Phân tích hoàn cảnh lẻ loi của người chinh khách, để thấy được nỗi cô đơn, buồn tủi của đôi trai gái này. Sau đây là dàn ý chi tiết bài văn phân tích hoàn cảnh cô đơn của Chinh Phục, với một bài văn mẫu phân tích hoàn cảnh cô đơn của Chinh Phục siêu xuất sắc, hi vọng các em học sinh có thể tham khảo.

  • Tập 2 hoặc chọn lọc 3 bài báo phân tích đầu tiên
  • Phân tích 5 bài mẫu đầu khổ thơ 1 rất hay
  • Tác giả Đặng Trần Côn đã khắc họa một cách sinh động cảnh cô đơn của người chinh phụ qua những vần thơ người chinh phụ ngâm. Tác giả chỉ sử dụng hơn 400 câu thoại dài ngắn như cú pháp để diễn tả một cách tinh tế những diễn biến tâm trạng của người vợ trong cuộc chiến của người chồng, cũng như nỗi buồn và cảm thán về hạnh phúc của vợ chồng. Bài viết này hoatieu muốn chia sẻ dàn ý phân tích nỗi cô đơn của kẻ chinh phụ, phân tích ngắn gọn nỗi cô đơn của kẻ chinh phụ, phân tích nỗi cô đơn của kẻ chinh phụ, 16 câu đầu giúp bạn đọc dễ hiểu hơn và hiểu được điều tác giả muốn gửi gắm qua đoạn thơ.

    1. Phân tích ngắn gọn hoàn cảnh lẻ loi của người chinh phụ

    I. Lễ khai trương

    – Giới thiệu tác giả Đặng Trần Côn và dịch giả Đoàn Thị Điểm: tên tuổi, nhân vật, sự nghiệp văn chương

    – Giới thiệu tác phẩm của nhân vật chính (hoàn cảnh sáng tác) và đoạn trích nói về hoàn cảnh lẻ loi của nhân vật chính (địa điểm, nội dung đoạn trích).

    Hai. Nội dung bài đăng

    1.16 câu đầu: nỗi cô đơn và cảm giác lẻ loi của kẻ chinh phụ.

    A. Hành động lặp đi lặp lại nhàm chán, vô vị.

    -“Lặng bước từng bước”: Lặng lẽ bước đi trên hành lang vắng.

    -“Mời phen”: vào nhà cuốn màn, giăng màn

    → Động tác lặp đi lặp lại không chủ ý, thể hiện sự bất lực và không chắc chắn của kẻ chinh phục

    – Từ “Ông Vắng”: nó không chỉ gợi lên sự tĩnh lặng của không gian mà còn bộc lộ sự trống vắng nội tâm của người chinh phụ

    Thức dậy chờ tin chồng

    – Ban ngày:

    <3

    + Nhưng thực tế thì “biện pháp không nói”: tin chồng vẫn im thin thít.

    – Buổi tối:

    <3

    +Hiện thực: Các câu thơ “Chiếc đèn không biết” và “Lòng tôi buồn” có một hình thức đặc biệt là trước khẳng định rồi lại phủ định, ngọn đèn có biết không, bởi nó chỉ là một vật vô tri vô giác, không thể hủy diệt. Trái tim của kẻ chinh phục.

    + So với câu ca dao “Chiếc khăn piêu nhớ ai” thì bài ca dao này cũng có hình ảnh chiếc đèn lồng. Nếu “đèn” trong ca dao là người bạn tâm giao với người phụ nữ thì “đèn” lập lòe ở đây lại hằn sâu nỗi đau trong lòng người.

    – So sánh hình ảnh “Đèn lồng” và hình ảnh “Bóng người”.

    + Ngọn bấc thực chất là than củi. Giống như ngọn đèn cháy hết sức chỉ có hoa tàn, người phụ nữ kiên nhẫn đợi chồng nhưng cuối cùng nhận được là sự cô đơn, trống vắng.

    + liên quan đến nỗi cô đơn của thuý kiều khi từ biệt chú và trở về với chiếc bóng ngôi sao năm cánh:

    “Thuộc về người năm thước bóng / Kẻ một mình đi ngàn dặm”

    Nhận thức bất thường của kẻ chinh phục về môi trường bên ngoài.

    -“tiếng gà gáy”, “sương”, “và”: là những hình ảnh gắn liền với cuộc sống thôn quê thanh bình, bình dị

    -Từ “eo sèo, bồng bềnh”: một cảnh hoang vu, lạnh lẽo, rùng rợn ở cực tả.

    → Dưới con mắt cô đơn và trống rỗng của kẻ chinh phục, cảnh sinh hoạt bình thường ban đầu trở nên dị thường, hoang vu và lạnh lẽo. Đó là cách tả cảnh để gợi tình.

    Cảm nhận khác thường về thời gian của Kẻ chinh phục.

    -“tiếng dài”, “sông trầm”: diễn tả sự lan tỏa của nỗi nhớ nhung vô tận.

    – Biện pháp tương phản kết hợp với từ gợi hình, xúc động “dài ơi là dài” cho thấy cảm giác khác thường về thời gian, từng phút từng giây trôi qua ngắn ngủi mà nặng trĩu. Giống như năm dài, thời gian càng dài nỗi buồn càng nặng.

    → Một bài thơ cực tả nỗi cô đơn tột cùng của kẻ chinh phu

    Cố gắng duy trì các hoạt động của cuộc sống hàng ngày.

    – Điệp từ “đấu tranh”: Nhấn mạnh nỗ lực phấn đấu của kẻ chinh phục

    – Mâu thuẫn giữa lý trí và tình cảm:

    + Thắp hương tìm sự tĩnh lặng nhưng tình cảm lại vô ích, tư tưởng lo lắng, linh cảm chẳng lành

    +Soi gương, chị thấy nước mắt giàn giụa trên mặt.

    + Cố gắng hồi tưởng lại ký ức của cặp đôi bằng cách chơi đàn hạc, nhưng lại sợ xui xẻo. Lo lắng không chỉ thể hiện sự cô đơn mà còn là niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.

    ⇒ Phụ đề:

    – Nội dung: Khắc họa tâm trạng cô đơn, lẻ loi, trống trải của người phụ nữ, ẩn chứa sau đó là thái độ cảm thông, sẻ chia của tác giả trước những nỗi khổ đau của con người.

    – Nghệ thuật:

    <3

    + Thông qua hành động của nhân vật, các yếu tố bên ngoài và độc thoại nội tâm, nội tâm của nhân vật được khắc họa một cách tinh tế và sắc sảo

    + Biện pháp tu từ: so sánh, điệp ngữ, vu khống.

    2. Nỗi nhớ của kẻ chinh phục.

    A. Điều ước của kẻ chinh phục.

    – “Đông Phong”: làn gió xuân mang hơi ấm và sức sống

    – “Chưa giải quyết”: Chuyện chỉ về miền xa

    -“Ngàn vàng”: ẩn dụ cho tấm lòng của người chiến thắng (nỗi buồn, cô đơn, lo lắng, trống rỗng, hi vọng rồi lại thất vọng)

    →Thể hiện ước nguyện của kẻ chinh phu bằng những ẩn dụ và câu chuyện, mong gió xuân nơi chiến trường xa sẽ khiến kẻ chinh phạt thấu hiểu và cùng mình trở về.

    Nỗi nhớ của kẻ chinh phục

    -Biện pháp điệp liên hoàn “Bâng khuâng-Trẻ thơ-Thiên đường”: nhấn mạnh khoảng cách quá lớn, những trở ngại không thể lấp đầy, đồng thời là nỗi nhớ da diết, nỗi đau nội tâm. người chinh phục phụ

    – Từ “sâu thẳm, nhức nhối”: nỗi nhớ ở mức độ cực tả, sâu lắng là nỗi nhớ da diết, dai dẳng, da diết, da diết là nỗi nhớ gắn liền với nỗi đau, nỗi sầu.

    <3

    →Tác giả tinh tế, nhạy cảm và hài hòa.

    Mối quan hệ giữa ngoại cảnh và cảm xúc.

    -“Cảnh buồn”, “cảm động”: Cảnh và người gặp nhau trong xót xa, đau đớn

    – Cảnh vốn là vật vô tri nhưng tâm trạng con người đã bị cảnh nhuộm màu.

    <3

    ⇒ Phụ đề.

    – Nội dung: Khắc họa nỗi sầu đau, hoài niệm của kẻ chinh phu, đằng sau đó là sự đồng cảm, trân trọng của tác giả đối với số phận và phẩm giá của người phụ nữ

    – Nghệ thuật:

    + Sử dụng các hình thái tu từ ẩn dụ, thông tin liên tục và cụm động từ

    + Mẹo viết cảnh yêu đương

    + giọng buồn, nhẹ nhàng

    Ba. Kết thúc

    – Tóm tắt nội dung và nghệ thuật của đoạn trích

    – Kể về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​phải xa chồng vì những cuộc chiến tranh phi nghĩa: Phù Nương. Vì vậy, phê phán những cuộc chiến tranh phi nghĩa cướp đi hạnh phúc của người phụ nữ.

