Top 19 bài văn phân tích truyện ngắn đồng quê cực hay kèm 4 dàn ý chi tiết. Nhằm giúp các em học sinh lớp 9 cảm nhận sâu sắc hơn tình cảm yêu nước và nhân vật ông Ái.

Thông qua nhân vật ông Hai, người đọc cảm nhận rõ tinh thần yêu nước, yêu nước, căm thù giặc và quyết tâm bảo vệ cuộc sống của người nông dân Việt Nam thời kì chống Pháp. Vì vậy, mời các bạn cùng theo dõi bài soạn và học tốt hơn Tài liệu 9.

Phân tích truyện ngắn của nhà văn Kim lân thôn

  • Phân tích dàn ý truyện ngắn nông thôn của Cẩm Dịch (4 bài văn mẫu)
  • Phân tích truyện ngắn nông thôn
  • Phân tích chi tiết truyện ngắn thôn quê của Kim Lan (18 bài văn mẫu)
  • Phân tích dàn ý truyện ngắn Làng Kì Lân

    1. Lễ khai trương

    Giới thiệu về tác giả:

    • Xóm Kim quê ở Bắc Ninh, sinh ra và lớn lên trong một gia đình khó khăn nhưng là người có nghị lực và ý chí kiên cường.
    • Do xuất thân trong gia đình nên ông có cảm tình với nông thôn và nông dân, là một cây bút viết truyện ngắn chân thực, ông viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm và tâm hồn của lớp con cháu trong nhữn cánh đồng.
    • Giới thiệu công việc:

      • Chuyện nhỏ ở làng được viết năm 1948 trong thời kỳ chống Pháp. Tuyển Tập In 1945-1956
      • Những đoạn trích phản ánh tinh thần yêu nước của nông dân thời chống Pháp
      • 2. Nội dung bài đăng

        2.1. Bối cảnh câu chuyện

        “Tin tức thị trường dầu hướng tây”

        =>Qua đó bộc lộ nét kịch tính trong diễn biến của truyện, bộc lộ tình cảm yêu quê, thương dân của ông Hai.

        2.2. Diễn biến tâm lí của ông Hai

        Đi về miền Tây nghe làng

        Ông thường: Khoe làng” và thể hiện sự “hoài cổ” của mình qua những chi tiết này, cho thấy ông luôn tự hào và yêu làng của mình.

        Tâm trạng ông khi nghe tin làng theo Tây tiến

        “Cổ ông cụ bất động, mặt tê dại. Ông già lặn xuống tưởng không thở được. Phải mất một lúc lâu ông mới nuốt được cái gì đó mắc trên cổ…” Điều này làm tôi suy nghĩ rằng tôi là của riêng mình Ông già kiêu hãnh của làng rất ngạc nhiên.

        “Ông nội cúi đầu bước đi. Ông chỉ nghĩ đến bà chủ.” Các chi tiết cho thấy ông thực sự xấu hổ với mọi người, và trái tim ông đau nhói.

        Anh về mà lòng nặng trĩu:

        “Nhìn lũ trẻ mà xót xa cho mình, nước mắt ông lão cứ chảy dài. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt sao? Cũng bị bỏ rơi à? Chết tiệt, chúng nó bằng tuổi nhau mà.”

        “Chúng nó bay vào mồm ăn miếng cơm hay gì đó rồi đi làm cái thứ nước bán hàng Việt giả để làm nhục chúng nó”

        “Tình thật ở làng, theo tây về làng phải hận”

        =>Nhưng câu này cho thấy nam thứ đã đi từ đau đớn đến hoang mang. Tình yêu làng quê khiến anh xấu hổ và cay đắng. Một tình yêu làng mãnh liệt như vậy, một khi lòng tin của anh bị phản bội, làng đã phải trả thù. Đó cũng là sự thẳng thắn hiếm có của người nông dân

        Bản tin thôn mẫu

        “Bác đi đến tối mịt mới về. Khuôn mặt thường ngày buồn bã bỗng tươi tỉnh hẳn lên. Bác nhai trầu, mắt đỏ hoe chớp chớp… Vừa tới đầu ngõ bác đã , ông già lên tiếng:

        Bạn sẽ chia quà ở đâu”

        =>Nông dân bản chất là những người yêu nước và ghét những kẻ phản bội. Khi biết Youshicun không theo mình về, anh khoe rằng “Tây đốt nhà tôi”

        =>Có thể thấy ông đã vui như thế nào khi nghe tin làng được cải chính. Chứng tỏ sự trong sạch của ông, và quan trọng hơn, làng ông còn thể hiện lòng yêu nước sâu sắc và quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược.

        3. Kết thúc

        • Tác giả kim kiều rất thành công trong việc xây dựng tình huống truyện và miêu tả tâm lý, ngôn ngữ nhân vật
        • Đoạn trích Tình quê và lòng yêu nước của người nông dân thời chống Pháp
        • Phân tích truyện ngắn nông thôn

          Trong những năm kháng chiến chống Nhật của đất nước, tinh thần chống Nhật của cả dân tộc được cô đọng, tình cảm yêu nước của mỗi người là sức mạnh làm nên những chiến công rực rỡ. Yêu nước có nhiều cách, yêu làng và giữ làng cũng là yêu nước. Truyện ngắn “Nông thôn” của Kim Lan kể về câu chuyện của một người nông dân với tình cảm yêu nước và nông thôn sâu sắc.

          Nhân vật chính của câu chuyện, ông Hai, là một người dân ở làng Youshi, ông rất yêu làng của mình và luôn tự hào khoe về làng của mình. Mỗi khi kể chuyện trong làng, ông đều kể những chuyện cũ, mặc kệ người ta có để ý hay không. Ông nói đủ thứ, từ những ngôi nhà ngói đông đúc như thành phố, đến những con đường lát đá xanh bẩn thỉu sau mưa, từ những con đường phơi lúa chất lượng nhất, không có lấy một hạt đất. to nhất, đẹp nhất và bên cạnh đó, ông cũng lấy làm vinh dự, tự hào về làng quê có lịch sử lâu đời và tinh thần quật khởi của mình.

          Trong lớp huấn luyện có những cụ già tóc bạc chống gậy tập luyện, có ổ gà, có gò, có hào, còn nhiều việc sẽ không kể hết. Khi phải rời làng đi tản cư, ông mang theo nỗi nhớ quê da diết, dù ở xa làng nhưng ông luôn quan tâm đến tin tức từ làng. Cho đến khi nghe tin làng mình đi về phía Tây, anh đau đớn tủi nhục vô cùng, dù không thể tin nổi nhưng anh vẫn mặc cảm, xấu hổ và xấu hổ khi người ta cứ chửi cả làng. Đó là nó. Anh không dám đối mặt, cũng không có suy nghĩ gì khác, anh chỉ biết rằng mình đang lẩn quẩn trong nhà, bị ám ảnh bởi sự xấu hổ và nhục nhã, và anh không cảm thấy bị mắc kẹt cho đến khi bà chủ nhà muốn đuổi cả gia đình anh đi. anh thoáng nghĩ sẽ về Khi đến làng, anh gạt đi “Làng thì yêu thật, theo Tây thì làng ghét”.

          Có thể nói, khi chứng kiến ​​nỗi đau khổ của Xi-cun, nhà văn đã lột tả được cảm xúc của mình một cách chân thực và sinh động, đó là điều rất thông cảm và thấu hiểu. , dù làng còn sống hay đã mất thì trái tim ông luôn hướng về cách mạng, phụng dưỡng các cụ, các anh kháng chiến. Khi nghe tin làng chợ dầu của mình được cải tạo, không đầu hàng giặc, trong lòng ông vui mừng không sao tả xiết, nét vui mừng trên nét mặt cũng không thể diễn tả bằng lời. Anh ta chỉ đang khoe khoang về tin ngôi nhà bị đốt cháy, và anh ta sẽ không ngần ngại thừa kế tài sản của mình miễn là điều đó có thể chứng minh được lòng trung thành và danh dự của làng. Tình cảm làng quê sâu nặng của ông Hai thực sự khiến người đời cảm động, xúc động.

