Phân tích Sơ đồ Tứ phủ Đô Hồ của Việt NamTuyển chọn 19 bài văn mẫu hay nhất có dàn bài tham khảo. Thông qua phần phân tích tranh tứ bình, các em học sinh lớp 12 có thêm gợi ý học tập, nâng cao vốn văn, hoàn thiện bài văn khi ôn tập, luyện tập và kì thi sắp tới,… .

19 mẫuTranh bốn hình vuông tiếng Việt sau đây sẽ giúp các bạn biết cách viết cho trôi chảy hoặc có thể lấy thêm các ý hay từ đó để thể hiện theo cách riêng của mình Phong cách viết. Dĩ nhiên, 19 bài văn phân tích phong cảnh miền Bắc Việt Nam sẽ là tài liệu tự học vô cùng bổ ích và thiết thực cho các em trên con đường phía trước. Ngoài ra, các em có thể xem thêm các bài văn mẫu phân tích thơ Việt Nam.

Vạch bản đồ 4 ô vuông Việt Nam

a) Giới thiệu

– Tác giả giới thiệu bên phải: Là nhà thơ lớn, thơ trữ tình chính trị, thơ ông luôn phản ánh cuộc đấu tranh gian khổ của dân tộc, đồng thời cũng phản ánh nhiều chiến công.

– Giới thiệu bài thơ “Việt Bắc”: Là bài thơ chính luận xuất sắc tổng kết cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, là lời tri ân sâu sắc tình cảm cách mạng.

– Bức tranh tứ tuyệt được coi là câu thơ hay nhất trong thơ ca Việt Nam.

b) Nội dung bài: Phân tích bản đồ 4 trạng thái tự nhiên miền Bắc Việt Nam

* Vài nét về thơ Việt Nam

– Cốt truyện sáng tác: Nhân dịp chiến thắng Điện Biên Phủ toàn thắng, Trung ương Đảng và chính phủ rời Chiến khu về Thủ đô, Du Anh đã viết bài thơ này.

– Những câu thơ trong ảnh là lời của người đã khuất gửi cho người ở lại.

– Hai dòng đầu của bài thơ là lời của người đã khuất, nghĩ về cảm giác được ở bên mình, từ đó bộc lộ những suy nghĩ, hoài niệm về thiên nhiên, con người Việt Nam.

* Paper One: Hình ảnh mùa đông

-“Hoa chuối đỏ rừng xanh”: Phong cách táo bạo: màu đỏ của hoa chuối (gợi ngọn đuốc cháy) trên nền núi rừng xanh bạt ngàn. Hãy xua đi cái lạnh của núi mùa đông) và màu vàng của những vết đen.

-“Mặt trời đeo gươm ngang lưng”: Hình ảnh mặt trời đeo gươm ngang lưng gợi lên dáng vẻ cường tráng, cao cả của người lao động, có thái độ chế ngự thiên nhiên, cuộc sống. .

*Tranh 2: Hình ảnh mùa xuân

-“Ngày Xuân Trắng”: Sắc trắng tinh khôi của hoa mai tràn ngập không gian núi rừng, mùa xuân tự nhiên tràn đầy sức sống.

– Người lao động khoe tài năng, tay nghề và vẻ đẹp cần cù: “Nhớ người đan nón, lau một sợi”, “chải một sợi”: cần cù, tỉ mỉ, thành quả nào cũng đạt được.

p>

*Tranh 3: Hình ảnh mùa hè

-“Ve hót, rừng đổ vàng”: Cả khung cảnh thiên nhiên một lúc chuyển sang màu vàng qua động từ “đổ”

  • Có thể liên tưởng màu vàng với tiếng ve vui vẻ, tràn đầy sức sống
  • Có thể chính tiếng ve đã đánh thức khu rừng hổ phách nở hoa.
  • – “Nhớ người em gái hái măng một mình”: “Chị” – thể hiện sự kính trọng, yêu mến của tác giả đối với con người Việt Nam, và hình ảnh cô gái hái măng một mình thể hiện sự vất vả, khổ cực của người dân Việt Nam. Bắc Việt Nam.

    * Bài 4: Phong cảnh mùa thu

    -“Rừng Thu Trăng Chiếu Bình Yên”: Ánh trăng dịu dàng soi sáng núi rừng Việt Nam, là ánh sáng của “hòa bình”, của niềm vui và tự do.

    -Người thích ca hát, giản dị, chân chất, thủy chung, chan chứa tình yêu.

    * Đánh giá chung:

    – Có cảm giác tổng thể cho bức tranh tứ bình: nghệ thuật của bộ tứ tạo nên sự cân đối hài hòa, có tác dụng khắc họa toàn diện vẻ đẹp của chủ thể, bốn bức tranh trên thăng hoa không thể tách rời, chúng là một mối quan hệ hài hòa giữa con người và thiên nhiên Một bức tranh tuyệt vời để hòa hợp.

    c) Kết luận

    – Tổng hòa những nét nghệ thuật đặc sắc và phong cách thơ của các yếu tố: đậm đà tính dân tộc (sáu tám câu, lối kết cấu đối trong dân gian, ngôn ngữ giản dị, hình ảnh thơ gần gũi. Giọng thơ thân ái, chân thành.)

    – Tổng kết giá trị nội dung của toàn bài thơ: là bản hùng ca, khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và về con người kháng chiến.

    ………………………………………….. .

    Bản đồ tư duy hình ảnh ký túc xá Việt Nam

    Tranh tứ bình việt bắc – ví dụ 1

    Văn học Việt Nam có nhiều tác giả có đóng góp quan trọng. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau đều có những mốc son văn học khác nhau. Trong số đó phải kể đến tác giả Đỗ Bạn, một nhà thơ xuất sắc của văn học Việt Nam, với hình ảnh người lính anh hùng và tình cảm sâu nặng với đồng bào Việt Bắc, ông mang đến cho bạn đọc một góc nhìn quân sự rất trữ tình khác. Qua bài thơ “Việt Bắc” trong thời chiến. Nổi bật trong bài thơ này là nỗi nhớ của người đã khuất về những thắng cảnh của miền Bắc Việt Nam:

    Anh về rồi, em có nhớ anh không? Tôi nhớ hoa và người, rừng xanh, chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng, con dao trên thắt lưng. Mùa xuân, hoa mơ nở trắng khắp rừng, nhớ ai đan nón, chuốt sợi. Cô gái hái măng một mình trong rừng thu, trăng soi bình yên, nhớ ai da diết khúc tình ca. “

    Mười câu thơ là hình ảnh thiên nhiên hòa quyện với con người Việt Nam trong tâm thức người đã khuất. Thuở ban đầu, người ra đi khẳng định tình cảm với người ở lại:

    Em về, nhớ anh về em, nhớ hoa cùng em

    Phần đầu là câu hỏi tu từ “anh có nhớ em không”, và phần thứ hai là câu hỏi và câu trả lời. Với Du You, những người cán bộ ra đi không chỉ nhớ về những năm tháng khó khăn “bát cơm manh áo”, mà còn nhớ đến sự đáng yêu và vẻ đẹp của hoa và người. Ở đây, hoa đại diện cho vẻ đẹp thiên nhiên của miền Bắc. Người dân Việt Nam, mặc áo chàm nghèo nhưng giàu. Hoa và người bổ sung cho nhau, yêu thương nhau một cách hài hòa, tạo nên phong cách riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều này đã tạo nên cấu tứ độc đáo cho bài thơ này.

    Sau khi khẳng định nỗi nhớ thiên nhiên và con người Việt Nam, người quá cố đã nhân cách hóa nỗi nhớ này theo từng mùa trong năm, bắt đầu từ mùa đông:

    Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, Qualcomm trong nắng, thắt lưng

    Điểm tô trên nền xanh rộng lớn của khu rừng là những bông hoa chuối đỏ tươi nở rộ dưới nắng. Nhìn từ xa, loài hoa này như một ngọn đuốc sáng rực, đường nét và màu sắc bổ sung cho nhau, tạo thành một bức tranh vừa đối lập vừa hài hòa, cổ điển và hiện đại. Màu “đỏ tươi” – màu rực lửa của hoa chuối nở giữa núi rừng bạt ngàn, làm cho thiên nhiên Việt Nam bừng sáng và ấm áp, như ẩn chứa một sức sống xua tan vẻ hoang vu. Núi và rừng. Cùng với những chiều tàn của hoa chuối, đồng bào chiến khu xuống rẫy. Trước sự bao la của thiên nhiên, con người dường như càng trở nên hùng vĩ và tráng lệ hơn. Giữa núi và nắng, giữa trời rộng và rừng xanh bạt ngàn. Người đó đã trở thành linh hồn của Bắc Kinh Đông Hoa.

    Đông sang xuân, xuân tràn đầy:

    Mùa xuân hoa nở trắng rừng, nhớ người đội nón đan, se sợi

    Trong khung cảnh mùa xuân, hoa mai nở rộ dịu dàng, trong veo và trắng muốt: “Mộng mơ hoa nở trắng rừng”. “forest white” được viết ngược, và “white” được dùng như một động từ để nhấn mạnh màu sắc, màu trắng dường như làm lu mờ tất cả màu xanh của lá, làm bừng sáng cả khu rừng. Màu trắng mơ màng, ủ rũ, dịu mát của hoa ngân hạnh. Hình ảnh con người hiện ra, cùng với hoạt động “vớt từng sợi sông” khiến mùa xuân càng thêm tươi tắn. Vẻ đẹp tự nhiên trong công việc hàng ngày. Từ “sáng” và hình ảnh thơ chỉ bàn tay của người dân lao động: cần cù, tỉ mỉ, thông minh, tài hoa, nhanh nhẹn, cẩn thận, đó cũng là đức tính cần cù của người Việt Nam. ..

    Mùa hè đang đến gần với tiếng ve kêu, bức tranh Việt Nam sống động hơn bao giờ hết:

    Nghe nói núi rừng đổ vàng, tưởng em hái măng một mình

    Khi tiếng ve hót cũng là lúc rừng hổ phách vàng rực. Động từ mạnh “đổ” mô tả màu vàng đồng thời của những bông hoa màu hổ phách vào đầu mùa hè. Màu hổ phách dát vàng xuống dòng suối, như biến nắng hè và tiếng ve kêu thành vàng. Chỉ trong một câu thơ trên, ta có thể thấy cả thời gian đang luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến, cây hổ phách chuyển sang màu vàng rực rỡ. Trong mảnh thiên nhiên trù phú vàng son ấy, có hình ảnh một cô gái áo chàm cần mẫn hái măng để cung cấp cho các chiến sĩ chống Nhật: “Anh nhớ em gái hái măng một mình”. Hái măng một mình không giống hình bóng cô gái miền sơn cước trong thơ cổ, cô đơn lẻ loi mà ngược lại rất trữ tình, thơ mộng, nhân hậu, thân ái. Hình ảnh thơ còn gợi vẻ đẹp trong nỗi khổ đau của cô gái. Đằng sau điều này là rất nhiều sự cảm thông và kính trọng của tác giả.

    Bức tranh cắm bốn chiếc lọ là một mùa thu yên ả và thanh bình:

    Ánh trăng trong rừng thu lặng lẽ, ai trung thành khúc tình ca.

    Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, ánh trăng của tự do, ánh trăng của hoà bình, soi sáng niềm vui cho từng ngọn núi, từng cánh rừng, từng xóm làng Việt Nam. Bức tranh mùa thu Việt Nam hoàn thiện bức tranh núi rừng tươi đẹp và kết thúc bài thơ bằng bài “Lòng chung thuỷ” gợi tình yêu quê hương đất nước. nước.

    Toàn bộ tuyển tập như một bản tình ca, một bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến chống Nhật, về cuộc kháng chiến hào hùng của nhân dân với âm nhạc nhịp nhàng, chân thành. Qua nét nhạc đẹp đẽ, hào hùng, nhà thơ đã bày tỏ tình cảm sâu nặng, ấm áp với núi rừng Bắc Bộ, ca ngợi tình đồng chí, đồng đội. Qua đó, tác giả cũng nhắc nhở người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc, những trang sử đẫm máu và nước mắt, những trang sử thắm đượm tình cách mạng và lòng yêu nước mãnh liệt.