    2. Phân tích hoàn cảnh lẻ loi của người chinh phụ

    Đặng Trần Côn (không rõ năm sinh, mất) quê ở làng Nhân Mục, xưa là làng nghề mộc thuộc huyện Thanh Trì, nay thuộc Nhân Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Ông sống vào nửa đầu thế kỷ thứ mười tám. Về sáng tác, ngoài công việc chính là ngâm thơ, ông còn làm thơ chữ Hán, viết nhiều bài thơ chữ Hán. Theo sử sách, khi Lý Tiên Đông còn sống, nhiều cuộc nổi dậy của nông dân đã nổ ra xung quanh thành Thăng Long. Triều đình cử quân đi đánh, nhiều thanh niên phải từ biệt người thân đi chinh chiến. dang trần con viết về cuộc chinh chiến, cảm nhận nỗi đau mất mát của con người trong chiến tranh, nhất là những người vợ quân nhân. Bài tụng này có 476 câu thơ theo thể đoản cú (độ dài mỗi câu khác nhau).

    Tác phẩm này đã được dịch ra chữ nôm bởi một tác giả vô danh. Có người cho rằng đây là bản dịch của Đoàn Thị Điểm. Một số người cho rằng Pan Huiyi là người phiên dịch của hoàng đế. Những đoạn trích sau đây là bản dịch hiện hành, diễn tả cảm xúc và tâm trạng của kẻ chinh phu có chồng đi chinh chiến, cô đơn lâu ngày không tin tức, ngày về không biết. Chinh Phục sống một cuộc đời đơn độc, lẻ loi kể từ khi gặp người chồng “xa cách gió mưa”. Ngày và đêm, sau khi công việc ở khắp nơi đã ổn định, kẻ chinh phục

    Đi ra ngoài hành lang lặng lẽ phát sóng từng bước một, ngồi mở rèm thu hút tiền tài, không biết ngoài rèm trong rèm hình như có ánh sáng sao?

    p>

    Thể thơ bốn câu có nhịp điệu chặt chẽ, thăng trầm như một tiếng buồn, càng làm sâu thêm cảm giác cô đơn. Ngày xưa vợ chồng lang thang, nay “gieo hạt từng bước” dưới mái hiên ngôi nhà hoang, ngày ngày bàn công việc với chồng bên cửa sổ, giờ bỏ xuống kéo lên Nhiều lần mong tương lai mà chẳng thấy tin vui của Chidiao Mà lòng không ngủ được Đối mặt với cảnh kẻ chinh phục ánh đèn đêm Một mình cô đơn quá Cô đơn trong tim Một ngọn đèn khác vẫn cháy. Trái tim này mang một mình bóng lạnh.

    Thời gian như năm tháng, sầu như biển xa.

    Hai câu lục bát, một câu tả thời gian, một câu tả nỗi buồn. Cả hai câu đều mang nghệ thuật so sánh. Trong hoàn cảnh cô đơn như vậy, một giờ như một năm, người xưa thường nói “nhất nhật bất tương, ba thu như hề”, ngày hôm sau Huyền Quỳnh tâm sự với “cô nương” đầu bạc là ai. “Một ngày không gặp/ Biển ơi là biển”. Tình trạng này đã qua. Đó là tâm trạng nhớ nhung của người chinh phụ gửi cho chồng đi xa. Chân thành bỏ lỡ.

    Gửi trái tim này Dongfeng có thuận tiện không? Nếu không về quê, xin gửi người con gái về trần gian, nhớ anh da diết, phương trời.

    Bốn câu trên là tâm sự của vợ với chồng. Nhưng Magpies không có thư để hỏi. Rồi chia buồn cùng gió. Gửi nó theo ngọn gió đông, gió làm sao lọt vào tai nó? Bạn có biết anh ấy ở đâu trên chiến trường không? Rồi tình anh gửi em nơi phương xa, giống như Dow hy sinh tính mạng Hán Hậu để đánh đuổi quân xâm lược phương bắc, về núi yên biển lặng, vì:

    “Nhà Hán đã đi Bạch Thành Quan, ngày mai hồ đi Thanh Hải.”

    Đời võ sĩ là thế này, “mua yên gối trống, đắp rêu năm cát mà ngủ”, chưa nói đến đời võ sĩ, ít ai đi ngược lại. Tình yêu và kỉ niệm của cô chỉ có vậy thôi. Nhưng:

    Trời thăm thẳm nhớ anh. Cảnh buồn đầy đau lòng, cành sương giăng đầy mưa sóng.

    Ngay cả “Thiên đình”, Thiên đình cũng khó hiểu được tình yêu và khát khao của kẻ chinh phục. Từ “sâu, đau” càng làm tăng thêm sự vô minh, vô hình của đạo trời, chỉ có kẻ lão luyện (chinh phục) mới cảm nhận rõ được lòng người. Khung cảnh ảm đạm, ngay cả tiếng kêu của cây cối và tiếng côn trùng cũng khiến người ta đau lòng. Tình yêu là chân thật. Đoạn trích và bản dịch sử dụng thể thơ “song thất lục bát” phù hợp với thể tự sự, sử dụng phép so sánh, lặp, đảo một cách tự nhiên làm tăng giá trị nội dung.

    Đọc đoạn trích, người đọc không khỏi ngạc nhiên vì nó chỉ miêu tả cảnh cô đơn mà lại bộc lộ niềm khao khát tình yêu của kẻ chinh phụ. Nhưng nếu nghĩ sâu xa hơn một chút thì đoạn trích này thể hiện lòng căm thù chiến tranh. Chiến tranh đã chia cắt tình yêu, hạnh phúc của bao thế hệ lứa đôi, đặc biệt là thế hệ trẻ, có lẽ vì thế mà tác phẩm này được độc giả đương thời hết lời khen ngợi. Nhiều người còn dịch bài tụng ra thơ nôm (tức là thơ tiếng Việt) khiến cho bài tụng được truyền bá rộng rãi hơn. Phiên bản hiện tại của nom là thành công nhất.

    3. Phân tích kẻ chinh phụ hay cảnh lẻ loi

    Văn học thế kỉ XVIII là nền văn học giàu lòng thương cảm, đồng cảm với số phận bất hạnh của người phụ nữ. Bên cạnh kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du, không thể không nhắc đến tác phẩm tuyệt tác Đặng Trần Côn. Tác phẩm là tiếng khóc thương tâm của người phụ nữ khi chồng phải ra trận. Đoạn trích hoàn cảnh lẻ loi của người chinh phụ thể hiện sinh động tâm trạng nhân vật.

    Theo sử sách, trong những ngày đầu của triều đại Lê Tiên Tông, nhiều cuộc nổi dậy của nông dân đã nổ ra gần pháo đài Thăng Long. Triều đình phải cử binh ra trận, bao thanh niên phải từ biệt gia đình, người thân để ra trận. Bao nhiêu chàng trai ra đường, bao nhiêu người đàn bà vợ ở nhà xót xa. Tác giả Đặng Trần Côn đồng cảm với nỗi lòng của phụ nữ để bộc lộ cảm xúc của họ. Đoạn trích từ câu 193 đến câu 216 diễn tả tâm trạng của người vợ lẽ khi phải xa chồng, thế giới tâm trạng ấy được thể hiện qua nhiều cung bậc cảm xúc, cảm xúc khác nhau.

    Trước hết, cảm xúc khắc khoải, nhớ nhung của nhân vật được thể hiện qua hành động lặp đi lặp lại: bước khẽ, từng bước. Nhịp chậm, lòng nặng trĩu, chứa đựng sự ngán ngẩm của kẻ chinh phục. Bước đi này khác với bước chân của các kiều nữ khi đi tìm tình: đêm khuya một mình dạo qua khu vườn để lấy hình xăm. Conqueror có những thăng trầm, chán nản và bất an khi cô lo sợ cho tính mạng của chồng mình trên chiến trường nguy hiểm. Nỗi bất an ấy còn thể hiện ở hành động của cô: ngồi trước rèm van xin một bên, rèm không buông xuống lại cuộn lên, hình như đó là hành động trong tiềm thức, cô không chủ động làm. nó, nhưng cô ấy đã tiếp nhận nó một cách vô thức. Hãy hành động để giảm bớt lo lắng. Nhìn ngoài rèm chờ tin vui, uể oải nhìn ngọn đèn hiu quạnh.

    Trong nỗi khắc khoải đó, tôi cũng nhớ nhung, khắc khoải chờ chồng về. Trong văn học, đèn thường được dùng để diễn tả nỗi nhớ nhung, khắc khoải, như ta đã biết qua câu ca dao: Ngọn đèn muốn một mình/ Đèn chẳng chịu tắt. Hay trong câu chuyện về người đàn ông bằng xương và người phụ nữ, người vợ nhớ chồng, đêm đêm chỉ vào cái bóng của chính mình trên tường và nói với đứa trẻ rằng đó là cha của nó. Điều này cũng thể hiện lòng trắc ẩn. Đây là hình ảnh xuất hiện rất nhiều trong văn học, ở đâu người chinh phụ cũng dùng ngọn đèn để thể hiện nỗi nhớ của mình. Trong căn phòng vắng vẻ hiu quạnh, chỉ có ngọn đèn là người bạn chia sẻ mọi nỗi lòng với kẻ chinh phụ. Với sự vô cảm, kẻ chinh phục đau đớn nhận ra rằng “đèn biết như đèn không biết”.