          Nhà văn Kim Lan đã để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc qua truyện ngắn “Hương quê”, đó là hình ảnh một người ông yêu nước, yêu nước sâu sắc, không sợ bất kỳ sự tàn phá nào. .Ông là đại biểu của nông dân yêu nước thời kì chống Pháp.

          Phân tích chi tiết truyện ngắn thôn quê của Kim Lan

          Phân tích Truyện ngắn Nông thôn – Văn mẫu 1

          Trong cuộc kháng chiến kiến ​​quốc, tinh thần yêu nước của mỗi dân tộc sẽ là sức mạnh vô hạn làm nên thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Có nhiều cách để yêu nước, những điều nhỏ nhặt bất cẩn. Yêu quê, gắn bó với quê cũng là biểu hiện của lòng yêu nước. Truyện ngắn nông thôn của Kim Đơn viết về một người nông dân có tình cảm gắn bó sâu nặng với làng quê, đất nước.

          Chuyện nhỏ ở làng kể về ông Hai, một người yêu làng, gắn bó với làng và luôn khoe khoang về làng của mình. Hễ nói đến làng là ông nói hăng say, mặc cho người nghe có chú ý hay không. Đầu tiên, ông khoe về cơ sở vật chất ở làng mình, nhà ngói san sát, đường làng toàn đá xanh, mưa làng này qua làng khác, bùn không dính gót chân. Vào ngày 10 tháng 5, rơm và ngũ cốc tốt nhất được phơi khô không sót một hạt đất. Anh cũng tự hào về cuộc sống trưởng thôn. Ông tự hào và vinh dự vì nét độc đáo và bề dày lịch sử của làng mình. Sau cách mạng, ông khoe về làng, những ngày khởi nghĩa chớp nhoáng, ông già râu bạc phơ vẫn chống gậy tập quân sự. Anh ấy cũng cho thấy các hố, gò, hào, v.v., nhiều thứ trong số đó vẫn còn nguyên vẹn.

          Sau khi giặc về làng, ông muốn cùng dân làng ở lại giữ nước, nhưng theo yêu cầu của cấp trên, ông phải rời làng. Phải rời làng đi xứ khác, anh mang theo bao nỗi nhớ. Ở một vùng đất xa lạ, trái tim anh bị tra tấn vô tận. Có thể nói, cuộc đời và số phận của ông thực sự gắn bó mật thiết với những vui buồn ở làng quê. Lòng yêu nước của mỗi người có thể bắt nguồn từ những điều bình dị vốn thuộc về làng quê của họ như cây đa, giếng nước, sân đình. Ông lão tuy đã xa làng nhưng vẫn hướng về làng, khi nghe tin làng đi về phía tây, ông lão “nghẹt cổ, da mặt tê tái” Ông lão lặng đi, nghĩ rằng mình sắp chết. Nhục nhã vì làng Hữu Thạch thân yêu theo giặc, ông chửi bọn Tây: “Chúng bay đến miệng ăn miếng cơm hay sao mà đi làm như bọn Việt gian bán nước làm nhục dân vậy”. Từ đó trở đi, anh không dám đi đâu, suốt ngày ở trong nhà nghe ngóng tin tức. Khi bà chủ nhà đến bảo không cho gia đình ở nữa, anh thấy cách sống như vậy là hoàn hảo, bèn nảy ra một ý, quyết định: “Về làng à?” Nhưng rồi ý kiến ​​này lập tức bị mọi người phản đối. ông lão vì: “Làng yêu thật thì ghét làng theo tây.” Khi ông Hai đang cân nhắc có nên trở về làng hay không, ông đã trải qua những cảm xúc đau đớn, đó là sự thất vọng và đau đớn tột cùng trong lòng nhân vật. .

          Tác giả thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với các nhân vật khi miêu tả chân thực cảm xúc của họ khi phải chứng kiến ​​nỗi đau mất làng, nước mất. Ông hai khổ sở không chịu nói chuyện đành phải tán dóc với đứa con út, đây cũng là một cách để ông thanh minh cho cái tên làng. Bác hỏi tôi: “Chú ủng hộ ai?” Bàn tay Bác khoát lên rất rõ ràng: “Ủng hộ Hồ Chí Minh muôn năm”. Đây là tâm huyết của cha con ông “Có chết cũng không dám mắc lỗi”. Khi làng chưa theo giặc, nét mặt, cử chỉ của ông đều vui tươi hớn hở. Ông đi bộ từ đầu làng đến cuối làng, khoe làng mình không theo tin giặc, khoe nhà mình bị đốt. Mừng quá, schadenfreude: “Anh ở đâu! Anh làm nghề gì? Tây nó đốt nhà em rồi. Cháy ổn định! Thôn trưởng nhà em vừa lên chỉnh anh, anh nói…tin tức, chúng ta sang Việt Nam tung tin giả. Dối trá! Toàn là dối trá! Tất cả là cố ý sai trái”. Tình cảm của ông với ngôi làng này thật cảm động và đáng khâm phục.

          Những truyện ngắn làng Kim Lan để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, họ là những nghệ sĩ thực thụ khi sử dụng ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm của ông Kim Lan. Việc miêu tả tâm lý nhân vật và diễn biến tâm lý của ông khơi dậy trong lòng người đọc những cảm xúc vô cùng xúc động. Cách miêu tả của tác giả về nhân vật này làm ta nhớ lại một thời chống Pháp ác liệt, ai cũng một lòng theo anh, theo đảng kháng chiến đến cùng, có lẽ chính vì vậy mà cuộc kháng chiến của chúng ta đã giành được thắng lợi vẻ vang.

          Phân tích Truyện ngắn Nông thôn – Văn mẫu 2

          Phân tích Truyện ngắn Nông thôn——Mẫu 3

          kim lan là nhà văn chuyên viết truyện ngắn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với sự am hiểu sâu sắc và nỗi nhớ quê, nông dân, truyện của ông thường xoay quanh cuộc sống đời thường, hoàn cảnh, phong tục tập quán cổ truyền của người nông dân Bắc Bộ. Ruan Hong nhận xét: Jin Yu là một nhà văn trở về với “đất” và “người” và cuộc sống nông thôn “thuần túy nguyên thủy”.

          Truyện ngắn “Làng” (1948) là một tiêu biểu tiêu biểu cho nhận xét của Nguyễn Hồng. Qua vai ông Hai, với đề tài tình quê, lòng yêu nước và tinh thần quật khởi của những người nông dân bỏ làng đi lánh nạn, Kim Dịch đã xây dựng thành công tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật miêu tả khắc họa tâm lý của người nông dân . Các nhân vật được thể hiện sinh động bằng ngôn ngữ của người nông dân và cách diễn đạt hàng ngày của họ.

          Trước hết, truyện ngắn “Làng” được Kim Vô Kỵ xây dựng bằng một tình huống đầy kịch tính, bộc lộ tình yêu làng, yêu nước sâu sắc trong nhân vật ông Hai. Đó là tin mà chính ông đã nghe được từ những người tản cư ngược xuôi rằng làng ông đã theo quân xâm lược. Tình huống này đưa câu chuyện vào ngõ cụt, khi ông Hai – một người yêu làng, luôn tự hào về làng và khoe khoang về nó – nay thường cho rằng mình đang rình rập giặc. Vì vậy, anh đau đớn và buồn bã, và cảm thấy xấu hổ về bản thân. Trong thế giới nội tâm của các nhân vật, có sự xung đột giữa nỗi nhớ và lòng yêu nước nhưng mỗi cảm xúc đều mạnh mẽ, tinh thần yêu nước quật khởi vô bờ bến bao trùm lên nỗi nhớ. Nhưng cuối cùng, khi nhận được tin chỉnh đốn làng, chính sự việc lại mở ra câu chuyện. Tình huống này chứng tỏ ông Hai và Youshicun luôn trung thành tuyệt đối với Cuộc kháng chiến chống Bác Hồ và dân tộc.