    Trải nghiệm về bức tranh miền Bắc Việt Nam – mẫu 2

    Những bài thơ văn xuôi để lại nhiều cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc với giọng điệu tình cảm, ngọt ngào và chân thành. “Việt Bắc” là bài thơ nổi tiếng được tác giả sáng tác năm 1954. Những cảm xúc, hình ảnh, tư tưởng mà nhà thơ gửi gắm vào người đọc trong tác phẩm khiến ta thêm yêu mến, trân trọng tâm hồn và tài năng của Người. Sơ đồ bốn ô vuông trong bài cũng là một nét độc đáo, để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc.

    Ký ức thơ rực lửa ấy đọng lại trong bài Tứ tuyệt cảnh Tây Bắc, trước hết là nét phác họa cảnh mùa đông:

    “Anh về, nhớ em, nhớ anh hoa, nhớ rừng xanh, nhớ hoa chuối đỏ, nhớ đèo cao nắng, nhớ con dao thắt lưng”

    Những ngày đông rực rỡ và ấm áp ở vùng núi Tây Bắc Trung Quốc đã được các nhà thơ miêu tả một cách sinh động. Lúc đất trời yên ả, màu xanh của lá cây phản chiếu sắc “đỏ” và “tươi” của hoa chuối, cùng ánh nắng ấm áp lượn lờ tràn ngập không gian khoáng đạt. Trong cái nền nên thơ ấy, con người Việt Bắc hiện lên trong tư thế lao động “thắt lưng buộc dao” khỏe khoắn, cao đẹp. Từ “nắng” làm cho lời thơ như bừng sáng hơn, góp phần làm nổi bật vẻ đẹp của con người lao động và con người nơi đỉnh đèo. Mùa đông trong thơ cổ thường diễn tả không khí hoang vắng, hiu quạnh, gió lạnh, hoang vắng. Đông Hào đã từng viết:

    “Tôi nhớ: một buổi sáng mùa đông, gió bắc hú qua khe cửa sổ, gió thổi qua, chỉ nghe thấy tiếng gió nhưng rất lạnh”

    Như nhà thơ Wu Zhilan đã từng nói:

    “Bếp lửa bên cạnh cho vơi nỗi ưu phiền, mùa đông uống ly rượu, tuyết bay qua mành đưa hơi lạnh, gió thổi mùa băng tan mì sông”

    Tiếc thay, ta không thấy nỗi buồn của mùa đông trong thơ. Một nhà thơ viết về mùa đông ở Tây Bắc Trung Quốc, màu sắc tươi tắn, ấm áp và tràn đầy sức sống. Những người trong cảnh đó khỏe mạnh và năng động.

    “Mùa xuân núi rừng hoa trắng nhớ người đan nón chuốt sợi”

    Đó là cặp lục bát tiếp theo của nhà thơ miêu tả thiên nhiên và con người Việt Nam vào xuân. Vẻ dịu dàng, thuần khiết, thanh khiết của những bông mai trắng “nở giữa rừng” khiến người đọc nao lòng. Trên nền khung cảnh ấy, con người hiện lên trong cuộc sống bình dị hàng ngày. Động từ “xay” tinh tế toát lên sự tài hoa, chăm chỉ, khéo léo của những người làm nghề nơi đây. Cái thi vị tao nhã của đất trời, sự bình dị, trùng hợp của con người càng làm cho vần thơ thêm nổi bật, ấn tượng.

    Nhà thơ Bombalan đã từng bày tỏ cảm xúc của mình bằng những vần thơ trong bài “Trưa hè”:

    “Trời cao không buông gió buông Gió cào cánh hồng Sóng mềm dập dìu ngựa lúa Tiếng nhạc xa xa Quán cũ ọp ẹp nằm sóng vỗ Nắng thừa khách rơi ngủ, mồ hôi đầm đìa, như tắm, đứng ngẩn ngơ với cánh diều trên mây”

    Đây là mùa hè có cây bàng, êm đềm và khó quên. Theo to huu, mùa hè ở miền Bắc Việt Nam là:

    “Tiếng ve hót rừng đổ vàng nhớ em hái măng một mình”

    Màu sắc rực rỡ của rừng hổ phách và tiếng ve kêu đều được nhà thơ tái hiện chân thực. Chữ “Thanh” trong bài thơ được coi như cái nhãn, bộc lộ trọn vẹn tâm tư của nhà thơ. Có lẽ, điều mà nhà thơ muốn nói đến chính là sự kết nối kỳ diệu giữa âm thanh và màu sắc, khiến cho cảnh sắc nơi đây như có hồn, khiến lòng người cộng hưởng mạnh mẽ. Việt bắc bước ra một cách thật trầm lặng nhưng vẫn rất dịu dàng, trở thành một nét chấm phá sâu lắng trong không khí thiên nhiên mùa hè sôi động.

    Tuy được nhắc đến sau cùng nhưng cách diễn tả về mùa thu của nhà thơ vẫn khiến người đọc ấn tượng sâu sắc và nhớ nhung không nguôi. Rõ Việt Nam. Việt Nam thanh bình dưới ánh trăng. Đây là cảm nhận của chúng ta qua hai câu thơ:

    “Rừng thu trăng lặng lẽ soi, nhớ ai câu tình ca da diết”

    Đối lập với thiên nhiên hiền hòa, giọng hát thân thương, trìu mến của con người nổi lên trong tiếng hát thân thương, đó cũng là tiếng nói của lòng trung kiên cách mạng đầy ý nghĩa sâu sắc.

    Để có thể phác thảo một bức tranh tứ bình sinh động về cảnh sắc thiên nhiên và con người Việt Nam như vậy, nhà thơ đã vận dụng nhuần nhuyễn bút pháp vừa cổ điển vừa hiện đại. Sự tinh tế và rực rỡ ấy đã tạo cho bộ tứ trong “Việt Bắc” một vị trí đặc biệt trong lòng bao thế hệ độc giả, làm xuất hiện thêm nhiều bài thơ, bài báo về nó.

    Phân tích hình ảnh bộ tứ – Bài mẫu 3

    Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến cái nôi của cách mạng, nhắc đến vùng đồng bằng miền Trung nghèo khó nhưng thân thương – nơi có biết bao kỷ niệm của thời kỳ cách mạng gian khổ mà hào hùng. Khi chia tay sao lòng không vương vấn.

    Đợi, sợi nhớ, sợi tình quyện vào nhau như tiếng gọi “anh-em” của đôi lứa yêu nhau. Như nhà thơ trữ tình đã từng viết “Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/Khi ta đi xa đất bỗng thành tâm hồn”. Đúng! Việt Bắc biến tâm hồn đằm thắm trong thơ, lời ca như khúc nhạc ngân nga, cảnh người đầy kỉ niệm không bao giờ quên.

    “Khi về nhớ ta, nhớ hoa nhớ người, rừng xanh hoa chuối đỏ tươi, đèo cao nắng thắt lưng, mùa xuân mơ trắng, rừng núi nhớ người đan nón từng mũi khâu. Rừng thu hái măng một mình, trăng sáng soi nền hòa, nhớ ai thiết tha khúc tình ca”

    Đầu Du là một nhà thơ trữ tình chính trị có tình cảm cách mạng vừa dịu dàng vừa sâu sắc. Đỉnh cao của thơ Việt Bắc nói riêng là thơ Hữu và thơ chống Pháp nói chung. Bài thơ này được viết vào tháng 10 năm 1954, khi Trung ương Đảng, Chính phủ, Bác Hồ và các cán bộ kháng Nhật rời “thủ đô muôn gió” đến “Bating, thủ đô hoa vàng và nắng vàng”. Cả bài thơ đầy hoài niệm về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc, những năm tháng ấy gian khổ nhưng tràn đầy niềm vui và hào hùng. Nhưng có lẽ câu thơ ấn tượng nhất trong bài ca dao Việt Bắc là câu nói về bức tranh tứ bình xuân hạ thu đông.

    Mở đầu là hai khổ thơ, giới thiệu đại ý của cả bài thơ:

    “Khi em về em nhớ anh, nhớ hoa cùng em”

    Câu hỏi tu từ “có nhớ ta không” được sử dụng ở khổ thơ thứ nhất, khổ thơ thứ hai tự hỏi và tự trả lời. mà cả khổ thơ có một âm hưởng xa xăm, Trầm tư thiết tha. Với Du You, những người cán bộ ra đi không chỉ nhớ về những năm tháng khó khăn “bát cơm manh áo”, mà còn nhớ đến sự đáng yêu và vẻ đẹp của hoa và người. Ở đây, hoa đại diện cho vẻ đẹp thiên nhiên của miền Bắc. Người dân Việt Nam, mặc áo chàm nghèo nhưng giàu. Hoa và người bổ sung cho nhau, yêu thương nhau một cách hài hòa, tạo nên phong cách riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Đây chính là điều tạo nên cấu trúc độc đáo của bài thơ này. Bốn cặp lục bát còn lại, sáu câu nói về hoa, cảnh, tám câu nói về người. Cảnh vật, nhân vật trong mỗi câu đều mang sắc thái, nét riêng rất hấp dẫn.

    Nhắc đến mùa đông, chúng ta thường nghĩ đến cái lạnh thấu xương, sự u ám của một ngày mưa phùn và nỗi buồn của một tiết trời u uất. Nhưng ra Việt Bắc vào thơ Hữu mới là lạ. Ấm áp bất ngờ vào mùa đông:

    “Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, Qualcomm trong nắng, thắt lưng”

    Điểm tô trên nền xanh rộng lớn của khu rừng là những bông hoa chuối đỏ tươi nở rộ dưới nắng. Nhìn từ xa, loài hoa này như một ngọn đuốc sáng rực, đường nét và màu sắc bổ sung cho nhau, tạo thành một bức tranh vừa đối lập vừa hài hòa, cổ điển và hiện đại. Màu “đỏ tươi” – màu rực lửa của hoa chuối nở giữa núi rừng bạt ngàn, làm cho thiên nhiên Việt Nam bừng sáng và ấm áp, như ẩn chứa một sức sống xua tan vẻ hoang vu. Núi và rừng. Dòng này làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong bài thơ của nguyễn trai:

    “Thạch lựu còn phun phấn hồng, hương đã tàn”

    Từ sự liên tưởng này, ta thấy mùa đông trong bài thơ cũng toát lên cái ấm áp của mùa hè hơn là cái lạnh hoang vu bởi những bông hoa chuối đỏ au cũng ló ra từ đồi xanh.

    Cùng với chiều tàn của hoa chuối, đồng bào chiến khu lên núi khai hoang, sản xuất ra nhiều lúa khoai, cung cấp con dao “cao lương mỹ vị” cho kháng chiến Nhật Bản”. Đứng trước thiên nhiên bao la, vô biên, con người dường như càng trở nên hùng vĩ. Ở đây, nhà thơ không khắc họa chính diện mà thu lại cái nhìn trong sáng nhất. Đó là ánh sáng mặt trời nhấp nháy trên mặt ngọn rừng ngang hông. Ở đây, những câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ, vừa mang ngôn ngữ nhiếp ảnh. Con người là tâm điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng hiện ra trong tư thế đẹp nhất—”Qualcomm”. Con người đang chiếm giữ đỉnh cao, núi rừng và tự do “Núi rừng là của ta/ Trời xanh ta là của ta”. Đây là một thế trội kiêu hãnh, vững vàng: giữa núi rừng và mặt trời, giữa trời nước bao la, vô tận. rừng xanh.Người đó đã trở thành linh hồn của Yuebei Donghua.