    Cô hiểu sâu sắc hơn về sự cô đơn cùng cực của mình. Để nhấn mạnh thêm sự nghèo khó của anh ta, một chiếc đèn lồng khác được miêu tả với bóng của một người đàn ông khá chu đáo, chiếc đèn lồng là phần cuối của bấc, nó cháy đỏ như đèn lồng, dấu hiệu khi dầu cạn và bấc bị hỏng. Bằng chứng là người chinh phu đã mất ngủ nhiều đêm, trằn trọc, khắc khoải, mong chồng. Không gian bên ngoài càng làm cho nỗi cô đơn của kẻ chinh phụ được khắc họa rõ nét hơn, tiếng gà eo ót thể hiện một giọng điệu khắc khoải, khắc khoải. Kết hợp với điệp từ “Cuốn theo chiều gió” thể hiện nhịp điệu buồn tẻ, chậm rãi, thể hiện tâm trạng chán chường của kẻ chinh phục. Hai khuôn hình đối lập nhau khắc họa nỗi khắc khoải, lo âu thường trực của người phụ nữ trong nỗi cô đơn, uể oải. Từ đó, Chinh Phục cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết: thời gian như năm tháng/Nỗi buồn như biển cả, thời gian trôi qua nặng nề vô vị. Nguyễn Du cũng nhắc đến những cách đo thời gian trong tâm trạng nhàm chán: càng lắc càng thấy no / ngày dài anh lau. Nỗi buồn kéo dài vô tận đến tận cùng. Dùng biện pháp so sánh để miêu tả tâm trạng của người vợ, thấy nỗi buồn vô cùng.

    Bủa vây bởi sự cô độc, kẻ chinh phục tìm mọi cách để thoát khỏi nó. Nàng thắp hương để tĩnh tâm, nhưng càng ngự trong tâm hồn nàng, Chinh phụ càng chìm trong u sầu. Cô ấy dùng gương để tìm niềm vui khi làm đẹp, nhưng khi nhìn vào gương, thứ cô ấy đối mặt là sự cô đơn và cô đơn, và thứ cô ấy cảm thấy là sự biến mất của tuổi trẻ. Để nước mắt càng nhiều, nỗi đau càng nhiều, cô càng thấm cô đơn, tuổi trẻ nhạt nhòa trong cô đơn và sầu muộn. Cô ấy cố gắng chơi đàn, nhưng khi chạm vào nó, cô ấy xấu hổ vì hoàn cảnh của mình, cô ấy cảm thấy tiếc cho biểu tượng của cặp đôi ẩn trong nhạc cụ: đàn sắt, đàn hạc: so sánh các hòa âm gảy. hôn nhân hòa hợp. Đường tình duyên: Đường tình duyên – biểu tượng của tình yêu và sự hòa hợp giữa vợ và chồng. Chìa khóa phượng hoàng – biểu tượng của một cặp đôi thân thiết. Cái gì cũng có bạn đồng hành, nhưng tôi chỉ có một mình, cô đơn. Ngay cả sự cô đơn cũng khiến nàng lo lắng, sợ dây đàn đứt hoặc lỏng, đó là điềm báo của những cặp đôi không may mắn. Cô tìm kiếm một loại nhạc cụ, nhưng không thể thoát khỏi sự cô đơn của mình. Kẻ chinh phục cố quên bằng cách tìm niềm vui, nhưng càng cố quên, họ càng đối mặt với bi kịch, càng đau khổ.

    Nàng kính trọng thiên nhiên, nhưng thiên nhiên lại cho vợ chồng nàng xa cách. Bâng khuâng – chiến trường nơi biên cương xa xôi, khoảng cách không thể đo đếm. Nàng đã cố vượt qua khoảng cách gửi lại tất cả tâm tư cho chồng theo gió đông, nhưng đó chỉ là tưởng tượng, không thể thành hiện thực. Cô lại phải đối mặt với thực tế mới, đầy bi kịch của chính mình: những cảnh tượng xung quanh cô, sương lạnh giá, những giọng nói vang vọng trong đêm. Khung cảnh ảm đạm, ảm đạm xoay quanh kẻ chinh phụ sống trong đau đớn, hoài niệm. Đoạn trích thể hiện tài tình nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật. Tâm lý của kẻ chinh phục được miêu tả ở nhiều cấp độ khác nhau thông qua hành động và hoàn cảnh bên ngoài. Thể thơ và những cụm từ giàu cảm xúc của “Nalu Bage” thể hiện thế giới nội tâm phong phú của các nhân vật.

    Qua đoạn trích, dang trần con đã thành công trong việc miêu tả những tầng lớp, sắc thái khác nhau của kẻ chinh phụ, cô đơn và sầu muộn. Qua đó thể hiện khát vọng hạnh phúc lứa đôi, đó là nét mới trong chủ nghĩa nhân văn của ông. Đồng thời cũng là sự lên án mạnh mẽ, quyết liệt chiến tranh phong kiến ​​bất công đã chia cắt hạnh phúc vợ chồng.

    4. Phân tích toàn cảnh hoàn cảnh lẻ loi của kẻ chinh phụ

    Thần điêu đại hiệp được tác giả Đặng Trần Côn viết bằng chữ Hán vào nửa đầu thế kỷ 18, một thời kỳ xã hội phong kiến ​​hết sức rối ren. Chiến tranh cứ xảy ra, từ góc độ chiến tranh, cho đến khi chiến tranh nổ ra và đất nước bị chia cắt làm đôi. Ngôi nhà của lê thối. Nông dân bất mãn nổi dậy khắp nơi. Dân loạn, thịt luộc, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. Văn học thời kỳ này tập trung phản ánh bản chất tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi thống khổ của những nạn nhân của chế độ thối nát. Thế là kiệt tác của Đặng Trần Côn ra đời, được tầng lớp Nho sĩ đồng tình rộng rãi. Có rất nhiều người đã dịch tác phẩm này sang chữ nôm, trong đó bản dịch của nữ sĩ Đoạn Thi Yến được đánh giá là hoàn hảo nhất, bởi nó thể hiện gần như trọn vẹn giá trị nội dung và nghệ thuật của nguyên tác.

    Nội dung chinh phục thể hiện lòng căm thù chiến tranh phong kiến, đặc biệt là khát vọng quyền sống và khát vọng hạnh phúc của tình nghĩa vợ chồng. Điều này ít được nhắc đến trong thơ ca trước đây.

    Những kẻ chinh phục là con cháu của brom anh. Cô tiễn chồng ra trận với hy vọng anh sẽ trở nên nổi tiếng và trở về giàu có và vinh dự. Nhưng khi ra đi, nàng lại phải một mình đêm ngày thương tiếc chồng. Cảm thấy cô đơn, cô thấy tuổi trẻ của mình trôi qua vội vàng, ngày đoàn tụ hạnh phúc của lứa đôi ngày càng xa. Kết quả là cô rơi vào trạng thái cô đơn và đau buồn triền miên. Các bài tụng thể hiện rõ tình cảm này.

    Đoạn trích “Những hoàn cảnh đơn độc của kẻ chinh phục” (đoạn 193 đến 228) mô tả những mức độ và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn và nỗi buồn của những kẻ chinh phạt trẻ tuổi khao khát một cuộc sống yên bình. Tình yêu đôi lứa hạnh phúc.

    Các đoạn trích có thể được chia thành ba tiểu mục:

    Đoạn một (từ câu 1 đến câu 16): Nỗi cô đơn của kẻ chinh phu đơn độc; nỗi niềm chờ thời; cố tìm cách giải khuây mà không được.

    Đoạn 2 (từ câu 17 đến câu 28): Nỗi nhớ chồng xa, khung cảnh đìu hiu càng làm cho lòng người chinh phụ thêm buồn.

    <3

    Sau lễ chia tay, người chinh phu trở về, tưởng tượng ra một chiến trường đầy hiểm nguy, chết chóc mà thương nhớ, lo lắng cho chồng. Cô lại tự hỏi, tại sao những người yêu nhau lại chia ly? Tại sao tôi lại ở trong một tình huống cô đơn? Rất nhiều câu hỏi không có câu trả lời. Tác giả có nghệ thuật miêu tả tâm lý tinh tế, thể hiện sinh động tâm trạng băn khoăn, day dứt của kẻ chinh phu. Có thể nói nỗi buồn và nỗi nhớ là cảm xúc chủ đạo của bài thơ này.

    Ở phần đầu, ngòi bút sắc sảo của tác giả đã khắc họa sinh động từng bước đi và tâm trạng của kẻ chinh phạt:

    Đứng yên từng bước gieo hạt, ngồi trên màn thưa hỏi một phen. Ngoài rèm, trong rèm hình như có đèn, trong đèn có đèn chăng? Bạn có biết cái đèn không? Không nói nên lời, hoa đèn lồng kia và hình bóng rất dễ thương!