          Tương tự qua tình huống truyện, độc giả cũng đánh giá cao tài năng của nhà văn Kim Lan trong việc khắc họa và khắc họa tâm lý nhân vật sắc sảo qua vai diễn Kim Lan. Có thể nói, dưới sự tác động của hoàn cảnh và sự việc, khi biết tin Hữu Thạch Thôn theo giặc, tính cách và tâm lý của ông Hai có những biến đổi phức tạp, tác giả đã trực tiếp bắt chước nhân vật và nói bằng tiếng Anh. Các nhân vật diễn tả sự căng thẳng và mâu thuẫn trong thế giới nội tâm, xung đột diễn ra gay gắt. Cũng như bao người dân làng khác, ông Hải gắn bó sâu nặng với Làng Hạt Cải, nơi chôn rau cắt rốn của mình. Tình yêu của anh thật đặc biệt, và biểu hiện của tâm lý đó là luôn kiêu ngạo và thích thể hiện làng. Nhưng một việc bất ngờ đã xảy ra, ông phấn khởi bước ra khỏi phòng thông tin, nghe tin vui về Kháng chiến, mừng rỡ khi gặp đồng bào tản cư, nghe họ nhắc đến tên làng, ông Agen ấp úng hỏi: Tôi mong làng báo tin vui, nào ngờ cả làng theo giặc. Trước khi nghe tin dữ, ông lão như chết lặng: “Cổ lão hoàn toàn im bặt, da mặt tê dại. Lão không nói một lời, như không thở được”. Từ niềm vui, sự tự tin và hy vọng, anh rơi xuống vực thẳm của đau khổ, đau buồn và tuyệt vọng. Anh cố trấn tĩnh, định bỏ đi, muốn giấu cảm xúc nhưng nỗi xấu hổ, tủi nhục và lo lắng khiến anh “cúi đầu bước đi” và chửi bới. Bán nước như bọn việt gian”.

          Về đến nhà, ông nằm trên giường nhìn các con mà chạnh lòng: “Nước mắt ông cứ chảy dài”. Đoạn độc thoại nội tâm của ông bộc lộ nỗi niềm đau khổ: “Chúng nó cũng là con em nông thôn Việt Nam à? Chúng nó cũng bị tẩy chay sao?…”. Căm giận những kẻ theo giặc phản nước, ông già nắm chặt tay rít lên: “Chúng nó bay vào miệng ăn cơm hay sao mà chạy đi làm cái loại việt gian bán nước này nhục nhã như thế”. Điều này.” Nhưng ngay sau đó, anh ấy cảm thấy những gì mình nói không hoàn toàn đúng, và anh ấy “kinh ngạc”. Niềm tin và sự tuyệt vọng bị giằng xé giữa anh ấy. “Anh ấy đã kiểm tra mọi người trong trái tim mình”, và thấy rằng họ đều là những người có tinh thần kháng chiến, kẻ thù không liên quan gì đến anh, anh không dám làm điều ô nhục đó vì sống chết có nhau, trong hoàn cảnh chiến tranh, lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến là một tình cảm thiêng liêng cao đẹp; phản bội là nỗi xấu hổ lớn nhất.Vì vậy, từ khi nghe tin làng đầu hàng giặc.Sau khi biết tin, sự việc này trở thành nỗi ám ảnh và tra tấn trong lòng anh khiến anh không thể cất bước đến hôm nay.Cả ngày, anh chỉ biết loanh quanh trong không gian nhỏ hẹp ấy, nghe bộ đội bàn tán “Đông người tụ tập, anh cũng Để ý tiếng xa xa cũng lẫn lộn”, anh luôn cho rằng mọi người đang chú ý và bàn tán về “chuyện ấy”; mỗi lần nghe tiếng người Tây, người da cam, người Việt, ông đều lui vào một góc phòng và im lặng…”Đừng nói nữa! Anh luôn sống nội tâm và cảm thấy xấu hổ, buồn bã và dường như cũng có lỗi, khi bà chủ nhà hét đuổi gia đình anh đi, anh đã rơi vào tình thế tuyệt vọng vì “nghe nói có lệnh đuổi hết dân làng ra khỏi khu vực đó. để họ sống ở chợ dầu.” Ông nội thứ hai không biết đi đâu, và ông không thể về làng, vì về làng đồng nghĩa với việc rời bỏ tổ chức kháng chiến và những người già. về làng nghĩa là trở về làm nô lệ của Tây Hán.” Trong thân xác, cả hai đã có cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt, và quyết định chọn con đường “chân ái chân quê, theo tây ở quê thì phải ghét”. Lòng yêu nước che giấu tình yêu quê nhưng không thể bỏ được tình yêu làng, anh Buồn và xấu hổ. Không biết làm sao để trút tâm trạng uất ức chỉ biết bày tỏ lòng mình với con. Cuộc đối thoại giữa ông và con thật cảm động, bộc lộ tình cảm gắn bó sâu nặng với quê hương, đất nước, với cuộc kháng chiến. Ông và Con nói chuyện như nói với chính mình. Ông thật bất công và tự cho mình là đúng .Lời đối thoại chứa đựng đau thương, xót xa, thể hiện một lòng kháng Nhật, trung với cách mạng, chí hiếu với già.

          Có lẽ nếu không được tin đính chính, ông sẽ chết suốt đời trong đau đớn, tủi nhục và tủi nhục cho làng xóm. Sau đó, chính quyền làng đính chính tin làng theo giặc. Nhận được tin ông hai từ cõi chết sống lại, ngây ngất: ăn mặc bảnh bao, rạng rỡ, miệng há ra, nhai trầu, mắt đỏ hoe, chớp chớp, ríu rít mua quà cho các cháu. Niềm vui và hạnh phúc tràn ngập khiến anh giang rộng vòng tay. Và lạ thay, điều đầu tiên ông khoe không phải là làng mình không theo giặc mà là “Đốt nhà tôi đi… Với người nông dân, ngôi nhà là tất cả những gì họ đã làm lụng vất vả cả đời mới có được. Nhưng ông không tiếc nhà ông, bởi điều đó chứng tỏ làng ông không hề theo giặc, và quan trọng hơn cả, đó là công lao “góp công” của gia đình ông trong chiến tranh. trái tim.

          Ở đây, ta thấy được sự sáng tạo độc đáo của Kim lân trong nghệ thuật xây dựng cảm xúc, thật ly kỳ và kịch tính thử thách đời sống nội tâm của nhân vật, qua đó bộc lộ chiều sâu, tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của nhân vật. Tác giả miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế, cụ thể và xúc động qua suy nghĩ, hành vi và ngôn ngữ của thế giới nội tâm. Đặc biệt, tác giả miêu tả rất đúng và ấn tượng nỗi ám ảnh kéo dài trong cảm xúc của nhân vật. Điều đó chứng tỏ Kim Lân là người có sự hiểu biết sâu sắc về đặc điểm con người, tâm lý của người nông dân Việt Nam sau lũy tre làng.

          Qua tác phẩm, người đọc còn nhận thấy ngôn ngữ truyện rất đặc sắc, đặc biệt là ngôn ngữ của nhân vật ông Hai. Ngôn ngữ đầy những cách diễn đạt thông tục và hàng ngày của nông dân. Lời tường thuật và lời kể của các nhân vật thống nhất về sắc thái và giọng điệu, vì câu chuyện chủ yếu được kể từ góc nhìn thứ hai, mặc dù vẫn sử dụng lời kể của ngôi thứ ba. Tính cách và ngôn ngữ của ông Hai không chỉ có những nét chung của người nông dân, mà còn có tính cách bộc trực, bộc trực mà rất sôi nổi, thực tế và nhân hậu.

          Tóm lại, “Làng” của Kim Di là một truyện ngắn đặc sắc, vận dụng những tình cảm chung, phổ biến của con người thời kháng chiến chống Nhật: tình yêu quê hương đất nước; là đại diện tiêu biểu của tâm lý, tình cảm . Internet. Qua tác phẩm, ta thấy được nét tài hoa đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng, tạo nên những nhân vật tiêu biểu tiêu biểu với thế giới nội tâm phong phú, phức tạp và sinh động; ngôn ngữ truyện dung dị, giản dị, gần gũi với đời sống, xen lẫn độc thoại, đối thoại đan xen.. .…cả hai đều làm nên thành công độc đáo và hấp dẫn của truyện ngắn.