    Mùa đông đã qua và mùa xuân đã đến. Nhắc đến mùa xuân, chúng ta nghĩ ngay đến cỏ cây, hoa lá và trăm loài bừng dậy sức sống mới sau một mùa đông dài. Mùa xuân ở Việt Nam cũng vậy:

    “Ngày xuân núi nở hoa trắng, Chợt nhớ người đan nón chuốt sợi”

    Trong khung cảnh mùa xuân, hoa mai nở rộ dịu dàng, trong veo và trắng muốt: “Mộng mơ hoa nở trắng rừng”. “forest white” được viết ngược, và “white” được dùng như một động từ để nhấn mạnh màu sắc, màu trắng dường như làm lu mờ tất cả màu xanh của lá, làm bừng sáng cả khu rừng. Màu trắng mơ màng, ủ rũ, dịu mát của hoa ngân hạnh. Động từ “nở hoa” lan tỏa sức sống của mùa xuân, căng tràn sức sống. Không phải lần đầu Bác Hồ viết về màu trắng đó, năm 1941 Việt Nam cũng đón Bác Hồ bằng màu hoa mai :

    “Ôi sáng xuân nay, mùa xuân thứ 41 trắng xóa, rừng biên giới hoa nở, giấc mơ im lìm, tiếng chim hót vui ngẩn ngơ”

    Mùa xuân không ngừng tươi mới hơn với chiến dịch “Chải từng sợi vải”. Vẻ đẹp tự nhiên trong công việc hàng ngày. Từ “sáng” và hình ảnh thơ chỉ bàn tay của người dân lao động: cần cù, tỉ mỉ, thông minh, tài hoa, nhanh nhẹn, cẩn thận, đó cũng là đức tính cần cù của người Việt Nam. ..

    Mùa hè đang đến gần với tiếng ve kêu, bức tranh Việt Nam sống động hơn bao giờ hết:

    “Lời gọi rừng xuống vàng nhớ cô em hái măng một mình”

    Khi tiếng ve hót cũng là lúc rừng hổ phách vàng rực. Động từ “đổ” là một động từ mạnh, diễn tả sự chuyển màu vàng đồng loạt của những bông hoa màu hổ phách vào đầu mùa hè. Màu hổ phách dát vàng xuống dòng suối, như biến nắng hè và tiếng ve kêu thành vàng. Là tranh sơn mài hoài cổ nên bóng và to. Yếu tố này có năng khiếu không chỉ trong việc miêu tả vẻ đẹp độc đáo của từng mùa mà còn miêu tả sự chuyển động thay đổi của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên, ta có thể thấy cả thời gian đang luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến, cây hổ phách chuyển sang màu vàng rực rỡ. Đây là một biểu hiện độc đáo của chủ nghĩa dân tộc.

    Trong mảnh thiên nhiên vàng son trù phú ấy, có hình ảnh một cô gái áo chàm cần mẫn vào rừng hái măng rừng để tiếp tế cho các chiến sĩ chống Nhật: “Nhớ người em hái măng một mình”. Hái măng một mình không giống hình bóng cô gái miền sơn cước trong thơ cổ, cô đơn lẻ loi mà ngược lại rất trữ tình, thơ mộng, nhân hậu, thân ái. Hình ảnh thơ còn gợi lên vẻ đẹp không đau đớn của người con gái. Đằng sau điều này là rất nhiều sự cảm thông và kính trọng của tác giả.

    Vào mùa thu, núi rừng chiến khu như được tắm mình trong ánh trăng xanh, lung linh và mát rượi:

    “Trăng soi rừng thu, trăng soi bình yên nhớ ai khúc tình ca da diết”

    Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, ánh trăng của tự do, ánh trăng của hoà bình, soi sáng niềm vui cho từng ngọn núi, từng cánh rừng, từng xóm làng Việt Nam. Hồi ở chiến khu mới biết trăng thu trong thơ anh:

    “Trăng vào cửa sổ báo quân bận việc, xin đợi ngày sau, chuông chợt thức, có tin thắng trận xuyên miền”

    Ở đây không có tiếng chuông chiến thắng, nhưng tiếng hát vang lên. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào các dân tộc thiểu số, là tiếng hát gợi lên tình yêu thủy chung son sắt. Đây cũng là khúc tình ca của những người con núi rừng Việt Bắc mười lăm năm ròng.

    Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Nam hoàn thiện bức tranh núi rừng tươi đẹp và kết thúc bài thơ bằng bài “Lòng chung thuỷ” gợi tình yêu quê hương đất nước. nước.

    Những bài thơ trên của Du Bạn vừa cổ kính vừa hiện đại, làm nổi bật cảnh vật, nhân vật bốn mùa ở Chiến khu Việt Nam. Cảnh vật và con người bổ sung cho nhau, bổ sung cho nhau làm cho bức tranh thêm thân quen, sinh động và tràn đầy cảm xúc. Mọi thứ biến thành nỗi nhớ và sự quyến luyến cháy bỏng trong lòng người cán bộ trở về.

    Phân tích hình ảnh bộ tứ – Bài mẫu 4

    Tố Hữu là nhà thơ cách mạng tiêu biểu trong phong trào thơ ca chống thực dân Pháp ở Việt Nam. Là vũ khí chống lại quân xâm lược, các tác phẩm của ông đã truyền cảm hứng và khơi dậy tinh thần yêu nước của nhân dân.

    Bài thơ “Việt Bắc” được viết khi tác giả đóng quân ở Việt Bắc. Bài thơ này thể hiện tình cảm sâu đậm của quân dân, nỗi nhớ da diết biết bao khi chia tay người đã khuất.Khi chia tay, tác giả đã viết nên những câu thơ xúc động, nghẹn ngào cảm xúc.

    Cả bài thơ là lời tâm tình, bộc lộ tình cảm giữa ta với ta, giữa quân với dân, đầy nghĩa tình sâu nặng. Tác giả là người từng tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp. Bởi vậy thơ anh rất mộc mạc, giản dị, nhân hậu, đọc thơ ta cảm nhận được sự thiêng liêng, nặng nề của tình cảm người lính.

    Thơ Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát truyền thống, gần gũi với người đọc. Trong thơ nghệ thuật so sánh, ẩn dụ được tác giả sử dụng rất linh hoạt thể hiện sự tinh tế trong phong cách ngôn ngữ của tác giả. Đặc biệt, khi tác giả phác ra một bức tranh đẹp về cảnh sắc thiên nhiên và cảnh quan văn hóa Việt Nam, bài thơ còn làm lay động lòng người.

    Tôi nhớ bạn về tôi, tôi nhớ hoa của bạn

    “Anh” và “tôi” thể hiện tình cảm quân dân nhưng dùng ngôn ngữ giản dị thể hiện tình cảm thân thương như người trong nhà, tri kỉ như tri kỷ. Giờ phải xa cách bao nhiêu tri kỉ, bao nhiêu nỗi nhớ chẳng muốn rời

    Tác giả Tố Hữu thật tài tình, đưa người đọc vào một khung cảnh rất thơ mộng, lãng mạn của núi rừng Việt Nam, miêu tả một mùa đông ấm áp của con người nơi đây thật tuyệt vời nhưng chan chứa tình yêu và niềm tin.

    Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, Qualcomm trong nắng, thắt lưng

    Mở đầu thiên nhiên Việt Nam, người đọc choáng ngợp bởi vẻ đẹp thơ mộng, đẹp như tranh vẽ của núi rừng Tây Bắc. Hoa chuối đỏ rực nở giữa mùa đông lạnh giá khiến khung cảnh thiên nhiên tuy lạnh giá nhưng sống động và ấm áp lạ thường, bởi sắc đỏ của hoa chuối rừng chính là nét quyến rũ của núi rừng Việt Nam. .Hình ảnh cô gái hái măng, nấm bằng con dao nhọn vừa là vũ khí tự vệ, vừa là công cụ lao động thể hiện sức sống lao động hàng ngày của người dân

    Đồng thời, nắng mùa đông cũng là thứ khiến không khí trở nên ấm áp hơn bao giờ hết, thay vì gam màu ảm đạm, ảm đạm ta thường thấy trong các bài thơ viết về mùa đông khác. Mùa đông trong thơ Đỗ Hữu vẫn đẹp, sống động và lay động.

    Mùa xuân hoa nở trắng rừng, nhớ người đội nón đan, se sợi

    Ở hai bài thơ này, tác giả chuyển đổi thời gian từ đông sang xuân một cách linh hoạt. Từ hình ảnh hoa chuối đỏ tươi đến hoa mai trắng tinh khôi đều thể hiện hơi thở của mùa xuân tràn ngập Tây Bắc.

    Hoa mai là điềm báo của mùa xuân, loài hoa này thường báo hiệu mùa xuân giống như hoa đào, hoa mai. Điều được bộc lộ trong bài thơ là rừng mai trắng ngút ngàn, làm say lòng người và làm người đọc say lòng trước vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây. Hình ảnh cô gái chuốt từng sợi dây để gói bánh chưng, bánh tét, làm nón lá khiến không khí ngày xuân thêm gần gũi, ấm áp hơn bao giờ hết

    Những hình ảnh thiên nhiên đẹp nhưng luôn gắn liền với con người nơi đây. Mỗi khi nhắc đến thiên nhiên núi rừng Bắc Bộ tác giả luôn nhớ đến con người và sinh hoạt của họ nơi đây, thể hiện tình cảm sâu nặng của tác giả đối với mảnh đất đã 15 năm gắn bó với mảnh đất này.

    Nghe nói núi rừng đổ vàng, tưởng em hái măng một mình

    Khi hè về, tiếng ve kêu râm ran báo hiệu hè về. Mùa hè là mùa của sức sống, khác hẳn với sự ấm áp của mùa đông và sự trong lành của mùa xuân, khi hè sang, núi rừng Việt Nam lại có tiếng ve kêu, màu vàng hổ phách và tiếng ve kêu làm nên thiên nhiên nơi đây. Tiếng ve kêu phá vỡ sự im lặng, thể hiện sự chuyển mình mạnh mẽ của thời đại.

    Cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Nam mùa hè, vàng rực màu hổ phách, tiếng ve kêu râm ran. Trong mỗi bức tranh, tác giả luôn kết hợp bóng dáng của thiên nhiên và con người, cho thấy sự kết hợp tài tình giữa con người và thiên nhiên nơi đây.

    Nơi núi rừng Bắc Bộ bao la, tác giả đã khéo léo kết hợp giữa thiên nhiên với hình ảnh cô gái hái măng, tác giả đã vẽ nên một sự chuyển động quen thuộc, gần gũi mà nhẹ nhàng, đượm hương thi vị.

    <3

    Hình ảnh mùa thu ở núi rừng Việt Nam thật dịu dàng, trữ tình và hình ảnh ánh trăng thật thanh bình, trong sáng và nên thơ cho thấy con người nơi đây đang sống một cuộc sống no đủ, thủy chung theo cách riêng của mình, và họ hòa nhịp với những người bảo vệ đất nước Với những chiến binh dũng cảm đã hy sinh mạng sống của mình cho mảnh đất thân yêu này.

    Qua bài thơ này ta thấy tác giả vô cùng tinh tế cả về ngôn ngữ lẫn óc quan sát. Ông khéo léo phác thảo những hình ảnh về tứ bình thiên nhiên và con người Việt Bắc khiến người đọc lưu luyến không muốn về.

    Phân tích hình ảnh bộ tứ – Bài mẫu 5

    Nhắc đến những nhà văn, nhà thơ cách mạng trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến, không thể không nhắc đến người bạn này, một người hát đầy khí thế chiến đấu, giàu lý tưởng và có phong cách chính luận, trữ tình. . Tuy nhiên, trong những bài thơ ấy vẫn có chất trữ tình, chất thơ, hình ảnh mượt mà, trong sáng. Sơ đồ tứ bình trong bài thơ Việt Bắc là một ví dụ điển hình:

    “Anh về nhớ Tata, nhớ hoa và người, rừng xanh chuối đỏ, đèo cao nắng thắt lưng, ngày xuân mơ nở, rừng nở trắng, nhớ dệt người dệt sợi chỉ với nón. Cô gái Qiulin hái măng một mình, trăng soi bình yên, nhớ ai khúc hát chung tình”

    Bài thơ này là một cuộn tranh về đất nước Việt Nam bốn mùa, chất chứa nỗi nhớ da diết và lòng thủy chung của tác giả và của đa số cán bộ đối với đất nước Việt Nam:

    “Em về, anh nhớ em, nhớ hoa cùng em”

    Câu thứ hai là câu hỏi và câu chuyện của người đã khuất, tôi muốn biết tấm lòng của người đó được gìn giữ như thế nào và bày tỏ tấm lòng của mình. Câu “Em về” mở đầu hai câu thơ như thể hiện tâm trạng của kẻ ra đi. Vẻ đẹp của bài thơ nằm ở hình ảnh “hoa và người”, con người cũng là một bông hoa trong vườn Việt Nam. Bức tranh tạo nên vẻ đẹp hài hòa, trong đó thiên nhiên và con người, hoa lá và con người được hòa nhập và bổ sung cho nhau. Bên cạnh những hình ảnh hoa lá, con người là bản đồ bốn mùa Việt Nam được vẽ chân thực với màu sắc rực rỡ và âm thanh rộn ràng:

    “Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, trên cao, nắng chói chang, thắt lưng”

    Vào đầu đông, núi rừng trải dài ngút tầm mắt. Tác giả miêu tả mùa đông trước có lẽ vì khi những người cách mạng đến đây cũng là mùa đông của đất nước này, đồng thời mười lăm năm sau những người cách mạng cũng vĩnh biệt cái nôi của cách mạng Việt Bắc – Việt Bắc. . .