    Trong nỗi cô đơn bao trùm tâm hồn, cô lặng lẽ “gieo hạt từng bước”. Nhịp thơ chậm rãi gợi cảm giác thời gian như đứng lại. Giữa không gian hiu quạnh, tiếng bước chân dường như gieo vào lòng người một nỗi cô đơn. Nỗi nhớ nhung, sầu muộn và khắc khoải mong chờ làm nặng trĩu bước chân kẻ chinh phạt. Nàng bồn chồn, kéo màn xuống rồi cuộn lại, háo hức chờ đợi con chim báo tin vui, nhưng không thấy.

    Cô mong mỏi có người đồng cảm, chia sẻ nỗi lòng. Không gian im lặng, chỉ có chiếc đèn bàn hướng về phía cô. Lúc đầu, cô nghĩ rằng ngọn đèn biết được tình cảm của cô, nhưng sau đó cô nghĩ: Chẳng lẽ ngọn đèn biết mà như không biết, vì nó là vật vô tri vô giác. Thấy ngọn nến đã cháy được năm giờ, dầu đã cạn, bấc đã đứt, nàng chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình mà lòng bùi ngùi thương xót: hoa đèn, bóng người rất thương. .

    Hình ảnh người chinh phụ lén gieo hạt từng bước trên bao lơn hoang vắng, ngồi một mình trước đèn suốt năm tiếng đồng hồ không biết tâm sự cùng ai diễn tả nỗi cô đơn tột cùng của người chinh phụ. phụ.

    Tác giả miêu tả nỗi cô đơn của kẻ chinh phụ trong tám dòng. Đó là nỗi cô đơn luôn ở đó: ngày, đêm, ngoài hiên vắng, trong căn phòng lạnh lẽo… nỗi cô đơn bất tận tràn ngập không gian, luôn ám ảnh, ám ảnh. bức ảnh.

    Cảnh vật xung quanh không thể san sẻ, nhưng cộng hưởng với nỗi sầu vô tận của kẻ chinh phụ, khiến nàng càng thêm đau đớn:

    Năm con gà trống gáy, bóng chiều bồng bềnh. Thời gian như năm tháng, sầu như biển xa.

    Tiếng gà gáy sáng sớm càng làm tăng thêm sự tĩnh lặng. Những hàng cây đung đưa và những chiếc bóng rủ xuống gợi lên cảm giác buồn bã và u uất. Conqueror cảm thấy nhỏ bé và đơn độc biết bao giữa không gian đó!

    Trong khổ thơ sau, sự phẫn uất hiện rõ trong từng chữ, từng câu, mặc dù tác giả không hề nhắc đến từ chiến tranh:

    Xiang cố gắng đốt cháy tâm hồn mình, cô ấy quá mải mê, cô ấy buộc mình phải nhìn vào những giọt nước mắt của Qiu Chan. Tie giơ ngón tay gảy đàn, dây đứt và phím lỏng lẻo.

    Kẻ chinh phục đấu tranh để thoát khỏi sự kìm kẹp của nỗi cô đơn đáng sợ, nhưng không có lối thoát. Cô ấy cố gắng tô son và giải trí bằng cách chơi piano, chỉ để ngày càng chìm sâu hơn vào nỗi tuyệt vọng. Bất cứ điều gì bạn chạm vào, bạn chạm vào nỗi đau, bạn chạm vào sự cô đơn. Khi “hương tàn”, tâm hồn nàng bâng khuâng, xao xuyến. Khi “gương buộc phải soi”, chị không cầm được nước mắt, vì nghĩ đến chiếc gương mà vợ chồng chị đã từng chụp ảnh chung, vì chị phải đối diện với hình ảnh đang dần phai nhạt của mình. Khi thử chơi đàn Phượng Hoàng cùng nhau, cô cảm động trước hoàn cảnh chia ly của hai vợ chồng, đầy những điềm báo xấu: suy nhược thần kinh, bối rối trong phim. Cuối cùng, kẻ chinh phục phải trở về với nỗi cô đơn đè nén trong lòng.

    Tinh thần sắt đá, yêu thương, yêu thương, phục vụ là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tình vợ chồng. Bây giờ vợ chồng xa nhau, mọi thứ trở nên vô nghĩa. Dường như những kẻ chinh phụ đều ngại đụng chạm đến bất cứ thứ gì, như gợi nhớ về cuộc hội ngộ vui vẻ năm xưa, cũng là điềm báo trước rằng giờ đây đôi lứa sẽ phải xa cách. Tâm trạng cô bấp bênh, chơi bời lêu lổng khiến cuộc sống trở nên khốn khổ, bất an. Chờ đợi chồng trong sợ hãi và tuyệt vọng, cô chỉ biết cuốn tình yêu của mình theo gió:

    Tiện thể gửi tấm lòng này cho Đông Phong, xin gửi ngàn vàng lên núi.

    Sau những dằn vặt của kẻ cao thủ bế tắc, kẻ chinh phu bỗng nảy ra một ý rất chân tình và nên thơ: nhờ gió xuân mà gửi lòng mình cho người chồng đang từng ngày chiến đấu sinh tử nơi chiến trường. Hãy tìm Hầu tước. Tất nhiên, anh cũng nhớ nhà và sự hiện diện đáng yêu của cô vợ trẻ:

    Tôi vẫn thấy thanh thản, dù không đến miền đó, tôi vẫn nhớ anh da diết, con đường lên thiên đàng.

    Thương nhớ cách xa hai đầu được tác giả ví như hình ảnh của vũ trụ bao la: nhớ anh da diết, đường về trời. Nỗi nhớ người yêu sâu thẳm, đường đến người yêu sâu thẳm, đường đến thiên đường sâu thẳm. Bài thơ đơn giản về ý nghĩa và súc tích về hình thức. Cách thể hiện trực tiếp cảm xúc cá nhân này cũng hiếm thấy trong văn học trung đại nước ta:

    Bầu trời thật sâu, thật xa

    Hai câu ngày tận thế tương phản sâu sắc, tạo cảm giác ngậm ngùi, đau xót. Thế giới rộng lớn, bạn có cảm nhận được nỗi đau và sự dằn vặt của kẻ chinh phục? Người xưa nói: “Trời cao đất dày, ai mà khóc được?” Biết tâm sự cùng ai? Thế là nó chồng chất, gây đau đớn vô tận:

    Cảnh buồn, lòng người tan nát, cành sương rơi đầy mưa.

    Giữa con người và cảnh vật dường như có một sự tương đồng khiến cho nỗi sầu đau da diết, bất tận. Cảnh quan xung quanh kẻ chinh phục được chuyển thành tâm trạng khi được nhìn bằng đôi mắt đẫm lệ buồn bã. Cái lạnh của tâm hồn làm tăng thêm cái lạnh của cảnh vật. Cũng sương rơi trên cành, cũng một tiếng trong đêm giông bão, mà bao nhiêu giông tố, bao nhiêu khắc khoải trong lòng kẻ chinh phục. Hoàn cảnh như vậy, tâm trạng như vậy, tự nó đã nói lên bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​xưa. Đoạn thơ đi từ cảm xúc đến cảnh, rồi từ cảnh này đến cảm xúc khác, lặp đi lặp lại, thể hiện sinh động hoàn cảnh và tâm trạng cô đơn của kẻ chinh phụ. Bất kể khi nào và ở đâu, bất kể cô ấy làm gì, cô ấy đều uể oải và chiến đấu một mình!

    Bầu trời bao la, hoài niệm muôn hình vạn trạng, tâm hồn có giới hạn, kẻ khuất phục trở về với thực tại phũ phàng của đời mình. Thơ từ cảm xúc đến cảnh vật. Thiên nhiên lạnh lùng như dịch chuyển, như ngấm cái lạnh kinh hồn vào tâm hồn kẻ chinh phụ cô đơn:

    Sương như búa bổ, liễu dập rễ, tuyết như cưa, ngô chết.

    Có vẻ như Kẻ chinh phục đã hấp thụ sức mạnh hủy diệt khủng khiếp của thời gian chờ đợi. Tuy nhiên, khi nói đến câu: “Thâm cung, tiếng chuông chùa vắng” thì không khí thoải mái hơn rất nhiều, và cũng chính vì người chinh phụ chỉ có thất vọng chứ không tuyệt vọng.

    Tám câu cuối là bức tranh miêu tả cảnh ngụ ngôn đặc sắc nhất trong chiến dịch:

    Vài giờ trước khi con chích chòe soi bầy ốc, một hàng ớt thổi hành lang. Gió thổi qua lá rèm, bóng hoa nương theo bóng trăng trước rèm. Mỗi hoa, trăng hoa, trăng hoa trùng trùng, trước trăng dưới hoa, đau lòng thay!

    Thơ nhảy qua nhảy lại từ cảm xúc này đến cảnh khác, rồi từ cảnh này sang cảm xúc khác, để diễn tả rõ ràng tâm trạng, ở đâu, khi nào, làm gì… Mình chỉ là cái bóng!