          Phân tích truyện ngắn nông thôn – Mẫu 4

          Cim Ranh là một nhà văn Việt Nam hiện đại. Anh có cuộc sống thâm trầm ở nông thôn Việt Nam. Thả diều, chọi gà, chó săn, bồ câu, leo núi, học hát, lễ hội mùa xuân và các trò chơi dân gian khác theo phong cách nhà nông, anh ấy viết rất hay và mang lại cho tôi rất nhiều niềm vui. Ông là một trong những cây viết truyện ngắn hay, qua hai tác phẩm Con chó xấu xí và Đôi bạn.

          Với chủ đề là nông dân và Chiến tranh chống Nhật Bản, những câu chuyện nông thôn của Jin Yi là thành công nhất. Nhân vật chính của truyện là anh Hai, người đã để lại trong lòng em ấn tượng sâu sắc và đẹp đẽ.

          Ông ngoại là một lão nông, cần cù, chất phác, giàu lòng yêu quê hương. Ông yêu cách mạng, kiên quyết đi theo đường lối Kháng chiến, tuyệt đối trung thành với sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chí Minh.

          Cũng như hàng triệu nông dân khác, ông Hải là một người rất hiền lành và chăm chỉ. Anh thường đi làm thêm, hay “ở quê anh làm quần quật suốt ngày, chẳng mấy khi ngơi tay chân”. Cày cuốc, nhặt phân, vỗ nước, đan sọt, đan áo, giỏi lắm, giỏi lắm.

          Ông nội sống qua hai chế độ, trước không biết chữ, theo cách mạng, ông được “bình dân học vụ” và đánh vần được. Kim Lân đã nói rất hay về tình yêu làng quê. “Làng ta phong cảnh hữu tình”…sao không yêu làng cho được? Làng Hữu Thạch là nơi chôn nhau cắt rốn của ông “Nhà ngói san sát, phồn hoa như tỉnh”.

          Ngày trước, ông Hai tự hào về cuộc sống trưởng thôn. Đi đến đâu ông cũng khoe, gặp ai cũng khoe: “Nhà tôi ở Thượng Thôn giàu lắm, vườn nhiều hoa cỏ như cái động…”. Với sự ngây thơ của một kẻ ít học, anh yêu Youshicun. Anh ấy đã bị thương khi buộc phải xây dựng lăng mộ đó! Anh ta không nên khoe khoang, anh ta không nên ‘hả hê’. Còn gì để nói về nỗi đau và tủi nhục của cuộc đời? Nhắc lại quá khứ của ông Hải, Kim Lan viết với giọng điệu nhẹ nhàng và châm biếm. Sau khi cách mạng thành công, ông Hai vẫn yêu quê bằng tình cảm trong sáng. Anh ấy có rất nhiều thay đổi về nhận thức. Anh không bao giờ “đụng” đến “địa điểm sinh nở” ấy nữa, và anh biết trong lòng mình “ghét cay ghét đắng”. Anh yêu làng chợ dầu của Kháng chiến bằng tất cả niềm tự hào cao quý của mình! Ở làng Youshi của anh ấy, “phòng tuyên truyền rộng rãi và sáng sủa nhất trong toàn huyện, đài phát thanh cao bằng mái tre, buổi chiều cả làng đều có thể nghe thấy”. Ông khoe làng mình “Những ngày mây gió lộng”, ông già râu tóc bạc phơ vác gậy tập binh, “nhất là hố, gò, mương làng mình đã lập công lớn. Chương trình không có “Đừng đi đâu cả!” “.Có thể nói, kể từ ngày lưu lạc, phải xa làng quê thân yêu, biết bao vui buồn của kiếp trước và kiếp sau đều chất chứa trong lòng. Trong ngòi bút của Jin Wuni, ông Hai , một người đàn ông yêu nông thôn, Những người nông dân yêu nước, hiền lành, chất phác…bề ngoài thật khiến ta thấy hiền lành, chân chất và đáng yêu.Yêu nước, yêu tổ quốc là một trong những tình cảm sâu sắc nhất của người Việt Nam.

          Quyết tâm đánh Nhật và tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là những nét rất đẹp trong tư tưởng, tình cảm của Người. Trong kháng chiến chống Nhật, “ruộng là chiến trường, cuốc là vũ khí, nông dân là chiến sĩ”. Vợ con phải đi sơ tán nhưng ông vẫn “đào đường, đắp đê” cùng du kích canh giữ làng Hữu Thạch thân yêu. Khi gia cảnh túng quẫn, vợ con làm loạn phải bỏ quê ra đi, ông tự an ủi: “Không ở được với anh em ở làng thì đi âu cũng là một kiểu phản kháng! ” “.

          Xa làng lại nhớ làng, tính tình ông lão có những thay đổi. Anh ít nói, ít cười, lầm lì, thậm chí hay cáu gắt, đánh mắng vợ con. Anh đau khổ: “Mày làm nó khổ! Mày làm nó khổ! Nó giết hết, nó giết hết!”. Chúng tôi đồng cảm với “tâm tư” sầu muộn của anh và thương anh vô cùng!

          Ông Hai, trong lúc phấn khởi trước thành tích và tấm gương anh dũng của quân dân ta, đồng thời, “quỷ dữ” câu “đi Tây”, …, “cờ Chúa” cướp toàn cõi Việt Nam làng Youshi! Anh khiêm tốn cúi đầu bước đi, nằm trên giường như bị bệnh nặng, nước mắt cứ tuôn trào, nhiều lúc anh còn chửi rủa cay đắng! Anh sống với bi kịch triền miên. Vợ con tôi buồn và sợ hãi. “Căn phòng im lìm hiu quạnh”. Anh sợ bà chủ… nhiều lúc anh nghĩ “mình về làng đi”… nhưng rồi anh lại cương quyết: “làng thích lắm, nhưng làng mà đi Tây thì không được”. .” phải trả thù!. kim đơn miêu tả rất sâu sắc và tinh tế niềm vui, nỗi buồn, lo, sợ của người nông dân đối với làng của mình…, họ đã yêu làng trong lòng yêu nước, yêu nước cao hơn yêu nước. Đây là bài học vô cùng quý giá và sâu sắc mà thầy đã mang đến cho mỗi chúng ta!

          Cuộc đối thoại giữa hai cha con thật cảm động và thú vị:

          … – “À, tôi hỏi bạn, bạn ủng hộ ai?”

          -“Hồ Chí Minh muôn năm!”

          Nghe đứa con trai ngây thơ kể mà nước mắt ông chảy dài trên má… Cha con ông, hàng triệu nông dân Việt Nam, lòng trung với lãnh tụ sâu nặng, thủy chung, tâm hồn cao đẹp thật đáng tự hào và ngợi ca.

          Vì thế, ông Hải là người vui nhất khi tin giả “cả làng chợ dầu miền Tây Việt Nam” được cải chính. Ông “vui vẻ rạng ngời”, “miệng vui miếng trầu, mắt đỏ hoe…”. Ông đã mua một món quà cho con trai mình. Anh chạy đến nhà chú của mình để “khoe” tin làng Youshi đã chiến đấu chống lại kẻ thù và ngôi nhà của anh đã bị cháy ở phía tây. Thật tự hào! Bạn đọc tha thiết chia vui cùng ông.

          Lật từng trang sách, ta xúc động trước tình làng nghĩa xóm của ông Hai, qua lời kể của nhà văn Kim Youni đã vận dụng nghệ thuật kể chuyện để tạo nên những tình huống hấp dẫn, hồi hộp. Những phẩm chất tốt đẹp cần cù, giản dị, yêu quê hương đất nước… của ông Hai thể hiện bản chất cao cả, trong sáng của người nông dân Việt Nam. Họ đã làm việc chăm chỉ để làm ra bát cơm ngon để nuôi sống mọi người. Chính họ đã đem xương máu đánh giặc “giữ làng, giữ quê, giữ túp lều tranh, giữ ruộng lúa chín”… (Xin Cương).