    Tương phản với màu xanh mướt của rừng sâu, những bông hoa mã đề đỏ tươi đặc biệt bắt mắt, khiến núi rừng không còn hoang lạnh lạnh lẽo mà trở nên ấm áp. Hoa mã đề ẩn mình trong sương, như ngọn đuốc hồng soi đường ta từng gặp trong bài thơ “Hoa về đêm”. Sắc “đỏ tươi” của hoa chuối như xóa đi nỗi cô đơn của mùa đông lạnh giá nơi núi rừng, như chứa đựng, ẩn chứa sức sống của vạn vật trên đời. Sự tương phản về màu sắc và sự hài hòa về cách thể hiện khiến mùa đông ở đây có phần giống mùa hè ấm áp trong thơ Nguyễn:

    “Thạch lựu vẫn phun đỏ hồng, tỏa hương thơm”

    Trong thiên nhiên, vẻ đẹp của con người Tây Bắc là duy nhất:

    “Dao thắt lưng Qualcomm”

    Người Việt đi rừng luôn đeo dao ở thắt lưng để phát quang chướng ngại vật, ngăn chặn thú rừng xâm phạm. Tác giả không miêu tả khuôn mặt hay biểu cảm ở đây, nhưng ánh sáng phản chiếu bởi lưỡi kiếm ở thắt lưng. Ánh mặt trời chiếu xuống làm con dao tỏa sáng, tạo ấn tượng khó quên, như thể con người là một tập hợp ánh sáng, vừa lấp lánh vừa chói lóa. Con người ở giữa “đèo cao, nắng vàng”, giữa trung tâm núi rừng Tây Bắc, vượt lên không gian bằng hình ảnh kỳ vĩ, nắm bắt thiên nhiên bằng hình ảnh kỳ vĩ, nắm bắt đất nước bằng hình ảnh kỳ vĩ, vĩ đại.

    Mùa đông qua, mùa xuân qua. Việt Nam xuân về rồi, hoa mai trắng nở cả rừng:

    “Ngày xuân núi nở hoa trắng, Chợt nhớ người đan nón chuốt sợi”

    Nhắc đến mùa xuân là người ta nhắc đến khí hậu mát mẻ, hoa cỏ tràn đầy sức sống, đâm chồi nảy lộc, xanh non mơn mởn. Mùa xuân ở Việt Nam có một cảnh tượng rất độc đáo được ông cha ta nhìn thấy: “giấc mơ trắng rừng”. Nghệ thuật đảo ngược “Rừng trắng” sử dụng từ “trắng” như một động từ hơn là một tính từ để chỉ màu sắc. Thêm vào đó, động từ “nở” như một tấm màn xòe trắng bao phủ cả màu xanh của lá trong rừng, tạo nên một không gian trong lành, mát rượi của hoa mai, làm cho bức tranh thêm trong sáng, tinh tế và đằm thắm.

    Trong nền trắng của hoa mai, nổi bật lên một người lao động hiền lành, chăm chỉ: “Chải từng dòng sông”. Con người đẹp một cách tự nhiên trong công việc hàng ngày. Động từ “chuối” kết hợp với động từ “từng” bộc lộ sự khéo léo, tỉ mỉ và đôi bàn tay tài hoa của người lao động. Đây cũng là phẩm chất tốt đẹp của dân tộc Việt Nam anh hùng, khí phách.

    Mùa hè đến rồi, tiếng ve kêu khắp núi rừng:

    “Lời gọi rừng xuống vàng nhớ cô em hái măng một mình”

    Tiếng ve kêu, lá vàng. Dường như chỉ cần một tiếng ve kêu cũng khiến tiết trời chuyển từ xuân sang hè một cách đột ngột. Câu thơ tương đồng với ý thơ của Khương “chim hót vang rừng”. Chỉ một câu thơ thôi mà gợi lên sự chuyển động của thời gian và cuộc sống. Trên nền vàng của rừng hổ phách ấy hiện ra một bóng dáng yêu kiều khiến bức tranh càng thêm thơ mộng. Đó là hình ảnh: “Chị tôi hái măng một mình”, hái măng một mình nhưng không đơn độc mà toát lên vẻ đẹp của người phụ nữ chịu thương, chịu khó. Bài thơ thể hiện sự đồng cảm, biết ơn với đồng bào miền Bắc mà ai đã đi rồi sẽ không bao giờ quên tình cảm chân thành ấy.

    Vào thời điểm này, mùa thu ở Việt Nam cùng với vầng trăng thu tuyệt vời khiến cho khung cảnh núi rừng Việt Nam mơ màng, tĩnh lặng và đầy bình yên. Từ đêm trăng thu huyền diệu ấy, những bản tình ca thủy chung của người Việt lại được cất lên, làm ấm lòng người:

    “Trăng soi rừng thu, trăng soi bình yên nhớ ai khúc tình ca da diết”

    Ở đây không có tin chiến thắng, nhưng có những bản tình ca của người Việt Bắc, của núi rừng Tây Bắc gắn bó mười lăm năm. Bài Tình ca kết thúc bài tứ tuyệt về thiên nhiên và con người, nhắc nhở kẻ đi, kẻ ở và cả người đọc đương thời đều xúc động sâu sắc về lòng yêu nước.

    Nếu câu thơ nói về cảnh thì câu thơ nói về người. Cái hay của bài thơ này là sự hòa hợp giữa con người Việt Nam với thiên nhiên. Khung cảnh Việt Bắc đẹp, thơ mộng, trữ tình và tràn đầy sức sống làm nền, nổi bật hình ảnh con người Việt Nam đáng yêu, cần cù, nghĩa tình, trung hậu, thủy chung.

    Pingyue North Four Figures là một bản phác thảo đơn giản và bình dị, pha trộn giữa cổ xưa và hiện đại, con người và thiên nhiên, tạo nên một bức tranh hài hòa giữa thiên nhiên và cuộc sống. Đoạn thơ này là một nét đặc sắc trong phong cách trữ tình chính trị của Tố Hữu, nhắc đến Việt Nam là người ta nghĩ ngay đến những tâm hồn nhân hậu, đằm thắm, thủy chung.

    Phân tích hình ảnh tứ bình – Bài mẫu 6

    “Việt Bắc” – thể thơ lục bát với thể thơ hùng tráng gồm 150 khổ, tràn ngập cảm xúc phong phú vô hạn. Bài thơ này ra đời vào tháng 10 năm 1054, ngày thủ đô Hà Nội được giải phóng. Người bạn bày tỏ tình yêu Việt Nam, Cách mạng và Kháng chiến qua thơ ca.

    Mười câu thơ sau, từ câu 43 đến câu 52 của bài thơ “Việt Bắc”, thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc:

    <3

    Hai câu đầu là câu hỏi và câu trả lời của người cán bộ kháng Nhật “ta”, tự hỏi mình “có nhớ ta không”. Dù ngược xuôi, xa nhau nhưng lòng ta vẫn khắc khoải về Việt Bắc: “Anh về nhớ hoa cùng em”. Các ký tự “He” và “Ji” được phiên âm để thể hiện lòng trung thành. Nỗi nhớ là dành cho “hoa và người”, cho thiên nhiên núi rừng Bắc Bộ, cho con người Việt Nam thân yêu:

    “Anh về nhớ em, anh về nhớ hoa cùng em”.

    Hai từ “ta-ta” xuất hiện thường xuyên trong các bài thơ, ở hai bài thơ này đã thể hiện thật đẹp đẽ tình cảm vợ chồng son sắt trong tình Việt Bắc. Cho giọng thơ trở nên thiết tha như tình ca ngày xưa. Đây là giọng điệu trữ tình, đậm chất dân tộc trong thơ Đỗ Hữu.

    Trong 8 câu tiếp theo, mỗi cặp lục bát thể hiện một nỗi nhớ cụ thể về một cảnh cụ thể, một con người cụ thể trong 4 mùa đông, xuân, hạ, thu.

    Nhớ mùa đông, nhớ màu “xanh” của núi rừng Việt Nam, nhớ màu “đỏ tươi” của hoa chuối rừng xanh như đốm lửa. Nhớ những người ra đồng, những người đứng trên “Nắng…” của đèo cao với tư thế hiên ngang, oai hùng “đeo gươm” mà ra đồng. “Ánh nắng” cán dao của Shimoda phản chiếu rất gợi cảm:

    “Biển rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi; Cao Quan Dương, thắt lưng ánh dao”.

    Màu “xanh” của rừng, màu “đỏ tươi” của hoa mã đề, màu tươi sáng của con dao “nắng” những màu sắc ấy hài hòa với nhau làm nổi bật tiềm năng tự nhiên và sức sống mãnh liệt của đất nước Việt Nam. mà nhân dân Việt Nam đã làm chủ được thiên nhiên và đời sống trong Kháng chiến. Tác giả có nhận thức mới về sức mạnh tinh thần làm chủ đất nước của nhân dân ta do cách mạng và cuộc kháng chiến chống Nhật đem lại. Những người lao động sản xuất đang hiên ngang dũng cảm trên “đèo cao” đầy nắng và gió. Khi quần chúng đi vận động thì “chân chùn, lửa đốt”. Người lính ra trận mang sức mạnh vô địch của thời đại mới:

    “Shan Gao không thể nhấc vai và với lấy những chiếc lá ngụy trang đang bay trong gió”.

    (“Tây Bắc”)

    Nhớ mùa xuân nước Việt là nhớ hoa mai “trắng rừng”. Từ “trắng” là tính từ biểu thị màu sắc từ loại để bổ nghĩa cho “nở trắng rừng”, gợi liên tưởng đến một thế giới hoa mai, phủ bạt ngàn những cánh rừng trắng tinh khôi ở Việt Nam. Ngôn từ hóm hỉnh của Tố Hữu gợi nhớ đến bài thơ tả cảnh xuân trinh của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”:

    “Trời đầy cỏ xanh, trên cành lê trắng điểm vài bông hoa”.

    Nhớ “Mengkai Bailin” và nhớ người thợ dệt mũ “Molin Shajiang”. “Mịn màng” có nghĩa là sáng bóng trên các sợi. Chỉ có sự thành thạo, kiên nhẫn, tỉ mỉ mới có thể “mọc từng sợi” và dệt được những chiếc mũ, những chiếc mũ phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Nhật và để những người lính ra trận có “sao mũ súng”. Người chằm nón mà nhà thơ nhắc đến tiêu biểu cho vẻ đẹp tài hoa, sáng tạo của con người Việt Bắc. Mùa xuân ở Việt Nam thật khó quên :

    “Xuân về núi nở hoa trắng nhớ người đan nón chuốt sợi”.

    Nhớ Việt Nam, tôi nhớ mùa hè tiếng ve hót trong rừng, màu vàng của rừng hổ phách và cô gái “hái măng một mình” trong rừng cà, bách, trúc. :

    “Câu danh ngôn gọi rừng đổ vàng, nhớ em hái măng một mình”.