    Từ mạnh mẽ trong câu “Gió thổi qua hàng hiên” báo trước một sự thay đổi tâm trạng mới của người chinh phụ. Cảnh trăng hoa hòa quyện khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc. Động từ buông lỏng, âu yếm tạo cảm giác vợ chồng gần gũi, tình cảm nhưng vẫn tế nhị, kín đáo.

    Tác giả dùng từ rất cẩn thận và tốn nhiều từ, đặc biệt các tính từ là từ ghép làm nổi bật bản chất của sự vật: eo óc, xao xuyến, dài dòng, dài dòng, cô đọng, kiểu châu Âu. Về nhạc điệu, tác giả khai thác và phát triển một cách tinh tế thể thơ thất ngôn bát cú theo kiểu thất ngôn, du dương, thể hiện cảm xúc như sóng vỗ. hoàn cảnh cô đơn.

    Với bút pháp nghệ thuật bậc thầy, tác giả đã khắc họa diễn biến phong phú, phức tạp của các tầng cảm xúc của kẻ chinh phục. Khung cảnh và tình huống được miêu tả rất phù hợp với diễn biến tình cảm của các nhân vật. Tác giả thể hiện thái độ bất bình và phản kháng trước những cuộc chiến tranh phi nghĩa qua nỗi buồn của kẻ chinh phu vì sống trong tình yêu và sự cô đơn vì chồng mình tham gia vào cuộc tranh giành quyền lực của nhà vua. Điều rất xác đáng là các tác phẩm của người chinh phụ đã bộc lộ một thời tư tưởng chủ đạo của văn học, đó là tư tưởng bênh vực quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con người.

    5. Phân tích hoàn cảnh lẻ loi của người chinh phụ siêu giỏi

    “Khi người lên ngựa, kẻ chia đôi rừng phong thu nhuộm cam.”

    Văn học Việt Nam đã chứng kiến ​​quá nhiều cuộc chia ly đầy lưu luyến. Và ở thế kỷ 18, dang Trần Côn, dựa trên chủ đề chia cắt trong chiến tranh, cho chúng ta thấy một cuộc chia tay đầy cảm xúc với nỗi đau đằng sau nó. Phụ nữ đã kết hôn ra trận. Đoạn trích “Nỗi cô đơn của người chinh phụ” đã làm nổi bật nỗi cô đơn và khao khát của kẻ chinh phụ, thậm chí là khao khát hạnh phúc.

    Nhà văn Đỗ Hoài từng khẳng định: “Mỗi trang văn phản ánh thời đại mà nó ra đời”. Khi thời đại của Chen Kun là thời đại của các tập đoàn phong kiến ​​chiến tranh liên miên, các cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra khắp nơi, mọi nhà đều hỗn loạn, pháo hoa, than đá và tang tóc khắp nơi. Khi thời cuộc đưa ra đề tài quen thuộc “thực tế chiến tranh”, Đặng Trần Côn với cảm hứng nhân đạo đã soi sáng nỗi khổ của người phụ nữ trong chiến tranh và cất lên tiếng nói của mình. Bằng ngôn từ của con người thời đại, tiếng nói căm thù chiến tranh phi nghĩa và đòi quyền sống, quyền hạnh phúc qua bản tình ca “Chinh phục mẹ cha”. Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, tác giả khiến người đọc cảm nhận được nỗi đau của cả kẻ chiến bại lẫn kẻ sống sót qua cảm xúc của người chinh phụ có chồng tham gia chiến tranh. Nếu trên chiến trường, kẻ chinh phục hàng ngày phải đối mặt với cái chết, thì ở quê hương của mình, kẻ chinh phục chờ đợi trong vô vọng và than khóc. Đoạn trích từ ba đến sáu câu thơ trong “Đoạn trường chinh” dường như là sự tích tụ những nỗi đau, nỗi nhớ nhung và khao khát hạnh phúc sâu sắc nhất trong tác phẩm.

    Mở đầu đoạn trích, tác giả miêu tả tâm trạng của người chinh phụ ngày qua ngày chờ đợi tin chồng trong hoàn cảnh hiu quạnh:

    “Đứng trong gian vắng vẻ, từng bước ngồi trên bức màn, cầu ánh sáng ngoài màn, không phải trong màn?”

    Trong không gian im lìm của “trống vắng” và “trống vắng”, kẻ chinh phụ hiện ra như hiện thân của sự cô đơn. Chị đi ngược xuôi, bước chân chị không phải là bước chân “xăm xăm” khi nghe tiếng gọi của tình yêu và hạnh phúc từ kiều nữ, mà là bước chân chị gieo từng bước, như gieo tiếng cô đơn vào lòng người đọc. . Nàng khép rèm lại, lại mở ra, hướng bên ngoài nhìn về phía biên cảnh xa xa, chờ đợi tin tức của thị thiếp, nhưng không có tín hiệu trả lời. Nhịp thơ chậm rãi, dài như cô đọng thời gian và không gian. Hành động của nàng như được lặp đi lặp lại trong vô thức, bởi tâm trí nàng lúc này đang hướng về người chồng nơi chiến trường nguy hiểm. Những thủ pháp trữ tình đó đã lột tả được tâm trạng trĩu nặng, khắc khoải của kẻ chinh phục. Trong nỗi bất an ấy, cô mong mỏi một người để trút bầu tâm sự, nhưng chỉ có một ngọn đèn mờ:

    <3

    Ngọn đèn này vừa chứng kiến ​​vừa soi sáng nỗi cô đơn của người phụ nữ xa chồng. Khi đối diện với ngọn đèn, người phụ nữ đáng thương đang đối diện với chính mình, và dưới ánh sáng của ngọn đèn, cô ấy phơi bày nỗi đau của mình. Rồi những suy nghĩ ấy lại biến thành lời than thân trách phận “Chiếc đèn lồng ấy có bóng người thương”. Cô cảm thấy một cuộc sống mong manh và dang dở như một chiếc đèn lồng, sự kết thúc của nó chỉ quanh quẩn. Đèn không tắt, phù dâu câu dân ca, thắp lên nỗi nhớ:

    “Đèn nhớ người mà đèn không bao giờ tắt”

    Ánh đèn đêm cùng Thôi Kiều chứng kiến ​​nỗi đau của người tài nữ:

    “Nửa đêm một mình, ngọn đèn, tóc dài xõa”

    Sau đó hình ảnh ẩn dụ ngọn đèn của người chiến thắng soi sáng trong đêm tối là sự tồn tại của sự lẻ loi, lẻ loi và trống vắng. Hình ảnh hoa và bóng người như phản chiếu lẫn nhau, diễn tả nỗi cô đơn mòn mỏi lâu ngày. Dường như nỗi niềm ấy đã được vo tròn, dồn nén, đè nén trong lòng kẻ chinh phụ và biến thành một nỗi niềm khôn tả đến “sầu não”, thành “bi kịch” ngậm ngùi. Chân dung người phụ nữ ấy nổi bật không chỉ qua bước đi, động tác, cử chỉ, nét mặt đượm buồn, dáng ngồi bất động trước ngọn đèn khuya mà trong bối cảnh thời gian và không gian. :

    “Năm dậu sương gà gáy bóng chiều bồng bềnh”

    Hình ảnh “bóng chiều chập chờn” suốt ngày và sự chuyển động, tĩnh lặng của tiếng “eo gà” suốt đêm dường như càng làm nổi bật nỗi cô đơn, vĩnh hằng của nhân vật trữ tình. “óc óc” là tiếng thưa thớt trong không gian rộng lớn hiu quạnh, mang cảm giác tang tóc, bộc lộ sâu sắc nỗi buồn chán của chủ thể trong đêm tối. Trọn năm tiếng đồng hồ, cô không chợp mắt, nghe thấy nỗi buồn từ đáy lòng, loại đau đớn vô hình đó. Từ “câu” diễn tả một cách tinh tế tư thế hiên ngang của người đi chinh phạt và tâm trạng qua từng hình ảnh nhỏ bé của người vợ chờ chồng. Cảm xúc của nhân vật trữ tình dường như lan tỏa, thấm đượm theo thời gian. Trong hai bài thơ, tác giả sử dụng bút pháp ước lệ và nghệ thuật so sánh để biến thời gian thành thời gian tâm lý, không gian thành không gian tình cảm:

    Bài thơ “Năm tháng như biển xa, năm tháng sầu” trích từ nguyên tác của Đường Chuangong: “Nỗi buồn như năm tháng”

    Chỉ thêm hai từ “kéo dài”, “lâu dài” thôi cũng khiến cho nỗi thất vọng, kiệt quệ kéo dài vô vọng của kẻ chinh phục trở nên thật cụ thể, hữu hình và sâu sắc. Từ khi thê thiếp ra đi, ngày qua ngày như năm tháng, nỗi buồn đau dường như đã đặc quánh, chất chồng, đè nặng lên lòng người đàn bà tội nghiệp. Hàng ngày, hàng giờ, hàng phút, Kẻ Chinh Phục vẫn đang vật lộn với nỗi cô đơn, đấu tranh để thoát khỏi cuộc sống tẻ nhạt của chính mình:

    “Hương đốt hồn, nhập hồn vào gương, muốn thấy lại nước mắt, cầm dây sắt, muốn gảy ngón tay đàn tỳ bà, đứt dây, vặn phím”

    Từ “sức mạnh” được lặp lại ba lần trong bốn câu thơ tiếp theo thể hiện nỗ lực vượt thoát của kẻ chinh phục. Cô cố gắng thắp hương cầu bình an nhưng lại rơi vào trạng thái xuất thần sâu hơn. Cô ép mình soi gương để làm đẹp nhưng tất cả những gì cô thấy chỉ là những giọt nước mắt đau khổ. Cô cố gắng tìm âm nhạc để giải tỏa nỗi lo lắng về sắt, và Feng Ai lại xuất hiện. Dường như cô đang mang trong mình quá nhiều sợ hãi và lo lắng nên Chinh Phục không những không thể giải tỏa được cảm xúc mà còn rơi vào tình trạng đau buồn sâu sắc hơn. Nỗi cô đơn, lẻ loi của kẻ chinh phụ được miêu tả bằng nhiều bút pháp trữ tình khiến người đọc có thể cảm nhận được tâm trạng của nhân vật trữ tình dù là bình minh hay đêm xuống. Đứng và ngồi với Chinh phục, cả trong và ngoài phòng và không gian xung quanh. Thứ cô đơn ấy làm gầy xác, khô héo con tim và kẻ chinh phục, như chết trong vỏ bọc cô độc ấy.

    Sống giữa không gian hiu quạnh ấy, nàng chỉ biết nhớ về người chồng nơi biên cương xa xôi với tấm lòng thủy chung:

    “Trái tim này gửi Đông Phong Thiên Kim, xin gửi đến Youshan, tuy chưa đến quê hương, nghĩ về bạn, con đường của thiên đường”

    Người chinh phạt dồn hết tình yêu, lòng trắc ẩn và lòng trung thành vào ngọn gió đông, cảm ơn ngọn gió xuân ấm áp đã gửi vào núi thẳm những tâm tư thầm kín. Những hình ảnh tượng trưng truyền thống như “đông phong”, “yên bình”, “không gian sâu thẳm” không chỉ gợi không gian bao la, vô biên, nói lên khoảng cách xa vời vợi giữa người chinh phục và người bị chinh phục, mà còn thể hiện tấm lòng chân thành với người vợ quê hương, vô hạn. Hoài cổ. Phải chăng ngọn gió đông đánh thức tâm hồn kẻ chinh phục, và cũng chính ngọn gió xuân đánh thức giấc mộng ái ân trong tác phẩm “Bốn mùa xuân” của nhà thơ Liebach:

    “Cỏ xanh nơi vắng lặng, cành dâu ngà bên đất, lòng em đau lắm, có phải vì chồng nhớ nhà trong gió xuân, ai biết vì sao mành đổ”

    p>

    Đó chỉ là hoài niệm của kẻ chinh phục, và cũng thấy được dư vị đau thương, ngậm ngùi, xót xa:

    “Trời thăm thẳm, xa vời vợi, anh nhớ em da diết”

    Các từ “sâu”, “đau” trực tiếp bộc lộ sắc thái mà người chinh phụ mong muốn. Nếu từ “thắm” gợi nỗi nhớ da diết kéo dài trong không gian thì chiều sâu của nỗi nhớ được thể hiện qua từ “đau”. Hình ảnh con đường dẫn về phía trời tối mịt cũng giống như bi kịch nhớ nhung, không biết bờ bên kia, không biết bao giờ chồng trở về để chấm dứt bi kịch này.

    “Cảnh tang thương, lòng người tha thiết, tiếng mưa phun trên cành sương”

    Cảnh vật xung quanh là tâm trạng, bởi nó đẫm nước mắt, nhuốm màu tâm trạng của chủ thể trữ tình. Thơ đúc kết quy luật của cảm xúc, gặp thơ Nguyễn Du trong “Hải ngoại truyện” nổi tiếng:

    “Cảnh không buồn, người buồn, cảnh không vui”

    Câu thơ này như một bản lề, khép lại nỗi nhớ da diết và dẫn người đọc đến với nỗi sầu của kẻ chinh phụ ở câu thơ tiếp theo. Trong bức tranh mùa đông được đề xuất, tác giả đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ bất ngờ để miêu tả sự u uất, lạnh lẽo trong lòng người phụ nữ:

    “Sương như búa chặt liễu, khô cành ngô”

    Nỗi đau u uất ấy, nay nặng như búa, nay nặng như cưa, “cây liễu” là hình ảnh của cây ngô đồng, là hiện thân của người phụ nữ đợi chồng. Khuôn mặt và tâm hồn cô ấy dường như bị vùi dập không chỉ bởi sương giá mà còn bởi khung cảnh lạnh lẽo, cô đơn xung quanh. Mùa đông của thiên nhiên giờ đã trở thành mùa đông của cuộc đời kẻ chinh phục.

    “Giọt sương phủ bụi con chim gù ngân chuông chùa trong thâm vách”

    Tiếng chim ngân trong sương, tiếng côn trùng gặm nhấm trong sương đêm, phải chăng nhà thơ muốn nói lên nỗi lòng lạnh tê của kẻ chinh phụ? Đó không phải chỉ là tiếng “reng” của bức tường sâu bên cạnh, tiếng “đập” của tiếng chuông tu viện xa xa, và những con sóng dữ dội, tha thiết, đau đớn đang cuộn trào trong trái tim người phụ nữ? Tất cả những dư âm ấy như cứ lơ lửng trong sâu thẳm tâm hồn, bào mòn tâm trí người phụ nữ. Thành công của thủ pháp ngụ ngôn quen thuộc trong thơ cổ điển của nhà thơ không chỉ làm nổi bật ấn tượng lạnh lẽo của bức tranh mùa đông mà còn phơi bày thế giới nội tâm băng giá của kẻ chinh phục. Nếu không nhờ ngòi bút miêu tả tâm lý sắc sảo thì chắc chắn không thể nào diễn tả tâm trạng của người chinh phụ một cách sâu sắc và tinh tế đến thế.

    Kẻ chinh phụ tưởng như đắm chìm mãi trong nỗi u sầu ấy, nhưng trong bức tranh hoa nguyệt lộng lẫy, trong phút chốc đã đến với niềm khao khát hạnh phúc vợ chồng

    “Còn mấy tiếng nữa trăng dế soi ốc, ngoài hành lang có hàng tiêu, rèm lay động gió thổi, bóng hoa trước rèm theo bóng người. trăng. Trước là hoa, tháng sau là giữa trăng”

    Bức tranh đẹp về ánh trăng được nhà thơ vẽ lên từng lớp, từng lớp, bổ sung cho nhau. Hoa đẹp dưới ánh trăng vàng, trăng sáng phản chiếu bóng hoa trên mặt đất. Hoa và sắc tỏa sáng dưới ánh trăng, cuối cùng cô đọng lại thành một hình ảnh đẹp nhất, một biểu tượng ý nghĩa nhất: trăng và hoa bổ sung cho nhau. Phải chăng chính sự hài hòa của thiên nhiên và tạo hóa đã đánh thức niềm khao khát hạnh phúc bấy lâu nay trong lòng Chinh Phục? Nhưng phải chăng cũng vì thế mà nỗi đau cô đơn lại trở về trong cô, ngày càng sâu đậm? Đối mặt với thiên nhiên vô hồn, giữa vợ và chồng vẫn còn cảm giác hạnh phúc, còn cô, chỉ có một mình cô, một lòng chung thủy, chờ chồng trong căn phòng này, chờ tình yêu quay về hạnh phúc. Cùng với hình ảnh, nhạc điệu tha thiết như ngọn thủy triều khát khao trào dâng trong lòng người chinh phụ. Cho đến nay, nghệ thuật miêu tả cảnh ngụ ngôn đã đạt đến trình độ điêu luyện. Nếu như đoạn trước tác giả gửi gắm tình cảm vào cảnh vật thì ở đoạn sau, tác giả đã biến cảnh tượng trở nên khiêu dâm. Hình ảnh trăng đẹp và hoa trăng rất tinh tế thể hiện rất tinh tế khát khao thầm kín và mạnh mẽ của kẻ chinh phục – đó cũng chính là khát vọng trần thế, nhân thế của những đứa trẻ.

    Nữ dịch giả Hồng Ngài không chỉ giỏi miêu tả tâm lý bằng nhiều nét vẽ mà còn sử dụng thành công ngôn ngữ tiếng Việt tinh tế, trang nhã qua cách diễn đạt mềm mại, nên thơ của tác giả. Chính sự kết hợp giữa ngôn ngữ giàu chất “thể chất” của Nguyễn Thiều và tâm hồn ngôn ngữ của Đoàn Thị Điểm đã làm cho ngôn ngữ thơ chuyển tải được hết những cảm xúc tinh tế. Hầu hết trong diễn biến tình cảm của tiểu thụ. Tác phẩm cất lên tiếng nói đấu tranh, tố cáo chiến tranh phong kiến, chia rẽ hạnh phúc vợ chồng, đồng thời khẳng định quyền sống, quyền hạnh phúc cao cả nhất của con người. Đây cũng chính là giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc nhất của tác phẩm này.