          “Quê em là chùm khế ngọt…” là niềm vui, nỗi buồn và ước mơ đẹp đẽ của mỗi chúng ta. Tổ quốc đổi mới “gạch”, thịnh vượng phồn vinh, thế giới hòa bình thịnh vượng.

          <3

          Phân tích Truyện ngắn Nông thôn – Văn mẫu 5

          Quê tôi là những chùm khế ngọt, ngày nào lũ trẻ con cũng được trèo lên hái. Quê hương bên chiếc cầu tre nhỏ đầy bướm vàng bay lượn.

          (Quê hương – Xuân Đỗ Trọng)

          Quê hương trong lòng mỗi người là nơi đẹp nhất, nhân hậu nhất. Vì vậy, yêu quê hương luôn là chủ đề xuyên suốt trong văn học. Truyện ngắn đồng quê cũng là nguồn cảm xúc ấy. Đây là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân viết trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp (1948). Truyện khắc họa nhân vật ông Hai – một lão nông cần cù, chịu thương chịu khó, hoài cổ và có tình cảm chống Nhật.

          Ông yêu làng chợ dầu của mình nhiều, tha thiết đến nỗi đi đâu ông cũng khoe về làng mình. Nói về làng Youshi, tôi không biết người nghe có chú ý hay không, nhưng anh ấy đã nói rất nhiệt tình. Anh kể, ở làng anh nhà ngói san sát dày đặc, đường làng lát đá xanh, mưa từ đầu làng đến đuôi làng, bùn không dính gót chân. Rơm được phơi nắng tháng 10 và là những hạt thóc mịn nhất, không sót một hạt nào.

          Ông cũng tự hào về cuộc đời trưởng thôn. Ông tự hào và vinh dự vì nét độc đáo và bề dày lịch sử của làng mình. Nhưng khi cách mạng thành công đã giúp ông nhận ra sai lầm của mình. Từ đó về sau, mỗi khi về làng, ông lại khoe về những ngày khởi nghĩa, luyện quân, có một ông già râu bạc phơ cũng chống gậy tập trận. Anh ấy cũng cho thấy các hố, gò, hào, v.v., nhiều thứ trong số đó vẫn còn nguyên vẹn. Hoàn cảnh khó khăn khi địch vào làng, ông buộc phải rời quê hương. Rời làng anh mang theo tất cả nỗi nhớ. Vì vậy, khi sơ tán, ông đã phải chịu đựng rất nhiều.

          Quả thật, cuộc đời và số phận của ông gắn bó thật sự với những vui buồn của làng quê. Lòng tự hào, yêu mến nơi “chôn rau cắt rốn” đã trở thành truyền thống và tâm lý chung của mọi người nông dân hiện nay, có lẽ lòng yêu nước của họ bắt nguồn từ những điều bình dị, nhỏ bé: cây đa, giếng nước, sân đình… và nuôi dưỡng là: Yêu nước, khi đến đây, tôi chợt nhớ đến câu nói nổi tiếng bất hủ của nhà văn Ilya Ellenbua: “Yêu quê hương, yêu quê hương, và yêu quê hương là yêu tổ quốc”.

          Những ngày xa xứ, tình yêu làng quê trong anh càng thể hiện rõ. Anh luôn nhớ về làng vùng thiên tai, yêu làng, yêu những con đường, ngõ xóm, những ngôi nhà ngói, sân gạch. Anh ấy yêu tất cả những gì gần gũi và độc đáo của ngôi làng. Anh đã tận hưởng khoảng thời gian hạnh phúc khi cùng anh em đào đường, đắp bờ, đào mương, xúc đá. Từ cái tình yêu quê, cái truyền thống ấy, ông đến với cách mạng từ lúc nào, thậm chí chính ông cũng không biết. Anh tham gia tản cư vì anh cũng tham gia kháng chiến. Ở nơi sơ tán, ông luôn chú ý đến tin tức trong làng và thường đến phòng tin tức để nghe báo chí.

          Hôm ấy, ông được nghe nhiều tin vui: “Em bé tình nguyện bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm cờ tổ quốc lên tháp rùa”, “Tiểu đội trưởng diệt bảy tên giặc đã tự sát”. “.” Giết bằng quả lựu đạn cuối cùng”; “Các nữ du kích giả làm người đi chợ bắt quả tang giữa chợ. Chà! Tin vui, lão già bụng phừng phừng. Đi đâu lão cũng mãn nguyện , Ông thường khoe về làng quê và tinh thần kháng chiến của nó, Sau cách mạng, ông khoe về nông thôn đã khác, ông không còn tự hào về cuộc sống thượng đẳng mà căm ghét nó. hiểu biết mới về nông thôn.Nhận thức mới và suy nghĩ mới.Họ biết đâu là đúng, đâu là sai.

          Tuy nhiên, đang vui mừng khôn xiết thì một cú sốc lớn ập đến với ông Er: hay tin You Shicun là người Việt theo Tây. Ngày đó, hắn vừa ra khỏi phòng tình báo, liền nghe được tin tức từ người phụ nữ chuyển chỗ ở, nói với ông lão: “Yên tĩnh, hắn như không thở được, thật lâu sau mới khó khăn nuốt xuống cái gì.” quàng vào cổ anh, nhỏ giọng hỏi, hai người đều bàng hoàng trước tin đó, sau đó anh đau đớn tột cùng, lết chân về nhà, những ngày sau đó anh ở lì trong nhà, không dám đi đâu, và bị phơi bày khắp nơi.

          Lần đầu về quê, chẳng dám đi đâu, ở nhà một mình, cái giọng đanh đá của người đàn bà tha hương cứ văng vẳng trong tâm trí anh: “Đói, ăn trộm bắt người, còn thương chúng nó mà bán nước. sự đa dạng sẽ cho mọi đứa trẻ một cơ hội.” Ồ! Sao lại có chuyện như vậy, có thật không, nhìn lũ trẻ thơ dại, tủi thân, ông lão chỉ biết bật khóc: “Mấy đứa nó cũng là con nhà quê Việt Nam mà, mẹ kiếp, thế đấy. ….. trái tim ông lão như bị xé toạc ra, hình như có cái gì đó đang bóp nghẹt trái tim ông, khiến ông khó thở và đau đớn vô cùng, rồi ông lại bắt đầu nói một mình, có lúc ông nói không, rồi ông mới biết đó là sự thật. , Phải chăng hơn: “Không có gió thì không có sóng. Mọi người đang làm những thứ này cho cái quái gì vậy? Ồ! Làm nhục? Cả nước Việt Nam người ta căm thù giống Việt gian phản quốc…” Rồi lòng anh lại nhói đau, lòng anh cứ thay đổi, luôn có hai quan điểm trái ngược nhau.

          Rồi ông nói chuyện với đứa con trai út, để nó thở phào nhẹ nhõm, ông hỏi con nó ủng hộ làng hay ông già, nghe nó ủng hộ Hồ Chí Minh, lòng ông như được bồi đắp, và anh ấy càng chiến đấu, anh ấy càng trở nên mạnh mẽ hơn. khôn ngoan hơn. Tấm lòng của cha con hắn là như vậy, không dám phạm sai lầm: “Các đồng chí đều biết đó là cha con hắn, lão tử đầu lĩnh tìm cha con hắn.” Khi anh ấy biết rằng không còn ai trong khu vực di dời để tiếp nhận những người dân làng ở chợ dầu, anh ấy thấy mình rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan dẫn đến một quyết định cao cả. “Làng yêu thật, làng theo Xí thì phải ghét”. Đó là một hành động cao cả của hai ông – một người dân yêu nước. Cuối cùng ông đã chọn đi theo cố nhân cho phù hợp với lý tưởng cách mạng của mình, ở đây ta thấy được sự hòa quyện của tình yêu quê hương đất nước. Đây là một bước tiến mới trong tư duy tình cảm của người nông dân Việt Nam ở thời điểm giao thời giữa cũ và mới.