    Sự “đổ” tài tình. Tiếng ve kêu “đổ róc rách” giục mùa hè qua mau, nhuộm vàng thêm cả khu rừng. Cũng có bài thơ của Huyền Đế dùng chữ “Thanh” để diễn tả cùng một cảm nghĩ: “Qua lá đổ trời xanh…” (Thơ Duyên – 1938). Bài thơ “Nhớ em gái tôi hái măng một mình” là một bài thơ đặc sắc, có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Vần với lưng: “Girl” vần với “pick”. Có sự ám chỉ thông qua phụ âm “m”: “xoài-a-i”. Các bài thơ nên hòa vào âm nhạc, tạo ra một không gian nghệ thuật đẹp và thú vị, đầy âm thanh. Người “chị hái măng một mình” vẫn không thấy lẻ loi, bởi chị vừa làm nhạc rừng, vừa hái măng để góp phần “nuôi bộ đội” và phục vụ kháng chiến. Cô gái hái măng chính là sự trẻ trung, yêu đời trong bài thơ.

    <3

    “Rừng thu trăng lặng lẽ soi, nhớ khúc chung tình”.

    Laoyue “Jinboting Shushui”. Trăng Bắc Nguyệt trong thơ Bác là “vầng trăng cổ thụ in bóng lồng hoa”. Sau khi các cán bộ kháng Nhật trở về Trung Quốc, họ nghĩ đến trăng sáng của miền Bắc Việt Nam trong rừng thu, ánh trăng “tỏa sáng” giữa những chiếc lá rừng xanh, ánh trăng dịu dàng, mát mẻ và thơ mộng. “ai” là đại từ nhân xưng mỏng manh, “nhớ ai” là nhớ về tất cả, về tất cả những người Việt Nam đã hy sinh vì cách mạng và kháng chiến, trung kiên, thủy chung.

    Bài thơ này chan chứa tình yêu. Nỗi nhớ mong bồi hồi dường như đã thấm sâu vào cảnh vật và lòng người, khi trở về người ta lại nghĩ đến ta và ta. Tình yêu ấy thật sâu đậm, thật nhiều chung thủy. Thời gian trôi đi, những bản tình ca thủy chung ấy sẽ mãi in sâu trong lòng người như son đỏ thắm.

    Bài thơ mang vẻ đẹp tứ bình độc đáo, thấm đượm phong tục dân tộc. Mùa đông năm 1946, cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu, mùa thu tháng 10 năm 1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng, Tố Hề cũng bày tỏ nỗi nhớ Việt Nam qua bốn mùa đông xuân hè cái, theo dòng chảy của lịch sử. Mỗi mùa có một vẻ đẹp rực rỡ: màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mai, màu vàng của rừng hổ phách, màu trắng và xanh tĩnh lặng. Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thật tự nhiên rất hữu tình và mang vẻ đẹp cổ điển. Người được nhắc đến không phải là người đánh cá, người ủi, người nấu canh hay con sâu bướm mà là người đi rẫy, người đan nón, người chị hái măng và người đàn ông hát về tình yêu chung thủy. Tất cả thể hiện những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam: cần cù, làm chủ thiên nhiên và cuộc sống trong lao động, kiên nhẫn, thông minh, tài năng, lạc quan trẻ trung, yêu đời, nhân ái, trung thành với cách mạng và kháng chiến.

    Giọng thơ ngọt ngào tha thiết đánh thức tâm hồn người đọc. “Việt Bắc” và nỗi nhớ được nhắc đến trong bài thơ này thể hiện vẻ đẹp của một phong cách thơ: trữ tình thân dân, đậm đà tính dân tộc, sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển và hiện đại.

    Hình ảnh xinh đẹp, giàu có, gợi cảm. Một không gian nghệ thuật tràn đầy sức sống, đường nét, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, kết cấu hài hòa đã để lại trong lòng chúng ta những ấn tượng sâu sắc, đúng như lời Bác Hồ đã viết: “Cảnh rừng” hay quá…”

    Thơ ca chân chính “là một hình ảnh, một hình ảnh con người… đánh thức từ hình ảnh hữu hình cái vĩ đại vô hình” (Nguyễn Tuân). Bài thơ này đã khơi dậy trong lòng chúng ta tình yêu đất nước Việt Nam, niềm tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Bài thơ “luôn đập một điệp” này cho ta biết yêu, nhớ đến tình Việt Nam, tình Kháng Chiến.

    Phân tích hình tứ bình – Ví dụ 7

    Đầu húy là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông là nhà thơ có tư tưởng cộng sản, nhà thơ lớn, thơ ông gắn liền với cách mạng. Chủ cũng quan tâm đến mọi người. Đến nỗi trong tác phẩm của ông luôn gần gũi với mọi người. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chương phong phú và giá trị, với phong cách trữ tình chính luận sâu sắc, đậm đà bản sắc dân tộc. Điển hình là Bưu điện Việt Bắc. Có thể nói, kết tinh của tác phẩm này được đọng lại trong mười câu thơ thể hiện nỗi nhớ của người về nước, là bức tranh tứ bình hòa nhập với cảnh sắc thiên nhiên Việt Nam, con người Việt Nam.

    “Em về rồi, anh có nhớ không? Nhớ hoa và người rừng xanh, hoa phượng đỏ tươi, đèo cao, nắng thắt lưng. Mùa xuân rừng mơ trắng, Nhớ người đan nón , từng mũi một. Em tôi hái măng một mình, rừng thu trăng soi lặng lẽ, nhớ ai câu ca chung tình”

    “Việt Bắc” ra đời vào tháng 10 năm 1954, tức là sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, các cơ quan trung ương của đảng và nhà nước từ Việt Bắc trở về Hà Nội. Tou Hu cũng là một trong những cán bộ đã sống với Yue Bei trong nhiều năm, và bây giờ anh ta rời khỏi khu vực chiến tranh để trở về. Bài thơ như một lời chia tay viết trong nỗi nhớ ấy. Trong những hoài niệm của người Việt Nam, có lẽ đẹp đẽ nhất là ấn tượng khó phai mờ về những con người sống chan hòa với núi rừng tươi đẹp.

    “Em về, anh nhớ em, nhớ hoa cùng em”

    Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ. Nhưng cuộc hỏi thăm chỉ là cái cớ để bày tỏ tình cảm, tô đậm thêm niềm nhớ nhung của người dân thủ đô. Hai câu đầu là câu hỏi và câu trả lời của tôi với những cán bộ kháng Nhật đã trở lại tiền tuyến. Em hỏi anh có nhớ em không? Các chiến sĩ cách mạng về Bắc xin người Việt Bắc bày tỏ tình cảm, dù xa nhau nhưng lòng ta vẫn gắn bó với miền Bắc. Các từ “ta”, “nhớ” được lặp đi lặp lại thể hiện lòng trung thành. Nỗi nhớ “hoa và người” của thiên nhiên, núi rừng và con người Việt Nam. “Hoa” là kết tinh của hương vị, còn “người” là kết tinh của đời sống xã hội. Rốt cuộc, “con người là bông hoa của trái đất”. Hoa và người bổ trợ cho nhau, thắp sáng cả không gian núi rừng.

    Các câu tiếp theo thể hiện cụ thể và chân thực vẻ đẹp của bốn mùa trong rạp hát. Cảnh và nhân vật hòa quyện vào nhau. Cứ câu thơ tả cảnh lại có câu thơ tả người. Mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng, tạo thành một bức tranh tứ bình của ánh sáng, màu sắc và âm thanh vui tươi, ấm áp.

    “Rừng xanh ngọc bích, hoa chuối đỏ tươi, nắng đèo cao, ánh dao thắt lưng”

    Bức tranh bắt đầu với cảnh mùa đông. Ta luôn thắc mắc tại sao tác giả không miêu tả bốn mùa theo quy luật tự nhiên xuân hạ thu đông trước đông. Có lẽ vì tác giả viết bài thơ này vào tháng 10 năm 1954, lúc đó đang là mùa đông, và cảnh mùa đông ở Việt Nam đã gợi cảm hứng cho ông viết nên tâm trạng của những mùa đông trước.

    Nghĩ đến mùa đông phương Bắc, tác giả không khỏi nhớ đến cái lạnh, cái lạnh và sự u ám. Nhớ ngày đông đầy nắng đó. Thảm thực vật bạt ngàn của núi rừng Bắc Bộ. Nó như làm nổi bật màu đỏ tươi của hoa chuối. Hình ảnh “Hoa chuối đỏ tươi” – hình ảnh đặc trưng của núi rừng Việt Nam về mùa đông, nó như ngọn đuốc, ngọn lửa sáng rực, soi sáng cảnh đông và xua tan bóng tối, giá lạnh của núi rừng. Cả không gian ấm áp. Điểm xuyết vẻ đẹp đông bắc đặc trưng. Đằng sau bức ảnh mùa đông ấy là hình ảnh người lao động nhập cư trèo đèo lội suối làm ruộng. Hình ảnh nhân viên khỏe mạnh sẽ ngày càng tỏa sáng. Sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, ông không dùng “nắng” với tư cách danh từ mà dùng “nắng” – động từ, nhằm làm cho hình ảnh người lao động thêm đẹp đẽ, rực rỡ.

    Mùa đông lạnh giá đã qua, chúc may mắn, một mùa xuân ấm áp và hạnh phúc đang đến

    “Ngày xuân núi nở hoa trắng, Chợt nhớ người đan nón chuốt sợi”

    Mùa xuân – Hình ảnh “bông mai trắng trong rừng” là loài hoa đặc trưng cho mùa xuân ở Việt Nam. Hoa nở trắng cả rừng. Màu không phải là màu của trăng, như trong truyện Nguyễn Du Kiều “Cành lê trắng điểm mấy bông hoa”. Đó là màu trắng trong trẻo, tinh khôi của núi rừng Việt Nam. Đằng sau mùa xuân trong trẻo, dịu dàng và thơ mộng. Nhà thơ nhớ những người đan nón. Hình ảnh “người xay một sợi” thể hiện đức tính cần cù, tỉ mỉ, tay nghề tinh tế và tài hoa của người dân nơi đây. Họ dệt mũ từ những sợi bông này. Nó là vật dụng không thể thiếu của người dân nơi đây để che nắng che mưa, đồng thời cũng có thể làm quà biếu cho những người thân yêu.

    “Lời gọi rừng xuống vàng nhớ cô em hái măng một mình”

    Khi bạn nghe thấy tiếng ve kêu, đó là âm thanh đặc trưng của mùa hè. Rừng hổ phách bỗng vàng rực. Đó là sự thay đổi đột ngột, khiến người ta có cảm giác khi tiếng ve kêu là lá cây bách chuyển từ xanh sang vàng. Cả không gian Việt Bắc như được nhuộm một màu vàng rực rỡ. Năm tháng cho ta sắc màu, và trong sâu thẳm màu vàng rực rỡ ấy là hình ảnh cô thiếu nữ hái măng. Ở đó, toát lên sự chăm chỉ, cần cù, chịu khó. Măng là loại rau nuôi quân cách mạng. Hình ảnh cô gái hái măng một mình thể hiện trạng thái tĩnh lặng, thư thái. Câu này làm chúng ta nhớ đến câu này:

    “Mai rụng, măng rồi già”

    Nếu mùa đông có hoa mai, mùa xuân có hoa chuối, mùa hè có hoa hổ phách. Mùa thu có hoa gì? Mùa thu không có hoa nhưng mùa thu có người. Con người là bông hoa đẹp nhất. “Con người là hoa của đất”.

    Khác với văn học trung đại coi thiên nhiên là cái đẹp, văn học hiện đại coi con người là tiêu chuẩn của cái đẹp. Điểm này được thể hiện rõ nét trong những bài thơ miêu tả mùa thu của Du You.

    “Trăng soi rừng thu thanh bình, nhớ câu ca ai chung tình”

    Nếu lục bát là những bài thơ miêu tả hình ảnh vầng trăng thì trong thơ lục bát có những “khúc tình ca”. Cặp đôi “Yue-Le” cùng nhau tạo nên vẻ đẹp lãng mạn lung linh. Đất nước ta lúc bấy giờ đang trong thời kỳ kháng chiến ác liệt nhưng trong những vần thơ của nhà thơ chỉ thấy sự thanh bình, yên ả, thanh bình và tình yêu chung thủy

    Nó chứa đầy chất thơ và nỗi nhớ da diết. Người ở nhà sẽ “tôi nhớ mình” “tôi nhớ tôi”. Tình yêu ấy thật chân thành, thật thiêng liêng, thật nhiều tình yêu thủy chung. Năm tháng trôi qua, nhưng tình cảm cách mạng thủy chung son sắt giữa Việt Nam và nhân dân miền Bắc vẫn trường tồn, thắm đượm màu son, in đậm trong lòng người.