    Bài thơ kết thúc nhưng nỗi đau của kẻ chiến thắng vẫn còn đó. Khát vọng hạnh phúc từ đó trở thành khát vọng của cả thời đại, thôi thúc con người phải hành động để có được hạnh phúc mà mình đáng được hưởng.

    6. Phân tích đoạn trích Nỗi cô đơn của người chinh phụ

    Chữ Hán ra đời vào nửa đầu thế kỷ XVIII vốn do Đặng Trần Côn và nhà chinh phạt Ngô Đình Diệm sáng tạo đã nhanh chóng đi vào lòng các tầng lớp nhân dân. Cho đến nay đã hơn hai thế kỷ rưỡi, Chinh phụ ngâm vẫn luôn giữ nguyên giá trị của một viên ngọc văn học sáng giá, là niềm tự hào của đất nước “nổi tiếng thơ ca”. Trong đó, đoạn trích “Nỗi cô đơn của người chinh phu” thể hiện rõ nét nỗi cô đơn của người vợ nhớ chồng trong chiến trận, và nghệ thuật thể hiện của hai tác giả, sư Duẫn An mang đặc điểm tiêu biểu là kỹ năng diễn xuất xuất sắc của nữ chính. Ca sĩ có nghĩa là Shiyan. Đoạn trích Cảnh lẻ loi của người thắng cuộc viết về hoàn cảnh và tâm trạng của người thắng cuộc sống một mình lâu ngày không biết tin chồng đi xa:

    “Đứng trong đình vắng, từng bước, ngồi mành, mời người”

    Ví dụ, Ruan Du đã từng yêu cầu Qiao nói: “Phụ nữ tuân theo mệnh lệnh”, hoặc nếu trong các cặp vợ chồng mới cưới có câu “Tình dục không đổi”, thì đó đã là cuộc sống của người vợ, thậm chí đến bờ biển . Tôi muốn theo chồng tôi. Nhưng “hoàng đế bất đắc dĩ” mà “quân tử/nữ nhi quá kinh khủng”, vợ có chồng đi lính chỉ biết ở nhà. Cùng chồng pha trà với bộ đội, giờ bộ đội đi rồi đành “dạo hiên”. Cô đếm từng bước chân, như đếm ngày chồng ra đi, đếm từng ngày đầy ắp nỗi nhớ nhà. “Nỗi nhớ dài vô tận” (trích Hai đầu nỗi nhớ) bước lên hiên, em lại vén rèm. Kéo rèm xuống, nàng như thấy bóng chồng biến mất, vội vàng kéo rèm lên, hóa ra chỉ có tình yêu và nước mắt mới lừa dối nàng. Nhưng khi cô ấy kéo rèm xuống, cô ấy vẫn thấy mọi thứ vẫn như cũ, rồi trong tiềm thức cô ấy lặp đi lặp lại những hành động tương tự… khó chịu :

    Chúng ta chưa được sinh ra

    Nhưng có lẽ chỉ những người định mệnh không gần mới biết, ở bên người định mệnh không đội trời chung thì không sợ gì cả. Không phải không có ai, mà là người quan trọng nhất không ở bên cạnh nàng.

    Bên rèm không biết trong rèm có đèn, đèn biết giường không biết lòng mình buồn không nói nên lời, bóng kia là người thương. Bóng tối rủ xuống xung quanh.

    Trong lúc hoạn nạn, có người ở nhà tòng quân, “Vạn tiền gia thư”, khi nào thì có người đến báo tin chiến sự? Vợ nghe tin thắng cũng sợ, nghe tin thất bại cũng sợ, bởi “người xưa đánh người xưa sao?”. Khi không thấy chồng báo tin, cô chỉ biết chờ đợi trong sợ hãi, dường như cô đang chết dần chết mòn, bởi nỗi buồn trong lòng, nỗi buồn đến từ sự nhớ nhung trong cô đơn, luôn thường trực. Ngay cả những con chim có cánh cũng có thể dang rộng đôi cánh và bay khắp thế giới, tôi không biết, một người dũng cảm như cô ấy làm sao biết được? Mặc dù “chim cao quý ngồi trong tình yêu và thương tiếc” và “chim không thương tiếc”, nhưng cô vẫn không có người đồng cảm, giống như Bana, người đã mất thời kỳ chết chóc, và Trang Tử, người đã mất đi xác chết của trí tuệ. đèn”, cả đêm chị thao thức Thắp sáng, không ngủ không dám ngủ – chắc chồng về, chị không muốn đón chồng về muộn. Chỉ là đến năm giờ gà mới gáy, trời đã sáng, bóng anh vẫn chưa khuất. “Liễu Chí Văn của ai?”, khi mặt trời của một ngày mới lên, trên tường chỉ còn một bóng mờ mờ. Ai nói ánh nắng là hy vọng, ai nói ánh sáng là nguồn sống? Cô chỉ biết rằng một ngày nữa đã trôi qua, số ngày xa cách lại tăng thêm một ngày, nỗi nhớ nhung, sợ hãi dâng trào trong lòng.

    Trong kinh có câu “một ngày không bằng ba đạo tặc”, mà Nguyễn Du tổng kết là “dài ngày ba sạch”, đối với kẻ tiểu nhân, “khuyến khích” là “phi thường”. “. , nhưng “sầu” là “dài như biển xa”. Hay những cảnh có người chết! Mùi vẫn còn đó, vấn đề giống như anh gặp phải trong “Mùi cánh diệc” ngày ấy, nhưng tiếc rằng “Cánh diệc không quay trở lại”. Gương đồng vẫn sáng, cô vẫn soi gương, trang điểm mỗi ngày, chỉ là ‘chật vật’. Chồng cô đã đi phục vụ trong quân đội, và cô không còn nghĩ về bản thân mình nữa. Tôi nhớ chồng, và tôi không biết làm thế nào để rơi nước mắt. Kỷ niệm luôn đau đáu trong lòng cô. Những giọt nước mắt đã được trả lại cho Zhou Can, và cô ấy đã khóc trong nhiều ngày. Cô chơi đàn tỳ bà nhưng tiếng đàn bị ngắt quãng vì sợ dây đứt, phím lỏng sẽ báo trước những điều không may mắn cho đôi lứa đang yêu:

    “Năm tháng như biển xa, năm tháng thăm thẳm sầu. Muốn đốt hồn trong gương, muốn nhìn lại hạt châu, gảy ngón đàn, đứt dây kinh, và chìa khóa đang vỡ vụn.”

    Mười sáu dòng đầu tiên là một điệp khúc chậm rãi, day dứt của đàn piba – khát khao khao khát, kéo dài vô tận – không bao giờ kết thúc trên đàn hạc, giống như tiếng khóc bị kìm nén của một người đàn ông trong đêm. Đó không chỉ là một đêm đen tối – đó là một đêm của lo lắng và sợ hãi; đó là một đêm của sự cô đơn, ẩn mình khỏi ban ngày.

    Nếu mười sáu dòng đầu là đoạn điệp khúc khi nỗi nhớ da diết, cảm xúc đau đớn được đẩy lên tột độ thì tám dòng cuối như khúc dạo đầu cho cao trào. Nhìn chồng xa cách trong lòng chiến đấu, dần dần biến cô đơn thành một loại đau đớn, một loại đau đớn không gì sánh được. Giống như từ “tuyệt vọng”, nó chọc vào tim người đọc cũng như chọc vào tim kẻ chinh phục. Thứ nhất, khát khao cháy bỏng ngày đêm:

    <3

    “Trái tim này” là một nỗi nhớ khôn nguôi, bởi nó đã trải qua rất nhiều “bao mùa thu chờ xuân này về, tin hay không”. Gió đông là gió xuân. Trong nỗi cô đơn, kẻ chinh phu chỉ biết hỏi gió, nhờ gió gửi thông tin, tin tức cho người chồng yêu dấu nơi chiến trường xa xôi hiểm trở, nơi có muôn ngàn trùng trùng. Nongyan, một nơi cách Thiểm Tây, Trung Quốc hơn hai ngàn dặm về phía bắc. Hỏi gió, cảm ơn gió, nhưng “có tiện không” vẫn không bằng nhún vai xin gió. Nhưng đây là một điều ước viển vông, và hy vọng chỉ là phù du. Chỉ có nỗi nhớ là có thật. :

    “Đường về trời nhớ chàng hoài”.