          Rồi hay tin làng Việt Nam theo Tây đã được chấn chỉnh, ông chìm trong mây khói của hạnh phúc, niềm hạnh phúc vô biên. Anh lại tự hào về làng, tự hào về làng, anh còn khoe ngôi nhà bị tây đốt, anh kể cho tôi nghe chi tiết cuộc chiến chống khủng bố ở miền tây, kể đủ thứ. Đánh bao nhiêu người cũng không được, thôn các ngươi làm sao chống đỡ, giống như lão bản chính mình vừa mới tham chiến vậy. Đến đây, có thể thấy cảm xúc bên trong đã có những thay đổi rõ rệt, từ thay đổi tình cảm với con người, từ đau đớn tột cùng đến hả hê. Qua đó có thể thấy nghệ thuật xây dựng tình huống, cốt truyện và miêu tả nội tâm nhân vật có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với một tác phẩm văn học.

          Quê hương là hình ảnh không thể phai mờ trong thơ ca. Nhà văn ilia erenbua đã từng viết: “yêu làng đã trở thành yêu nước”. Cụ Kim Lan gửi gắm thông điệp này đến độc giả qua một cốt truyện bất ngờ, nét đẹp mới của người nông dân lồng ghép tình yêu với làng quê thân yêu. Hải là tấm gương tiêu biểu của nông dân Việt Nam thời đại mới. -cũ.

          Phân tích Truyện ngắn Nông thôn – Văn mẫu 6

          Truyện ngắn của Kim Lan, một nhà văn trong làng, được viết trong những ngày đầu kháng chiến chống Nhật và được đăng trên báo Văn nghệ năm 1948. Câu chuyện về ông Hải, một nông dân phải bỏ làng đi tản cư. Từ đó ta cũng cảm nhận được tình cảm yêu nước của nhân dân ta trong thời kỳ chống Pháp.

          Câu chuyện về ngôi làng này khai thác một tình cảm phổ biến trong chiến tranh. Đây là tình yêu của quê hương. Mặc dù thành công của Kim Lan là tình cảm cộng đồng, nhưng nó lại thể hiện tình cảm tâm lý phổ quát đó bằng hình ảnh con người sinh động, trở thành nét tâm lý sâu sắc của nhân vật Kim Lan. Vì vậy, đó là một cảm giác chung, nhưng rõ ràng là một cảm giác cá nhân riêng, in dấu rõ ràng tính cách của các nhân vật.

          Giống như những người nông dân khác trong thời kỳ kháng chiến chống Nhật, với một tình cảm đặc biệt, ông rất yêu ngôi làng này, mảnh đất nơi ông sinh ra và lớn lên, nơi ông cất tiếng khóc lần đầu tiên – làng Hữu Thạch. Ông rất thích nói về làng, luôn khoe về làng và tự hào về làng trên nhiều phương diện. Anh tha thiết bày tỏ tình cảm này khi phải rời làng đi tản cư.

          Ông thứ hai kể về làng với tinh thần sảng khoái và đôi mắt sáng ngời. Hãy chủ động thay đổi diện mạo. Và đây không phải là lần đầu tiên ngôi làng được nói đến. Đêm nào cũng vậy, đến đoạn về làng cũng là hết chuyện.

          Thái độ của ông đối với làng được thể hiện một cách tinh tế qua lời nhận xét khoác lác. Sự khoe khoang của anh ta rất đa dạng, từ đắc thắng đến giải thích uể oải, nói nhiều và nói nhiều. Ông Hai khoe làng ông có phòng công vụ rộng rãi sáng sủa nhất huyện, đài phát thanh cao bằng nóc tre, buổi chiều cả làng đều nghe thấy. Anh dùng những ngôi nhà mái ngói để khoe làng anh náo nhiệt như cả tỉnh. Những con đường trong làng được lát bằng những phiến đá xanh.

          Ông hai còn khoe xuất thân là trưởng thôn. Anh ấy có vẻ rất tự hào về ngôi làng vì đã có phần đó. Ngôi biệt thự ở xóm trên tôi giàu có. Khu vườn cây cảnh và hoa trông giống một hang động hơn là ngôi mộ của cô Hardon. Sau Cách mạng 1911, ông Hai mới có hiểu biết mới khoe quê mình.

          Ông không khoe ngôi mộ nữa nhưng ông cũng biết chính ngôi mộ này đã hành hạ ông và dân làng. Bây giờ nhắc đến làng mình, ông lại kể về những ngày khởi nghĩa, những cuộc hành quân và những hố, ụ, hào của làng mình. Đôi khi anh ấy thậm chí còn ngại kể về những cuộc phiêu lưu và những câu chuyện.

          Tôi phải nói rằng những biểu hiện và sự khoe khoang của cả hai đều là tình yêu đất nước nghiêm túc. Anh yêu làng quá nên đem ra khoe, để anh khỏi nhớ làng, để anh khỏi nhớ phong trào cách mạng ở làng.

          Một biểu hiện khác của ông Hai cũng xuất phát từ tình yêu của ông với làng Youshi, và ông không muốn rời làng khi đến hạn. Ông luôn nghĩ: Tôi sống ở làng này từ nhỏ, và ông cố của tôi đã sống ở làng này từ nhiều đời. Bây giờ gặp phải thời buổi thực tế như vậy là việc của quần chúng, không phải việc của riêng ai. Người ông thứ hai rất khổ sở trước hoàn cảnh như vậy.

          Thay vì chống cự trực tiếp trong làng, anh phải đi sơ tán. Không một ngày nào anh rời khỏi làng mà không nghĩ về nó. Nỗi nhớ làng cứ lởn vởn trong lòng ông. Tất cả nỗi nhớ này đều tập trung vào các hoạt động kháng chiến: ca hát, đào mương, dời đá. Tình yêu đất nước của ông Hai đã được phát triển, và nuôi dưỡng thêm một tình yêu mới – tình yêu kháng chiến. Ông Hai không chỉ là dân làng cải dầu mà còn là một chiến sĩ đấu tranh của làng.

          Tác giả Kim Uni diễn tả một nét tâm lý tình cảm quen thuộc trong truyền thống nông dân. Nỗi nhớ quê hương, niềm tự hào. Tâm lý tự hào đó còn được ca dao thể hiện:

          Anh đi em nhớ quê hương, em nhớ canh rau muống, em nhớ giá đỗ, em nhớ ai dãi nắng dầm sương, em nhớ ai tát nước bên vệ đường.

          Khởi nghĩa và nổi dậy đã khơi dậy lòng yêu nước mạnh mẽ trong nông dân. Ở ông, tình yêu quê hương và lòng yêu nước là thống nhất. Như nhà văn Elijah Ellen Bua đã nói: “…tình yêu quê hương, yêu làng, yêu làng trở thành tình yêu quê hương”. Để mỗi người đọc cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng yêu nước của ông Hai, người nông dân cách mạng.

          Tác giả đã đặt anh ta vào một tình thế khó khăn. Trong trường hợp đó, đó là tin làng Youshi đang theo dõi kẻ thù, mà chính anh ta đã nghe được từ những người đã trốn thoát khỏi làng của mình. Một người luôn khoác lác về làng, tự hào về làng như ông nội mình, sao không xót xa khi nghe tin dữ. Hai người sững sờ trong chốc lát, cổ lão nhân hoàn toàn bị chặn lại, trên mặt tê dại. Ông già im lặng như không thở được.

          Kể từ lúc đó, hai tin dữ này xâm chiếm tâm trí anh và trở thành nỗi ám ảnh dày vò anh. Ra đường thì cúi đầu, về đến nhà thì nằm lăn ra đường, nước mắt lưng tròng. Bao nhiêu câu hỏi nhức nhối, rồi trằn trọc mãi không ngủ được. Không chỉ như vậy, mấy ngày sau, hắn cũng không dám đi đâu, chỉ ở nhà nghe ngóng, sau đó nơm nớp lo sợ tin tức.

