Tác giả cũng tinh tế chỉ ra rằng một trong những nguyên nhân khiến nông dân đứng lên là “ hạc lên hạc đã hơn mười tháng, như nắng hạn chờ mưa”. phản kháng trước tội ác của giặc Bất lực buộc nông dân phải “chửi bắt ai thì ra sức cản ngay” Nếu không muốn xuôi ngược, chuyến này nhất định sa vào nanh cọp .”

      Bằng cách liệt kê, tác giả cho thấy tinh thần đấu tranh ngoan cường của người nông dân. Họ sẵn sàng đứng lên đấu tranh thay vì “ẩn mình” hèn nhát, nếu dùng hình ảnh người nông dân ngày xưa “xuống thuyền khóc như mưa” – có phần yếu đuối, gượng ép về tinh thần thì ở đây ta thấy hình ảnh của nông dân đấu tranh hoàn toàn tự nguyện, tự giác, không chịu sự chi phối của bất kỳ thế lực nào khác. Đây là một trong những lý do khiến vẻ đẹp của người nông dân nghèo khác với những người nông dân khác.

      Có thể thấy, những người nông dân trong “Văn tế huynh đệ” không chỉ phải luyện kiếm thành thạo để chiến đấu, mà đức hy sinh ở họ còn thể hiện qua cách họ vượt qua khó khăn. Vừa “lên đồ” mà chẳng đợi trang bị bảo hộ xong đã lao vào chiến :

      “Ngoài thận, còn có quần áo dân sự để mặc trong bao da;

      Tay cầm đuốc, chỉ xin dao gõ mũ. Tác giả Ruan Tingzhao dẫn dắt người đọc từ từ khám phá tính cách bên trong của người nông dân. Nếu bài viết trên là sự khâm phục ý chí sắt đá và hun đúc tinh thần quyết chiến của nông dân, thì tác giả bài viết sau tái hiện chân thực khí thế sục sôi khi giết giặc, như thể tinh thần này “dìm cả lũ buôn nước, cướp nước”. . (“Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” – Hồ Chí Minh).

      “Đánh trống, đạp rào, tiến lên, xem địch chẳng ra gì;

      Ai sợ Tây bắn đạn nhỏ đạn lớn, xô cửa xông vào, liều mạng

      Đâm ngang, chém dọc, lén lút;

      Đầu tiên là Xia Tian, ​​sau đó là Eagle, để pháo hạm nổ tung.

      Sử dụng biện pháp liệt kê, tác giả liên tục đưa ra những hành động phản chiến của nông dân “trống, trống, ào”, rồi “chặt ngang, chặt dọc”, lớp lớp diễn ra khẩn trương, khẩn trương, dồn dập. háo hức.Các nghĩa sĩ hành động thích đánh giặc. Nhạc điệu bài thơ dần trở nên hào hùng, như một trận cuồng phong quét qua chiến trường. Tinh thần chiến đấu ngày càng sục sôi, ngày càng cao.

      Nhìn lại hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, khi thực dân đánh nước ta, triều đình Huế nhu nhược, chưa có thái độ đối phó với giặc. Tự ý đầu hàng, bám lấy ngai vàng, coi thường trách nhiệm giữ nước. Nông dân cả nước, đặc biệt là “quân nhân” cần lao đã đứng lên đấu tranh đòi tự do và bảo vệ bờ cõi. Tuy nhiên, sự chênh lệch lực lượng giữa địch và ta đã khiến một số nghĩa sĩ ngã xuống. Tuy nhiên, “cái tôi” của họ là một nghĩa cử anh hùng dũng cảm tiến lên, đánh đuổi quân xâm lược, bảo vệ đất nước.

      Sự hy sinh này là sự tiếc thương của Ruan Tingzhao đối với những người đã khuất, đồng thời cũng là sự cảm thông, chia sẻ đối với những người thân trong gia đình của những “anh hùng” buộc phải “dừng bước”:

      “Đau quá! Bà già tôi còn nhỏ hay khóc, lều trại đèn ngủ chập chờn;

      Hồi hộp quá! Người vợ yếu ớt chạy đi tìm chồng, bóng anh khuất dần trước ngõ. “

      Còn gì đau đớn hơn cảnh mẹ con bị chồng ly hôn! Không có gì đau đớn hơn sự mất mát của một người thân yêu. Liệt sĩ càng anh dũng, không biết sợ hãi bao nhiêu thì người đọc càng căm phẫn, căm phẫn bấy nhiêu. Tiếng kêu xé trời của tác giả là tiếng kêu đòi độc lập dân tộc. Nguyễn Đình Chiểu có ví von khá hay, “mẹ già” giờ như “ngọn đèn giữa khuya”.

      Đêm khuya mẹ nào cũng có con cần được chăm sóc, che chở, mẹ nào cần giúp đỡ chỉ biết khóc. Những người mẹ đó đang leo núi, đói khát và không biết tìm ai vì không tìm thấy con của họ. “Những người vợ yếu đuối” như “bóng ngoài ngõ” vì không tìm được cho mình một trụ cột để dựa vào. Họ vật vã, chao đảo vì bỗng dưng mất đi một phần đời rất quan trọng. “Lười biếng” cũng có thể là sự chờ đợi, đợi chồng về mà không có nơi nào để đi! Những anh hùng ấy đã hy sinh vì sự nghiệp chống giặc Pháp, vì lý tưởng bảo vệ non sông. Hai câu trên nghe sao buồn quá, sao bùi ngùi cho những nghĩa sĩ hoạn nạn!