    Nhìn chung trong 10 câu thơ, các yếu tố được kết hợp hài hòa trong những câu thơ tả cảnh và trong những câu thơ tả người, sự hài hòa này tạo nên bức tranh tứ tuyệt đẹp đẽ, nhiều màu sắc. Chủ nhân bày tỏ tình yêu với thiên nhiên núi rừng Việt Nam và lòng trung thành với những con người hiền lành chất phác nơi đây. bạn yêu và tự hào về việt bắc. Mỗi chúng ta cần biết đến các vùng đất khác nhau của đất nước mình, yêu mến và tự hào về vẻ đẹp kì diệu của nó. Hơn hết, chúng ta ghi nhớ công ơn to lớn của những người lính đã hy sinh chiến đấu và xây dựng để tạo nên một đất nước hòa bình và tươi đẹp như ngày hôm nay.

    Phân tích hình tượng tứ bình – Ví dụ 8

    Sống thanh nhã, trung dung là nếp sống văn hóa cao đẹp của dân tộc ta từ ngàn đời nay. Vẻ đẹp này được lưu giữ trong nhiều tác phẩm văn học khác nhau, trong đó không thể không kể đến hình tượng tứ bình trong bài thơ Bắc của nhà thơ Đỗ Hữu:

    <3

    Việt Bắc không chỉ là nơi ở, nơi chiến đấu mà còn là nơi chứa đầy kỉ niệm và tình cảm chân thành. Vì thế, giờ phút chia tay ai cũng xúc động, bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm ngày xưa. Những kỉ niệm đó là lớp học, là những ngày kỷ niệm trong những năm tháng chiến tranh, là một nỗi nhớ khác về thiên nhiên và con người Việt Nam.

    Việt Bắc trong tứ tuyệt rất cô đọng, súc tích một cách tự nhiên, tượng trưng cho bốn mùa. Mùa đông là mùa đầu tiên xuất hiện màn tứ tấu:

    Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

    Đọc xong bài thơ này, trong lòng mỗi người hình dung không phải là một mùa đông lạnh giá u ám mà là một mùa xuân tràn đầy sức sống và một mùa hè rực rỡ. Nhưng không, đây là bức ảnh thiên nhiên Việt Nam vào mùa đông. Đối lập với màu xanh của núi rừng bạt ngàn là màu đỏ tươi của hoa chuối. Hơi ấm rực rỡ tuy nhỏ bé nhưng dường như thắp sáng cả bức tranh và đánh thức sự sống tiềm tàng trong đó.

    Bức tranh thứ hai là mùa xuân. Ở đây, khung cảnh thiên nhiên mang nét thuần khiết, dịu dàng: “Mùa xuân hoa ban nở trắng rừng”. Câu thơ làm ta chợt nhớ đến khung cảnh ấy: “Ôi sáng nay xuân 41/ Rừng mai rừng Bạch Biên/Bác về…Lặng lẽ chim hót/Thánh sậy vui ngẩn ngơ”. Từ mùa xuân đến mùa hè, rực rỡ, đầy màu sắc và thanh nhạc. Hòa cùng sắc màu rực rỡ của “Rừng hổ phách vàng” là tiếng ve ngân như khúc nhạc chào đón mùa hè. Ve sầu nhuộm vàng cả khu rừng hay đó chỉ là điều tự nhiên? Dù bằng cách nào, những cảnh được hiển thị rực rỡ và ấm áp.

    Cuối cùng là bức tranh mùa thu:

    Trăng thu tỏa sáng bình yên

    Ánh trăng dịu mùa thu tràn ngập cả không gian. Trong màu sắc ấy, không gian ấy cũng bừng lên khát vọng về một cuộc sống tự do, bình yên. Dưới sự quan sát tinh tường của các yếu tố, mùa nào ở đây tự nhiên cũng đẹp và đặc sắc đến vậy. Có lẽ anh cần rất nhiều sự gắn bó và tình cảm mới có thể nắm bắt trọn vẹn vẻ đẹp tinh túy nhất của khung cảnh như vậy.

    Đan xen trong mỗi bức tranh là hình ảnh con người Việt Bắc. Bác không chỉ yêu mến, tôn trọng thiên nhiên nơi đây mà còn quan tâm đến con người Việt Bắc một cách nồng hậu, chân thành. Ở mỗi chủ đề, anh đều khám phá và nắm bắt được vẻ đẹp độc đáo của chúng. Đó là hình ảnh người nông dân lên núi làm việc, lưỡi dao sáng loáng trong nắng đông. Đó là bàn tay thầm lặng của người đan nón, “chải từng sợi chỉ” điêu luyện. “Em tôi hái măng một mình” bên dòng suối, bên tiếng ve kêu, bức tranh càng nên thơ, đẹp như tranh vẽ. Để rồi cuối cùng, giọng hát chân chất, sâu lắng vang vọng núi rừng Việt Nam. Khúc nhạc vang lên ở cuối khổ thơ, lồng ghép hình ảnh ánh trăng càng soi sáng khát vọng hòa bình, độc lập của tác giả.

    Những câu thơ thể hiện nỗi nhớ da diết, cứ thế bao trùm từng câu, từng chữ, là nhịp điệu nhẹ nhàng, dẫn dắt con người từng bước về quá khứ tươi đẹp, nhân hậu và thủy chung. Nhịp điệu ấy cộng với nhịp điệu của ô lục bát càng làm cho nỗi nhớ thêm da diết, đau đáu.

    Kết thúc câu thơ, nỗi nhớ vẫn còn vương vấn, vang vọng khắp không gian. Nỗi nhớ ấy như lời tri ân sâu sắc của tác giả đối với thiên nhiên và con người nơi đây. Đồng thời, hình ảnh giản dị được sử dụng, ngôn ngữ thơ trong sáng, dễ hiểu nhưng đã tạo nên một bức tranh tứ bình độc đáo, một lần nữa khẳng định tài năng nghệ thuật của các yếu tố.

    Phân tích hình ảnh tứ bình – Bài mẫu 9

    “Ôi! Nỗi nhớ mãi!”. Nỗi nhớ đi xuyên thời gian và vượt không gian. Nỗi nhớ da diết… khi anh đã xa trên đất nước Việt Nam thân yêu – nơi anh đã nuôi mình lớn lên trong những năm tháng gian khổ của cuộc chiến… .

    Tôi về, tôi nhớ tôi, nhớ hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng nhớ người đan nón dệt từng sợi chỉ. Em tôi hái măng một mình rừng thu thanh bình dưới ánh trăng

    Cùng một bài thơ ngắn, từ “nhớ” được lặp lại năm lần. Nỗi nhớ nhà xuyên suốt từ câu đầu đến câu cuối. Hai dòng đầu là những từ gợi hình “ Kiều nhắc nhở”: Em có nhớ anh không? Một mình tôi, tôi vẫn nhớ! Cách chào gợi tình cảm thân mật, bền chặt. Bạn và tôi không phải là một, và một không phải là hai. Người chết nhớ gì? Việt Bắc điều gì phải nhớ, điều gì phải thương? Các câu thơ có được trình bày rõ ràng không?

    “Ta đã về, nhớ hoa cùng em”

    Núi rừng, phong cảnh Việt Nam được ví như “hoa lá”. Tươi tắn, rực rỡ và “thơm”

    Tuyệt vời”. Trong cuộn tranh thiên nhiên, hình ảnh con người hiện lên, giản dị, chân chất, giản dị nhưng đẹp vô cùng! Con người và thiên nhiên hòa quyện vào nhau tạo nên một phong cách riêng của Việt Nam.

    Bốn mùa đất nước du hành qua những câu thơ ngắn với những hình ảnh, chi tiết, nhân vật. Mỗi mùa có một hương vị đặc trưng riêng.

    Mùa đông, rừng cây xanh mướt những bông chuối đỏ tươi và nắng vàng rực rỡ. Khi mùa xuân đến, cả khu rừng được thắp sáng bởi màu trắng của hoa mai. Mùa hè ve kêu “Rừng hổ phách vàng”. Khi thu về, thiên nhiên được soi sáng bởi ánh trăng vàng dịu. Bài thơ tràn ngập những gam màu chói lọi: xanh, đỏ, vàng, trắng… Những gam màu này tác động vào các giác quan của người đọc. Khi tiếp xúc với những câu thơ của nhà thơ, chúng ta như đang thưởng thức những bức tranh sinh động. Trong số đó, việc sử dụng màu sắc tự nhiên, hài hòa càng làm tôn thêm vẻ đẹp của núi rừng Việt Nam.

    Thời gian trôi êm đềm theo dòng thơ. Những bước đi vững vàng khiến người ta không thể thấy được sự thay đổi của các mùa. Thiên nhiên Việt Nam cũng được miêu tả theo chiều dọc của thời gian. Sáng sớm hoa nở “trắng rừng”, trưa nắng tắt, đêm buông, trăng soi… Núi rừng Việt Nam đang từng phút từng phút đổi thay…

    Và khi hình ảnh con người xuất hiện, khung cảnh tươi đẹp, đáng yêu ấy trở nên hài hòa, ấm áp và sống động hơn. Con người làm tổ trong tự nhiên, như bông hoa đẹp nhất, tỏa hương thơm ngào ngạt nhất. Mỗi câu thơ tả cảnh được ghép với một câu thơ tả người. Cảnh vật và con người bổ sung cho nhau. Những người này chăm chỉ, tận tâm và đam mê công việc của họ. “Con dao thắt lưng”, người “nghề đan nón”, “cô em hái măng một mình”, khúc tình ca vang trong đêm rừng ồn ã… Bức chân dung như vẻ đẹp của thiên nhiên. rực rỡ. Chính họ thắp sáng thiên nhiên và làm cho nó lộng lẫy hơn. Chúng gợi lên nỗi nhớ nhung người đã khuất. Đọc bài thơ này ta cảm nhận được vẻ đẹp bình dị, trong sáng của trái tim người Việt Nam. Ở đó, họ “trước sau như một”, đối xử với nhau bằng tình cảm, sự chân thành và thủy chung. Họ dấy binh, dấy lên cách mạng, kiến ​​quốc kháng chiến… Con người Việt Nam bình dị mà anh dũng.

    Gợi lên hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây, những người bạn thể hiện tình cảm nồng nàn, thắm thiết và nỗi nhớ da diết. Tôi và tôi, tôi và tôi là:

    “Thương nhau thì chia củ sắn, chia bát cơm đắp chung chăn.”

    Ngọt như mía, ngọt như mía! Làm sao quên được nhau. Tình cảm ấy đã ăn sâu vào tâm hồn của những người còn sống và cả những người đã khuất. Vì vậy, lúc chia tay, nỗi nhớ là cảm giác, nỗi niềm khắc sâu trong lòng tác giả.

    Giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng. Toàn bộ phần chứa đựng sự lạc quan, niềm vui và niềm tin vào cuộc sống. Nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện lòng yêu nước yêu thiên nhiên, tha thiết với con người và thiết tha với tố. Cuối bài thơ là câu hát ngọt ngào gợi bao kỉ niệm của mỗi người. Những kỉ niệm ấy, theo bước chân người ra đi, gói gọn trong lòng người ở lại…

    So với toàn bài, câu thơ của Thor rất chung chung. Lời thơ giản dị, trong sáng thể hiện những rung động thực sự trước núi rừng và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ trong thơ của nhà thơ đã đi sâu vào lòng người đọc, như một khúc dân ca ngọt ngào, để lại trong lòng ta những dịu dàng sâu lắng.