          Ông lo rằng người ta sẽ đánh đuổi dân làng Việt Nam. Nhưng anh ấy không thể quay trở lại làng vì anh ấy đã rời bỏ cuộc chiến tranh chống Nhật Bản và ông già. Đối với người đồng hương, anh ấy thực sự yêu anh ấy, nhưng nếu anh ấy đi từ phía tây, anh ấy phải ghét anh ấy. Tấm lòng, lòng yêu nước của ông đối với làng chỉ mình ông biết, không biết kể cùng ai.

          Ông nói về tình cảm của mình với đứa con trai út, và lắng lại trong lòng: ông già bật khóc, và ông sẽ không bao giờ dám phạm sai lầm khi chết. Đó có phải là trái tim của anh ấy không? Chúng ta cảm động trước hoàn cảnh và những cảm xúc dao động của anh Hải, đồng thời cũng cảm nhận được lòng trung thành của anh đối với công cuộc Kháng chiến, với cách mạng mang dấu ấn của Bác Hồ.

          Nhưng có thể nói, điều làm chúng tôi xúc động hơn cả là tâm trạng của ông Hai khi hay tin làng Hữu Thạch chấn chỉnh, không đi theo giặc. Mỗi ngày, anh chợt vui lên khi anh cau mày, gọi con trai đến chia quà. Ông khoa tay múa chân để khoe, và điều cảm động nhất là ông không hề tiếc hay buồn trước cảnh nhà mình bị giặc đốt.

          Niềm vui về làng không theo giặc, không theo ngoại bang chiếm hết tâm trí ông, nỗi đau khổ, bế tắc bị cuốn trôi. Lúc này, ông Hai mới giải thích rành rọt chuyện làng mình như thể ông vừa đi chiến trận về. Có thể nói, ông Hai là hình ảnh đẹp của người nông dân bình thường, nhưng tràn đầy lòng yêu nước. Một tấm gương quý giá về cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của nước ta.

          Ngoài thành công về nội dung, truyện thôn quê kim chi còn thành công về mặt nghệ thuật. Tình tiết truyện được xây dựng theo diễn biến tâm lý thuyết phục, có ý nghĩa sâu sắc chính bởi tình cảm quê hương của những con người thời loạn.

          Ngôn ngữ miêu tả nhân vật trôi chảy, từ ngữ địa phương. Tác giả có khả năng miêu tả tâm lý nhân vật, xây dựng tình huống truyện độc đáo, giúp người đọc khép lại trang sách mà vẫn bồi hồi xúc động bởi tình yêu làng quê mình, nghệ thuật kể chuyện tạo tình huống hấp dẫn. Phúc hồi hộp.

          Sau khi đọc tác phẩm Nông thôn của nhà văn Kim Lân, tác giả đã để lại ấn tượng rất tốt đẹp về hình ảnh ông Hai. Người nông dân làm hay khoe đều gắn bó bền chặt với làng. Tình làng gắn liền với tinh thần kháng chiến, yêu nước, một lòng theo già. Đồng thời, bạn cũng có thể cảm nhận được sự kết hợp hoàn hảo trong cách viết về nông dân và nông thôn của nhà văn Jin Wuni.

          Phân tích truyện ngắn nông thôn – Mẫu 7

          Làng Kim Lan là một tác phẩm rất hay, thể hiện tình yêu quê hương của ông Hai, nhiều tình tiết hay, hấp dẫn trong tác phẩm để lại cho người đọc nhiều cảm xúc.

          “Làng” là tác phẩm xây dựng lại xã hội cũ, nơi biết bao biến cố, khó khăn, bom đạn đe dọa chúng ta hàng ngày. Nhưng hình ảnh người nông dân hiền lành luôn được đề cao bởi lòng yêu nước, yêu nước.

          Bức tranh này thể hiện tình cảm của người dân nơi đây, vì nước nhà, những người nông dân đó đã phải bỏ nhà ra đi bảo vệ tổ quốc. Ông Hai là một nhân vật điển hình, vì giặc đến ông phải bỏ làng nhưng khi ra đi ông vẫn nhớ về làng và ông phải tự động viên mình để vơi đi nỗi nhớ quê hương. .

          Với niềm vui và tự hào về làng mình, anh luôn háo hức khoe với mọi người về làng mình, anh kể cho mọi người nghe về tình yêu của mình với khu chợ dầu thân yêu, và anh luôn thể hiện tình cảm của mình một cách mãnh liệt . Với tính cách hoài cổ, ông nói gì với người ta cũng có khí phách hiên ngang, bất khuất, nói hăng say không biết mỏi miệng.

          Gặp ai kể về làng mình, từ những người hàng xóm mới tản cư đến anh em đào mương đắp đê, anh đều bày tỏ tình cảm mọi lúc, mọi nơi và niềm vui đó mang lại cho anh một cảm xúc mới về con người.

          Ông coi làng như máu thịt, háo hức, vui vẻ đắm mình kể chuyện làng, cho thấy người dân trong làng đều là những người có tinh thần cách mạng cao cả, những anh hùng nhân dân luôn hết mình cho dân làng và đất nước. Với tâm trạng như vậy, anh không muốn tản cư chút nào, khi phải đi anh rất đau khổ và tuyệt vọng, lúc đầu anh cũng trở nên trầm tính, khó hòa hợp với vợ con, vì lòng anh hướng về đồng bào. quê hương, đại gia đình, nước có làng.

          Và anh ta khoe khoang với mọi người về thị trường dầu mỏ, nơi anh ta đánh bại phương Tây, và anh ta khoe với mọi người về ngôi làng của mình một cách tự hào, và thật là một niềm vui, thật là một niềm vui, niềm vui đó của anh ta đã khuấy động tâm hồn anh ta. Tự hào vô cùng về ngôi làng của mình.

          Nhưng khi nghe tin làng mình đầu hàng giặc, ông Hai buồn lắm, cổ nghèn nghẹn, mặt mũi đau đớn không thở được, ông vẫn cho là không có thật. “Thật lâu sau, ông ấy mới nuốt xuống một cách khó khăn những gì mắc kẹt trong cổ họng… Giọng nói của ông ấy hoàn toàn biến mất”; “Ông Hai cúi đầu bước đi.”

          Anh cảm thấy xấu hổ, anh không tin đó là sự thật, nếu trước đây anh tôn thờ và yêu mến ngôi làng này, thì đây là tiếng sét đánh ngang tai, khiến anh chết lặng. Ngậm ngùi, bẽ bàng, ông nói: “Nhìn các con, tôi xót xa và không cầm được nước mắt… Chẳng lẽ chúng cũng là những đứa con của làng quê Việt Nam sao…?” Nỗi đau đớn tuyệt vọng từ từ bộc lộ trong đôi mắt và trái tim anh.

          Anh xấu hổ với mọi người, khi mọi người biết tin, gia đình anh rơi vào cảnh không nhà cửa. Tinh thần của anh ấy vô cùng ngoan cường, và anh ấy dành tình yêu vô hạn cho ngôi làng này, nhưng khi nghe tin anh ấy sẽ đi về phía tây, anh ấy cảm thấy xấu hổ và không muốn quay lại, đó là một nơi đáng xấu hổ, một nơi đáng xấu hổ, và anh ấy rất ghét nó đến tận xương tủy. , khi anh ta ở lại để chống lại, ông già …

          Một người đàn ông, giàu tình cảm, vẫn yêu nước khi ai đó luôn chiến đấu cho cách mạng, nhưng khi đã nghe lời Tây, dứt khoát, anh ta không thể yêu một người đàn ông nào. Họ bỏ vùng đồng bào đi theo giặc. Một tâm hồn đau khổ, chìm đắm trong sự sỉ nhục, khiến anh đau đớn.

          Nhưng khi trong làng nghe tin cải cách, lòng ông rạo rực, ông lập tức vui lên, cười rạng rỡ, đi mua quà cho lũ trẻ, khoe rằng làng mình không đi tây .Hạnh phúc đã trở lại với anh. Một tính cách đa diện của lòng yêu nước, yêu nước, yêu quê hương.

          Tác phẩm để lại cho người đọc nhiều xúc cảm, về tình cảm của con người đối với quê hương, làng xóm.