      Với lòng cảm phục và tiếc thương trước anh linh các anh hùng liệt sĩ, tác giả đã có một phút lặng người khi đọc bài thơ. Suy cho cùng, tác giả vẫn chưa bằng lòng trước những nghĩa cử anh hùng của các nghĩa sĩ đã làm cho Tổ quốc, cho nhân dân.

      “Ta sinh ra để đánh giặc, thác cũng đánh giặc. Hồn theo quân thề muôn năm;

      Sinh ra để thờ vua, Feipu cũng thờ vua, giáo lý rõ ràng và một từ ấm áp đủ để nói lên sự khác biệt.

      Nước mắt anh hùng không lau được, tiếc thay lời trời;

      Hương thánh nhân lời nước hương thơm. “

      Mở đầu hi sinh cũng là anh hùng liệt nữ, đến cuối bài họ vẫn sống mãi với giang hồ. “Người lính gặp nạn” thực sự là một hình ảnh sống động của những con người bình dị sẵn sàng đứng lên bảo vệ Tổ quốc. Hình ảnh “thà chết vinh chứ không chịu sinh nhục” là tấm biển vàng của chủ nghĩa anh hùng nông dân.

      Sử dụng thể loại hy sinh, Ruan Tingzhao sử dụng ngôn ngữ đơn giản và giản dị và giọng điệu buồn để khắc họa bức chân dung vị tha của một “người lính gặp nạn” dũng cảm. Ở họ, sự thiếu thốn gian khổ, sự khắc nghiệt của huấn luyện vũ khí không làm nhụt chí các chiến sĩ mà ngược lại, tinh thần sôi nổi, ý chí xung phong, quyết tâm đánh trả quân thù ở họ. Dù cuối cùng một số anh hùng của chúng ta đã ngã xuống, nhưng sự hy sinh ấy là tiếng nói cao cả cho những người dù “thấp cổ bé họng” vẫn có quyền lên tiếng.

      • Hướng dẫn chi tiết cách viết bài văn tế ngắn gọn nhất
      • Phân tích sơ đồ tư duy về nhu cầu văn học của các nhà hảo tâm

        Xem thêm: Bản đồ tư duy về sức mạnh mà các nhà từ thiện văn học cần có

        Mở rộng kiến ​​thức

        Giới thiệu phong cách

        – Văn hiến hay còn gọi là văn tế, văn tế, văn tế, là một thể loại của văn học Việt Nam. Thể loại này thường được sử dụng trong Vương Giả, Cáo, Văn Học Nghệ Thuật….

        – Văn nói chung là loại văn đọc theo nghi thức cho người chết (và, trong một số trường hợp cá biệt, đọc cho người sống) nên nó có một hình thức thực tiễn – thưởng thức.

        —Nói một cách hình thức, văn xuôi văn học có thể là thơ, văn xuôi và văn xuôi. Tuy nhiên, vì văn học có thể được viết theo nhiều cách, tùy thuộc vào thể loại mà tác giả chọn, nó phải tuân theo các quy tắc của thể loại đó.

        Điều kiện viết điếu văn liệt sĩ

        Năm 1859, giặc Pháp tấn công Gia Định, nhân dân Nam Bộ nổi dậy chống giặc. Đêm 14-12-1861, trận chiến nổ ra gây cho địch nhiều tổn thất nhưng cuối cùng quân ta cũng thất bại. Đêm 16-12-1861, trong trận đánh đồn Cần Thơ, 20 tên phản loạn bị tiêu diệt, Đoàn Đình Chao nhờ Nguyễn Đình Chao viết văn tế này để chia buồn cùng các nạn nhân và ghi công. Trở thành một nông dân anh hùng.

        Bài viết về nhà từ thiện cần một số bình luận về hoạt động từ thiện

        – “Ngòi bút, chính là linh hồn trung thành của Nguyễn Đình Chiêu, đã thể hiện một cách sinh động và sâu sắc tình cảm của dân tộc đối với người lính. Người lính từng là nông dân, chỉ cày cuốc, bỗng chốc trở thành anh hùng cứu nước. .. Tri ân liệt sĩ đã là quá khứ Khúc ca anh hùng mà vẫn tự hào”…

        (Phạm Văn Đông)

        – “Qua sự hy sinh này, lần đầu tiên văn học Việt Nam tôn vinh những người anh hùng. Đây là đỉnh cao về nội dung và nghệ thuật trong sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu”…

        (phân Lezhi)

        -/-

        // Trên đây là tuyển chọn5 bài văn phân tích tác phẩm văn học hay mà chúng tôi sưu tầm được. Chúc các bạn soạn bài thật tốt và đạt điểm cao. Các em đừng quên tham khảo thêm các bài văn mẫu khác trong Thư viện bài đọc hiểu lớp 11 nhé.

Kiểm tra tiếng Anh trực tuyến

Bạn đã biết trình độ tiếng Anh hiện tại của mình chưa?
Bắt đầu làm bài kiểm tra

Nhận tư vấn lộ trình từ ACET

Hãy để lại thông tin, tư vấn viên của ACET sẽ liên lạc với bạn trong thời gian sớm nhất.