    Phân tích hình tứ bình – Ví dụ 10

    Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cái nôi của cách mạng, là nhắc đến đồng bằng Trung Bộ nghèo khó, nặng tình – nơi có biết bao kỷ niệm của một thời cách mạng gian khổ mà hào hùng. lo lắng? Bằng cách này, các sợi của sợi tình yêu được đan xen, như tiếng gọi “anh-em” của một đôi lứa yêu nhau. Như nhà thơ trữ tình Lan Viên đã từng viết: “Khi ta ở chỉ là nơi ở/ Khi ta ra đi đất trở thành tâm hồn”. Đúng! Việt Bắc biến tâm hồn đằm thắm thành bài thơ tình bạn, lời ngân nga như điệu nhạc, cảnh và người ăm ắp những kỉ niệm không bao giờ quên.

    “Ta về mình nhớ ta nhớ hoa nhớ người rừng xanh hoa chuối đỏ tươi đèo cao nắng thắt lưng ngày xuân hoa mơ Rừng trắng nhớ người Dệt nón đan chỉ Măng tre lẻ loi giữa rừng thu, ánh trăng lặng lẽ nhớ ai thiết tha khúc tình ca”

    Đạo Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông thể hiện tình cảm cách mạng một cách dịu dàng và sâu sắc. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ này được viết vào tháng 10 năm 1954, khi Trung ương Đảng, Bác Hồ của Chính phủ và các cán bộ kháng Nhật rời “thủ đô gió ngàn” đến “Bating, thủ đô hoa vàng và nắng vàng”. Cả bài thơ đầy hoài niệm về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc, những năm tháng ấy gian khổ nhưng tràn đầy niềm vui và hào hùng. Nhưng có lẽ câu thơ ấn tượng nhất trong bài ca dao Việt Bắc là câu nói về bức tranh tứ bình xuân hạ thu đông.

    Mở đầu là hai khổ thơ, giới thiệu đại ý của cả bài thơ:

    “Khi em về em nhớ anh, nhớ hoa cùng em”

    Ở đoạn 1, câu hỏi tu từ “Em có nhớ tôi không?” Ở đoạn 2, câu hỏi tu từ “ta” được lặp lại 4 lần với âm “a” là âm mở đầu, sao cho các âm tiết có thể tận hưởng sự nhiệt tình của khoảng cách. Người cán bộ ra đi không chỉ nhớ về những năm tháng khó khăn “bát cơm manh áo”, mà còn nhớ đến sự đáng yêu, xinh đẹp của “hoa và người”. Những bông hoa ở đây đại diện cho vẻ đẹp tự nhiên của miền bắc, và con người là những người miền bắc trong chiếc áo màu xanh giàu và nghèo. Hoa và người hòa quyện vào nhau tạo nên vẻ đẹp hài hòa, đằm thắm làm nên nét riêng của vùng đất này. Đây chính là điều tạo nên cấu trúc độc đáo của bài thơ này. Bốn cặp lục bát còn lại, sáu câu nói về hoa, cảnh, tám câu nói về người. Cảnh vật, nhân vật trong mỗi câu đều mang sắc thái, nét riêng rất hấp dẫn.

    Nhắc đến mùa đông, chúng ta thường nghĩ đến cái lạnh thấu xương, sự u ám của một ngày mưa phùn và nỗi buồn của một tiết trời u uất. Nhưng ra Việt Bắc vào thơ Hữu mới là lạ. Ấm áp bất ngờ vào mùa đông:

    Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, Qualcomm trong nắng, thắt lưng

    Những bông hoa chuối đỏ tươi khoe sắc dưới nắng điểm xuyết trên nền xanh bạt ngàn của khu rừng. Nhìn từ xa, loài hoa này như một ngọn đuốc được thắp sáng, sử dụng những đường nét màu sắc để tạo nên một bức tranh vừa tương phản vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Màu “đỏ tươi” – màu rực lửa của hoa chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng làm cho thiên nhiên Việt Nam bừng sáng và ấm áp, như có một sức sống tiềm ẩn xua đi cái hoang lạnh giá lạnh. Nội thất phản ánh núi và rừng. Dòng này làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong bài thơ của nguyễn trai:

    Thạch lựu còn phun đỏ hồng, tỏa mùi thơm

    Từ sự liên tưởng này, ta thấy mùa đông trong bài thơ cũng toát lên cái ấm áp của mùa hè hơn là cái lạnh hoang vu bởi những bông hoa chuối đỏ au cũng ló ra từ đồi xanh.

    p>

    Khi chạng vạng hoa chuối, đồng bào chiến khu lên núi cày ruộng, sản xuất được nhiều lúa khoai đảm bảo cho “đèo cao lưỡi gươm dưới nắng cháy” .Trước thiên nhiên rộng lớn, con người dường như càng trở nên hùng vĩ hơn.Nhà thơ không tô vẽ khuôn mặt ở đây mà ghi lại biểu hiện rực rỡ nhất của tình yêu.Đó là vầng mặt trời lấp lóa trên ngọn rừng lúc eo anh đây câu thơ mang ngôn ngữ thơ cũng mang ngôn ngữ nhiếp ảnh Người là tâm điểm của ánh sáng Người cũng hiện ra ở vị trí đẹp nhất – “Qualcomm” Người đang chiếm tự do của núi rừng và rừng núi”. “Núi rừng là của ta/ Trời xanh, đây là của ta”. Đây là một cử chỉ thống trị đầy tự hào và vững vàng: giữa núi rừng và mặt trời, giữa bầu trời bao la và rừng xanh bạt ngàn, người ấy đã trở thành linh hồn của cuộn tranh mùa đông Beiyue.

    Mùa đông đã đến, mùa xuân đã đến. Nhắc đến mùa xuân, chúng ta nghĩ ngay đến trăm loài cây cỏ, loài hoa bừng dậy sức sống mới sau một mùa đông dài. Mùa xuân ở Việt Nam cũng vậy:

    Mùa xuân hoa nở trắng rừng, nhớ người đội nón đan, se sợi

    Màu trắng tinh khôi, dịu dàng của hoa mơ khắp núi rừng, đồng bằng bao trùm lên khung cảnh mùa xuân: “Mơ rừng hoa nở trắng mùa xuân”. Cụm từ “trắng rừng” được viết ngược, từ “trắng” được dùng như một động từ, nhấn mạnh màu trắng như lấn át hết màu xanh của lá, làm bừng sáng cả khu rừng. Hoa hạnh nhân trắng mơ màng. Động từ “nở hoa” lan tỏa sức sống của mùa xuân, căng tràn sức sống. Đây không phải là lần đầu tiên Hữu viết về màu trắng đó. Năm 1941, Việt Nam cũng đón Bác Hồ trong màu hoa mai:

    <3

    Mùa xuân không ngừng tươi mới hơn với chiến dịch “Chải từng sợi vải”. Vẻ đẹp tự nhiên trong công việc hàng ngày. Từ “bơ” và hình ảnh thơ chỉ bàn tay của người dân lao động: cần cù, thông minh, lanh lợi, tài hoa, nhanh nhẹn, cẩn thận, đó cũng là đức tính cần cù của người Việt Nam.

    Mùa hè đang đến gần với tiếng ve kêu, bức tranh Việt Nam sống động hơn bao giờ hết:

    Nghe nói núi rừng đổ vàng, tưởng em hái măng một mình

    Khi tiếng ve hót cũng là lúc rừng hổ phách vàng rực. Động từ “to pour” là một động từ mạnh mô tả những bông hoa màu hổ phách đồng loạt chuyển sang màu vàng vào đầu mùa hè. Màu hổ phách dát vàng xuống dòng suối, như biến nắng hè và tiếng ve kêu thành vàng. Đó là một bức tranh sơn mài hoài cổ, với ánh đèn nhiều màu sắc và âm thanh rộn ràng. Yếu tố này có năng khiếu không chỉ ở việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa mà còn ở việc miêu tả sự vận động thay đổi của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên, ta có thể thấy cả thời gian đang luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến, cây hổ phách chuyển sang màu vàng rực rỡ. Đây là một biểu hiện độc đáo của chủ nghĩa dân tộc.

    Trong mảnh thiên nhiên trù phú vàng son ấy, có hình ảnh một cô gái áo chàm cần mẫn hái măng rừng về tiếp tế cho các chiến sĩ kháng Nhật: “Nhớ em hái măng một mình”. Một mình đi hái măng không hề lẻ loi như cảnh lưng chừng núi của cô gái miền sơn cước trong bài thơ cổ mà ngược lại rất trữ tình, thơ mộng, nhân hậu, thân tình. Hình ảnh thơ còn gợi lên vẻ đẹp không đau đớn của người con gái. Đằng sau điều này ẩn chứa rất nhiều sự đồng cảm và kính trọng dành cho tác giả.

    Thu về núi rừng chiến khu tưởng như được tắm mình trong ánh trăng xanh, lấp lánh và mát rượi:

    “Trăng soi rừng thu, trăng soi bình yên nhớ ai khúc tình ca da diết”

    Ánh trăng bao la đang bay khắp trời, là ánh trăng của hòa bình tự do, chiếu soi trên từng ngọn núi, từng thôn, từng xóm trên đất nước Việt Nam. Hồi ở chiến khu mới biết trăng thu trong thơ anh:

    Khi trăng vào cửa sổ, quân rộn ràng, hãy chờ tiếng chuông thức giấc ngày sau để tuyên chiến liên khu thắng lợi

    Ở đây không có tiếng chuông chiến thắng, nhưng tiếng hát vang lên. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào các dân tộc, là lời ca nhắc nhở họ thủy chung trong tình yêu. Đây cũng là khúc tình ca của những người con núi rừng Việt Bắc mười lăm năm ròng.

    Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Nam hoàn thiện bức tranh núi rừng tươi đẹp và kết thúc bài thơ bằng bài “Lòng chung thuỷ” gợi tình yêu quê hương đất nước. nước.

    Những câu thơ trên của để hu làm nổi bật cảnh vật và hình ảnh nhân vật bốn mùa của Chiến khu Việt Nam một cách giản dị, vừa cổ điển, vừa hiện đại. Cảnh vật và con người bổ sung cho nhau, bổ sung cho nhau làm cho bức tranh thêm gần gũi, sinh động và giàu tình cảm. Mọi thứ biến thành nỗi nhớ và sự quyến luyến cháy bỏng trong lòng người cán bộ trở về.

    Phân tích hình tứ bình – Bài mẫu 11

    “Đố bạn” được coi là “đầu tàu” của phong trào thơ ca cách mạng Việt Nam, và các tác phẩm của nó đã trường tồn trong một thời gian dài. Thơ ông nói về chính trị không khô khan mà với giọng điệu trữ tình dễ đi vào lòng người. “Việt Bắc” ra đời trong bối cảnh chia cắt của quân và dân tại Căn cứ địa Việt Bắc sau kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được coi là lời tâm tình, chứa đầy tình cảm của chủ nhân đối với mảnh đất anh hùng này. Đặc biệt là những hình ảnh đẹp nên thơ trong “Việt Bắc” người đọc sẽ không bao giờ quên.

    Dòng suy tưởng xuyên suốt bài thơ “Việt Bắc” chan chứa tình cảm sâu nặng của bạn bè đối với bộ đội và dân công tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Người đọc sẽ được tiếp xúc với hình ảnh những mối liên hệ gần gũi, những cuộc sống bình dị, những con người Việt Nam chân chất qua lời văn thơ. Phải có cảm xúc dịu dàng, phải có người “nặng ký” mới thổi hồn vào từng câu đối đáp với câu thơ uyển chuyển như vậy.

    Có thể nói, điểm nổi bật của cả bài thơ là qua giọng điệu trầm bổng, du dương của Dư Bạn đã làm nổi lên bức tranh tứ bình tươi đẹp của núi rừng Việt Nam. Bạn đọc sẽ được đắm chìm trong khung cảnh hữu tình, thơ mộng của “Xứ sở thần tiên” này.

    Phần này bắt đầu bằng câu trả lời nhẹ nhàng “tôi”-“tôi”:

    Tôi nhớ bạn về tôi, tôi nhớ hoa của bạn

    Thật khéo léo và tinh tế khi có thể truyền tải cảm xúc một cách kín đáo như vậy. Ngôn ngữ thân thiện và cách diễn đạt nhẹ nhàng cũng khiến người đọc cảm thấy rất mê mẩn. Tác nhân hỏi “the person” nhưng thực chất là hỏi “I” và câu trả lời nằm trong câu hỏi. Lời tựa sâu lắng này sẽ dẫn dắt người đọc lần lượt khám phá nét đặc trưng của bốn mùa ở núi rừng Việt Nam.