          Phân tích Truyện ngắn Nông thôn – Văn mẫu 8

          kim uni là một nhà văn giỏi viết truyện ngắn. Phần lớn các tác phẩm của ông chỉ viết về sinh hoạt của người nông dân và cảnh ngộ của họ. Truyện Làng ra đời trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và được đăng lần đầu trên tạp chí văn nghệ năm 1948.

          Truyện tập trung vào tình cảm yêu nước của hai ông cháu, tình cảm yêu nước này bắt nguồn từ tình yêu cắt rốn chôn nhau cắt rốn, cô đọng lại tình quê, tình quê. Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, tình cảm và ý nghĩa này rất phổ biến trong mỗi người Việt Nam.

          Qua hình ảnh ông Hai ta sẽ hiểu rõ tình cảm yêu nước của nhân dân ta. Làng Youshi xảy ra chiến tranh, ông phải tản cư và đốt làng Thắng, vùng tự do theo chính sách của Bác Hồ. “Nhập gia là yêu nước”. Nhưng hắn không phải rời đi Hữu Thạch thôn, bỏ lại tất cả, ngược lại, hắn vẫn luôn mong chờ tin tức, chú ý đến Hữu Thạch thôn biến hóa. Đó là nơi anh sinh ra, là nơi anh sinh ra và lớn lên.

          Anh có quá nhiều tình cảm với cảnh vật và dân làng trên mảnh đất này. Bởi vì điều này, mỗi khi anh ấy nói về làng Youshi, giọng điệu của anh ấy đều vô cùng nhiệt tình và nhiệt tình. Anh Hải có tình cảm đặc biệt với làng Youshi, anh yêu mọi thứ trong làng: những ngôi nhà mái ngói san sát, những con đường lát đá xanh…cuộc sống của quan tổng đốc…

          Sau Cách mạng Tháng Tám, tâm huyết của ông với nông thôn thay đổi rõ rệt. Ngày xưa ông tự hào về sự giàu đẹp của làng mình. Bây giờ ông tự hào về những thứ khác: phong trào cách mạng sôi nổi, những cuộc diễn tập quân sự, những cuộc mít tinh trên đê, hầm hố, chiến hào… thậm chí cả phòng thông tin, chòi truyền tin….

          Trong mắt ông Hai, mọi thứ ở làng Youshi đều đáng tự hào. Vì vậy, kể từ khi phải sơ tán, anh đã bị hành hạ bởi những cơn đau vô tận. Quả thật, cuộc đời và số phận của ông thực sự gắn bó với những vui buồn của làng quê. Niềm tự hào, yêu mến chôn nhau cắt rốn đã trở thành truyền thống, thành tâm trạng chung của mọi người lúc bấy giờ.

          Chính cách mạng và cuộc kháng chiến chống Nhật đã khơi dậy tình cảm yêu nước trong lòng người nông dân, tình cảm ấy hòa quyện với nỗi nhớ nhà và trở thành tình cảm rộng rãi nhất. Đến đây, tác giả đặt nhân vật vào hoàn cảnh gay gắt và thể hiện sâu sắc tình yêu làng, đất nước. Hai kịch bản này là tin tức rằng Youshicun đang theo dõi kẻ thù: “”. Đột nhiên nghe được tin này, ông nội thứ hai sửng sốt, “Cổ của ông già bị tắc hoàn toàn, và khuôn mặt của ông ấy tê liệt.”

          Ông già không nói gì, như không thở được. ‘Ông ấy cảm thấy nhục nhã vì ngôi làng Youshi thân yêu của mình đã đi theo kẻ thù và tạo ra nhiều niềm kiêu hãnh giả tạo, và giờ nó đã sụp đổ, và kể từ lúc đó, ông nội không dám đi đâu nữa, và luôn nói không với sự sợ hãi. Này, có vẻ như ai đó đang nói về điều này…

          Và từ ám ảnh đến sợ hãi, lòng anh nhói đau và tủi hổ: làng quê có dịch bệnh. Hai cảm giác này đã dẫn đến mâu thuẫn nội tâm của người chồng. Vì vậy, anh từng nghĩ, “Tình yêu đích thực ở nông thôn, làng Xixia phải ghét.”

          Rõ ràng lòng yêu nước rộng hơn, bao hàm cả tình yêu đất nước. Mặc dù đã quyết định như vậy, nhưng anh vẫn không thể giảm bớt tình cảm đối với thôn Youshi, trong lòng càng thêm đau khổ. Phải có sự hiểu biết sâu sắc về tâm lý của con người, đặc biệt là người nông dân thì nhà văn Kim Lan mới có thể diễn tả đúng tâm trạng nhân vật của mình.

          Kể từ đó, vì nỗi khổ tâm này, ông lão chỉ biết tâm sự với những đứa trẻ thơ ngây: “Gia đình tôi ở làng Youshi”, “Ủng hộ chú và con!” Để bày tỏ tình cảm của mình là khẳng định tình yêu sâu đậm của mình với Youshi làng, đồng thời khẳng định lòng trung thành với cách mạng và công cuộc Kháng chiến ghi dấu ấn của người cao tuổi. .Lòng yêu nước của Hai càng thể hiện rõ khi nghe lời đính chính: làng bị giặc phá không theo Tây.

          Nỗi lo lắng, xấu hổ không còn, thay vào đó là niềm vui sướng ngập tràn, anh nói “Nó cháy nhà rồi sếp ơi. Đốt đi!”. Đó là một sự hồi hộp kỳ lạ. Niềm vui này là một biểu hiện đau đớn và cảm động về tinh thần cách mạng yêu nước của Người.

          Đây là nỗi niềm riêng của ông Hai, đồng thời cũng là nỗi niềm chung của những người nông dân thời chống Pháp, hay nói đúng hơn là của nhân dân cả nước ta. Đối với lũ lúc này, nước là trên hết. Vì Tổ quốc, họ sẵn sàng hy sinh tất cả, dù là tính mạng hay tài sản. Đây là tinh thần yêu nước của nhân dân ta.

          Thành công của Kim Uni nằm ở việc xây dựng theo cốt truyện tâm lý, tạo ra những tình huống căng thẳng để thử thách nội tâm nhân vật, đồng thời bộc lộ cảm xúc, tính cách của nhân vật. Tác phẩm được đặt trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống pháp luật cho thấy giá trị thành công của nó.

          Bởi vì qua tính cách, ngôn ngữ, cử chỉ, cảm xúc của ông Hai,… Một người nông dân điển hình có nét riêng: vui tính, nói nhiều và nói nhiều. tâm lý chung của con người. Cách kể tự nhiên, linh hoạt làm cho câu chuyện thêm sinh động, hấp dẫn.

          Tóm lại, “Làng” của Jin Yi là một truyện ngắn đặc sắc vận dụng tình cảm chung, phổ biến của con người trong thời kỳ kháng chiến chống Nhật: tình yêu quê hương đất nước. Đó là tình cảm cộng đồng. Thành công của Jin Wuni là đã thể hiện được tình cảm, tâm lý phổ quát một cách cụ thể, sinh động, thể hiện rõ bản chất con người đã trở thành nét tâm lý sâu sắc của nhân vật ông Hai.

          Vì vậy, đó là một cảm giác chung mang màu sắc và cá tính riêng, và nó in dấu rõ ràng tính cách của nhân vật. Trong truyện, tình yêu quê, yêu nước, chống Nhật của ông Hai là tình yêu chân chính của người dân Trung Quốc thời chống Nhật. Câu chuyện này cho ta thêm hiểu, thêm yêu và cảm phục biết bao người nông dân chất phác, chất phác nhưng lại có những tình cảm yêu nước nồng nàn, cao cả đến thế.

          >>Tải file để tham khảo toàn bộ 19 bài văn mẫu phân tích truyện ngắn nông thôn!

Kiểm tra tiếng Anh trực tuyến

Bạn đã biết trình độ tiếng Anh hiện tại của mình chưa?
Bắt đầu làm bài kiểm tra

Nhận tư vấn lộ trình từ ACET

Hãy để lại thông tin, tư vấn viên của ACET sẽ liên lạc với bạn trong thời gian sớm nhất.