    “Nhớ mãi” có nghĩa là nhớ mãi, nhớ nhiều, nhớ lâu, nhớ mãi. Trong Kiều truyện cũng có một câu tương tự thể hiện nỗi nhớ: “Ngày dài bằng ba thu”. Câu thơ “Đường về trời nhớ em” là một bài thơ tuyệt vời, vừa thể hiện được nỗi nhớ da diết trong lòng, không ngừng theo thời gian, đêm ngày, năm tháng (mãi mãi) không bao giờ dứt. Được cụ thể hóa như chiều dài của không gian (đường đi lên ngang trời). Lý giải ý nghĩa của bài thơ, Nguyễn Thạch Giang viết: “Nỗi nhớ chồng sâu thẳm, dẫu đường lên trời vẫn với tới”. Có thể nói, dịch giả Đoạn Thiển Yển đã bày tỏ niềm khao khát vợ của kẻ chinh phạt rất sâu sắc. Nỗi nhớ ấy, giọng tha thiết ấy được thể hiện qua giọng điệu bất biến của các bài thơ nhưng lại biến mất trong thể lục bát bằng thủ pháp nghệ thuật liên từ. Một bầu trời bao la của tình yêu. Nỗi buồn bất tận

    Sau khi nhờ “Đông Phong” bày tỏ sự thương cảm và nhớ nhung chồng “vĩnh cửu”, cô lại một lần nữa cầu xin ông trời thương xót cô, thở dài:

    “Trời thăm thẳm, xa vời vợi, nỗi nhớ em sao mà xót xa.”

    Trời xa, không chỉ cao mà còn sâu, không chỉ xa mà còn xa, nên chẳng hiểu vì sao nỗi “nhớ nhà” của người vợ trẻ. Kỉ niệm càng thêm đau đáu trong tim. Đau khổ có nghĩa là bị kích động, lo lắng, bị hành hạ không ngừng. Có thể nói, qua cặp từ ghép: “dang” và “shou”, dịch giả đã diễn tả thành công nỗi đau buồn, sầu não, xao xuyến của kẻ chinh phu một cách cụ thể, tinh tế và sinh động. Tình cảm này đã được miêu tả như một sự phát triển bi thảm đáng buồn.

    Ở hai câu cuối, nhà thơ đã sử dụng địa điểm để thể hiện quan niệm nghệ thuật của mình, tả cảnh ngụ ngôn hết sức điêu luyện. Hình ảnh và sức biểu cảm kết hợp với nhau tạo nên giọng điệu trữ tình sâu lắng, thiết tha:

    “Tôi lo lắng về cảnh, cành sương đầy mưa.”

    Nỗi đau của nỗi nhớ đôi khi “nuột” và đôi khi “đau đớn” ngày đêm. Đêm qua đêm như dài thêm ra. Bạn càng cô đơn, bạn càng bồn chồn. Nhìn cành ướt đẫm sương mà lạnh và tối. Nghe tiếng côn trùng kêu như sương đêm, trời càng lạnh hơn. Nghe tiếng côn trùng kêu như “mưa phùn” lòng nhớ da diết. Giọng nói ấy, khung cảnh ấy vừa lạnh lẽo vừa hoang vắng ấy đã khơi dậy trong lòng người vợ trẻ biết bao cô đơn, hoang vắng, lo lắng. Lòng tôi đau như cắt, nhào nặn. Có thể nói hai câu “Nian Qingfu” và “Overseas Chinese” rất gần nhau:

    <3

    Có người nói: “Hạnh phúc hay một thứ gì đó thường chỉ được biết là có khi nó đã mất đi”. Với sự chinh phục siêu phàm của dang trần côn, chúng ta bị đưa vào một không gian hẹp – không gian của hoài niệm và âu lo, bất mãn và hoang mang, của mối quan hệ giữa Nho giáo, cổ hủ và sự bất công của chế độ phong kiến ​​– “Người da đen thấp cổ bé họng” không có quyền ở đó , chỉ nhiệm vụ. Những người như vậy, họ chưa được hưởng một phút giây hạnh phúc – nếu có, thì cũng chỉ là một khoảnh khắc như mùa gặt. Chúng tôi đặt mình vào vị trí của những người này và cảm động trước nguyện vọng cuối cùng của họ – được sống bình đẳng, hạnh phúc và không có sự chia ly.

    Tác giả đã thể hiện một cách tinh tế những sắc thái tình cảm khác nhau về niềm khao khát một cuộc sống hạnh phúc yêu thương của người chinh phụ qua thể thơ ca dao, cách dùng từ, hình ảnh đảo ngữ. hạnh phúc yêu thương sâu sắc và cảm thông. Hãy cất lên tiếng kêu nhân đạo phản đối chiến tranh phong kiến ​​bất công.

    7.Phân tích hoàn cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong 16 câu đầu

    Chung phu ngâm là một trong những tác phẩm văn học trung đại hay nhất trong lịch sử văn học Việt Nam, có mạch cảm xúc, câu chuyện chan chứa nỗi buồn về thân phận người phụ nữ đương thời, đồng thời gián tiếp khắc họa bức tranh chân thực về nỗi đau của người phụ nữ và xã hội bất công lúc bấy giờ.

    “Ra ngoài hành lang khẽ phát sóng từng bước, ngồi dưới màn hỏi một phen.”

    Không gian tĩnh lặng, bắt đầu từ câu thơ mở đầu đã gieo vào lòng người đọc một cảm giác buồn, kết hợp với các động từ như “đi, gieo hạt từng bước” cho thấy tiếng bước chân nặng trĩu. Nỗi khắc khoải của người đàn bà dưới mái hiên lạnh lẽo, những ngày tháng làm công tác lặp đi lặp lại một cách vô nghĩa cho thấy sự hoang mang, trống vắng của cõi lòng. Rồi hình như nhân vật bị phân tâm với đoạn đối thoại độc thoại với chính mình mà cứ như trách móc :

    “Ngoài rèm không biết, trong rèm dường như có ánh sáng, ánh sáng dường như không biết, trong lòng chỉ có sầu.”

    Từ đây, kẻ chinh phục bộc lộ nỗi cô đơn và niềm khao khát sâu sắc đối với kẻ chinh phục trong cuộc viễn chinh. Cô ấy không chỉ mang nỗi nhớ đơn thuần, mà còn mang nỗi lo lắng tàn nhẫn và trằn trọc khi không thể nhận được tin tức của kẻ chinh phục. Hình ảnh thước kẻ – sự xuất hiện của con vật mang tin vui là minh chứng rõ nhất cho tấm lòng đó. So sánh nghệ thuật “ngoài rèm” và “trong rèm” cho thấy nỗi cô đơn bao trùm mọi không gian, thậm chí phủ đầy không gian bằng màu sắc u ám, buồn bã. Càng nhớ lại càng khao khát được giải bày Đèn đã trở thành người bạn tri kỷ của kẻ neo đơn, để kẻ chinh phụ trút bầu tâm sự. Trong bài hát cổ có một câu khiến người ta nhớ tới một người, cũng miêu tả cảnh một người phụ nữ ở võ quán vào ban đêm, một mình với ngọn đèn khuya, và ánh sáng lạnh lẽo càng được nhấn mạnh. Nỗi cô đơn của kẻ chinh phụ:

    “Buồn không nói nên lời, bóng hoa đăng khá là trìu mến”

    Kẻ chinh phụ cảm thấy tiếc cho chính mình, chợt phát hiện trong một ngọn đèn dầu khác phản chiếu vận mệnh của mình trên tường, thân phận của mình dường như là hai, cùng ngọn đèn chia sẻ nỗi buồn, nhưng lại không thể làm gì được. nỗi nhớ, khao khát hòa hợp.

    “Năm dậu gà gáy, bóng chiều lững lờ. Thời gian như năm tháng, sầu như biển xa.”

    Khi không gian trở nên sáng sủa và tĩnh lặng hơn cũng là lúc mà những người cô đơn càng cảm thấy cô đơn hơn. Cảnh vật xung quanh cũng thật hấp dẫn, xao xuyến, từ eo éo, rung rinh gợi cảm giác người buồn bao giờ mới vui. Nỗi nhớ vốn dĩ vô hình, vô định giờ được lượng hóa như chiều dài của tháng năm, chiều dài chiều rộng của dòng thời gian vĩnh hằng, càng trở nên hoang vắng. Giờ đây, nỗi nhớ đã trở thành một nỗi buồn xa xăm, nghĩa là nó không chỉ là xúc cảm, mà còn mang theo những lo lắng, khắc khoải, sợ hãi về tương lai.

    Những phím đàn gợi lên cảm giác cô đơn, trống vắng của tâm hồn, đầy lo sợ về tương lai và sự chia ly.

    Tác giả dùng lối thơ tả cảnh ngụ ngôn để miêu tả sinh động nỗi cô đơn nhớ nhà của kẻ chinh phu, qua đó gián tiếp vạch trần chế độ cũ chiến tranh phi nghĩa khiến bao gia đình tan nát, điêu đứng.

    Mời các bạn tham khảo chuyên mục Văn học – Văn học của hoatieu.vn để có thêm những thông tin hữu ích.

Kiểm tra tiếng Anh trực tuyến

Bạn đã biết trình độ tiếng Anh hiện tại của mình chưa?
Bắt đầu làm bài kiểm tra

Nhận tư vấn lộ trình từ ACET

Hãy để lại thông tin, tư vấn viên của ACET sẽ liên lạc với bạn trong thời gian sớm nhất.