    Phân tích hình tứ bình – Bài mẫu 12

    Dẫn bạn đọc đến thăm xứ sở thần tiên của Việt Nam, Tú Hồ vẽ nên bức tranh mùa đông ấm áp, tràn ngập yêu thương:

    Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, Qualcomm trong nắng, thắt lưng

    Mùa đông Tây Bắc khiến người đọc ngẩn ngơ trước vẻ đẹp độc đáo của nó. Phải nói rằng tuy là mùa đông nhưng qua những vần thơ, cảnh vật không hề hoang vắng, vắng lặng mà qua hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi”, con người thật tươi sáng và ấm áp. Màu đỏ của hoa chuối là điểm nhấn, làm bừng sáng khung cảnh rừng mùa đông Việt Nam. Tố Hữu cho rằng đây là một nghệ thuật chấm câu rất hay giúp người đọc ấm lòng khi nghĩ đến Việt Bắc. Những tia nắng hiếm hoi của mùa đông chiếu vào những con dao mà người ta mang theo bên mình, ngay lập tức cho người đọc biết về cuộc sống hàng ngày và cuộc sống lao động của họ. Màu đỏ của hoa chuối trên núi cao và màu vàng của nắng bổ sung cho nhau tạo thành một bức tranh mùa đông lộng lẫy và đầy hi vọng.

    Bức tranh mùa xuân trên núi rừng Việt Nam trữ tình thơ mộng như chốn bồng lai tiên cảnh:

    Mùa xuân hoa nở trắng rừng, nhớ người đội nón đan, se sợi

    Đọc hai bài thơ này, người đọc như hình dung ra khung cảnh mùa xuân nhẹ nhàng, dịu dàng và ấm áp nơi núi rừng. Màu trắng của hoa mai gợi lên những hình ảnh thơ mộng trên nền màu nhạt. Hoa mai được coi là loài hoa mùa xuân của vùng Tây Bắc Trung Quốc, cứ mỗi độ xuân về chúng ta lại bắt gặp trên những con đường rực rỡ sắc màu ấy. Vào mùa xuân ở Tây Bắc Trung Quốc, người bán hàng nhớ đến hình ảnh của “thợ đan mũ” với những động tác bó sát “một mũi một sợi”. Động từ “chuốt” được sử dụng rất tài tình khi miêu tả những chuyển động mềm mại, tinh tế của chiếc nón đan. Bạn phải là người rất sâu sắc và hiểu biết để nhận ra điều này. Từ “bơ vơ” như thổi sức sống vào cảnh xuân Việt Nam, tạo nên sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên.

    Những bức tranh mùa hè sôi động của tác giả:

    Nghe nói núi rừng đổ vàng, tưởng em hái măng một mình

    Tiếng ve kêu trong “rừng” tạo cảm giác chuyển động trong nhiều khoảng lặng. Màu vàng của rừng Hổ Phách báo hiệu mùa hè đã đến trên cao nguyên. Tiếng ve như xé tan sự tĩnh lặng của núi rừng, đánh thức sự tĩnh lặng nơi đây. Từ “đổ” được dùng nhuần nhuyễn, là động từ mạnh diễn tả sự chuyển sắc, chuyển sắc đầy quyến rũ. Bức tranh mùa hè bỗng bừng sáng, sắc vàng rực rỡ của rừng Hổ Phách tràn đầy sức sống. Trong mỗi bức ảnh chụp thiên nhiên, người đọc đều bắt gặp bóng dáng con người. Có thể nói đây là sự khéo léo của các yếu tố trong việc gắn kết mối quan hệ giữa thiên nhiên và lòng người. Giữa núi rừng bao la, bóng dáng xinh đẹp của “cô gái hái tre” như tiếp thêm sức sống cho thiên nhiên.

    Cuối cùng là một bức tranh mùa thu nhẹ nhàng:

    <3

    Mùa thu đến với Tây Bắc với ánh trăng dịu êm. Thiên nhiên dường như ưu ái cho mùa thu miền Bắc tròn đầy và tràn ngập ánh trăng. Đây không phải là ánh trăng bình thường mà là ánh trăng nơi đây, ánh trăng của hòa bình, ánh trăng của những người bạn chí cốt, soi sáng những năm tháng chiến tranh gian khổ. Chính ánh trăng đã mang lại vẻ đẹp độc đáo của mùa thu cho Việt Nam. Tố nhìn trăng, nghĩ đến người, bồi hồi khúc tình ca.

    Quả thật, qua 4 cặp thơ lục bát ngắn, 4 mùa của thiên nhiên Việt Nam được gợi lên thật sinh động, tràn đầy sức sống. Tác giả có tài, có nghề, có hiểu biết rộng và có tình cảm sâu nặng với mảnh đất mới thổi sức sống vào bài thơ. Bức tranh tứ bình này sẽ làm cho người đọc thích và hiểu hơn về cảnh sắc và con người nơi đây.

    Phân tích hình tứ bình – Ví dụ 13

    Từ Vưu là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông là đỉnh cao của khuynh hướng trữ tình chính luận, đầy khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn và tinh thần dân tộc. Và Yue Bei có thể nói là một trong những tác phẩm thể hiện rõ nhất đặc điểm của thơ ca phương Đông. “Việt Bắc” là bản hùng ca nhưng cũng là bản tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và về nhân dân. Có lẽ, những ai đã đọc Việt Bắc sẽ không bao giờ quên vẻ đẹp của tứ bình trong bài thơ – vẻ đẹp của sự gắn bó, hài hòa giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc.

    Đoạn thơ miêu tả bức tranh tứ bình trong “Việt Bắc” được mở đầu bằng một câu hỏi tu từ – một câu hỏi để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc:

    Em đã về, anh nhớ em, nhớ hoa cùng em

    Hình thức câu hỏi tu từ, thậm chí cả nhịp độ, cách sử dụng điệp ngữ “anh” dường như muốn nhấn mạnh nỗi nhớ nhung, lòng thủy chung của anh. Nỗi nhớ ấy, nỗi lòng ấy gửi vào “Hoa và Người”. Hai từ “hoa” và “người” cho người đọc thấy được sự kết hợp hài hòa giữa “hoa” – thiên nhiên Việt Nam và “người” – những người tham gia cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ của nhân dân Việt Nam.

    Câu đầu tiên của khổ tứ trong bài thơ là cảnh mùa đông đẹp và sống động ở vùng núi Tây Bắc quê em:

    Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, Qualcomm trong nắng, thắt lưng

    Những bức tranh thiên nhiên gây ấn tượng với người đọc bởi màu xanh bao la, cảnh sắc thiên nhiên Việt Nam vào mùa đông, bất tận ánh lên sức sống của thiên nhiên, cảnh vật nơi đây. Và rồi, trên nền xanh ấy là sắc đỏ rực rỡ của hoa chuối rừng. Hai gam màu hòa quyện vào nhau dưới ánh nắng vàng khiến bức tranh thêm sinh động và ấm áp. Trong cái nền thiên nhiên như mùa đông, hình ảnh một con người hiện lên rất khỏe khoắn, mạnh mẽ và năng động. Con người ở đây được đặt trong không gian thiên nhiên bao la, tráng lệ nhưng họ vẫn hiên ngang, tôn thêm dáng hình của thiên nhiên.

    Không chỉ khung cảnh Việt Nam vào mùa đông mà cả những hình ảnh thiên nhiên Việt Nam vào mùa xuân cũng được tác giả khắc họa một cách sinh động và độc đáo:

    Mùa xuân hoa nở trắng rừng, nhớ người đội nón đan, se sợi

    Có thể nói, mỗi độ xuân về, sắc trắng của hoa đào, hoa mận đã trở thành nét đặc sắc của thiên nhiên Tây Bắc và ở đây, tác giả đã thể hiện điều đó một cách sinh động. Tinh khiết, trẻ trung và thơ mộng, Xinglinbai là một bức tranh tràn đầy sức sống của mùa xuân. Vẻ đẹp và sự quyến rũ của thiên nhiên dường như làm tăng thêm sự khâm phục, ngưỡng mộ của chính tác giả qua từ “Rừng trắng”. Trên nền thiên nhiên rung rinh, bóng người hiện lên lặng lẽ. Mỗi động tác “cắt sợi” đều gợi lên sự cẩn trọng, tỉ mỉ và khéo léo của người thợ Bắc Việt. Dường như bao nhiêu yêu thương, nhân hậu đều được người lao động gửi gắm.

    Nếu như bức tranh mùa xuân được tác giả vẽ bằng những gam màu của thiên nhiên Việt Nam thì bức tranh mùa hè lại được gợi lên bằng màu sắc và âm thanh:

    Nghe nói núi rừng đổ vàng, tưởng em hái măng một mình

    Nhịp điệu màu vàng của thiên nhiên và tiếng ve bổ sung cho nhau, dường như rộn ràng cảm xúc, lúc chia tay như tiên cảnh. Âm thanh và màu sắc cộng hưởng, như thể tiếng ve đánh thức màu sắc, tạo nên chuyển động nhanh của “Golden Amber”. Từ “Thanh” được tác giả sử dụng khéo léo gợi nguồn sống căng tràn, đầy ắp và tràn đầy sức sống. Ở khung cảnh ấy, người ta vẫn âm thầm “một mình” cố “hái măng”. Đó là hình ảnh những người lao động khổ cực, âm thầm đóng góp cho công cuộc kháng chiến của đất nước.

    Cuối bộ tranh tứ bình của Việt Nam là bức tranh về mùa thu – mùa thu thanh bình:

    Trăng thu soi tỏ bình yên nhớ ai khúc tình ca

    Khi ánh trăng soi rọi núi rừng, bức tranh thiên nhiên hiện lên một cảm giác yên tĩnh và thơ mộng. “Trăng bình yên” là hình ảnh gợi một ngày mai tươi sáng hơn. Có thể nói đây là hình tượng thơ được tạo nên bởi sự hòa quyện giữa cảm hứng thiên nhiên và cảm hứng lịch sử. Để rồi, trong không khí ấy, những con người hiện lên không phải bằng khuôn mặt, hình dáng mà bằng tiếng hát, mang vẻ đẹp tâm hồn của dân tộc Việt Nam từ ngàn đời nay: nhân hậu, thủy chung, lạc quan và luôn tin tưởng vào một ngày mai tốt đẹp hơn.

    Tóm lại, bức tranh tứ bình trong thơ Việt Bắc hiện lên rất đẹp và sinh động, bởi nó có sự gắn bó, hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Đồng thời, qua đó ta thấy được tài năng của tác giả trong việc sử dụng ngôn ngữ, lựa chọn hình ảnh và tình yêu, lòng trung thành đối với Tổ quốc cách mạng Việt Nam.

    Phân tích bức tranh tứ bình – Ví dụ 14

    Thơ như khúc hát cảm xúc dâng lên từ sâu thẳm trái tim người nghệ sĩ, bất tử hóa những điều tốt đẹp nhất trên đời. Thơ là sự bộc lộ tình cảm, là ước mơ cao cả mà con người mãi mãi theo đuổi, là nghệ thuật bên trong của tâm hồn, là sự vỡ òa của cảm xúc tức thời, là sự vỡ òa của cảm xúc. cảm giác mạnh mẽ.

    Ta đến với thơ có khi vì yêu cách thể hiện của người nghệ sĩ, và cũng có khi ta đồng cảm với những phút lắng sâu của họ trong từng lời, từng chữ, từng chữ và chính mình. Sự khéo léo, giọng hát tài hoa và cả sự sáng tạo bậc thầy. Trong số những nhà thơ từng được yêu mến, anh là một nhà thơ như vậy.

    Đầu Bạn được mệnh danh là ngọn cờ đầu trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Hồn thơ là sự kết hợp hài hòa giữa đời sống cách mạng và đời sống thơ ca. Thơ ông có chất trữ tình chính trị sâu sắc và tính dân tộc mạnh mẽ, thể hiện những nguyên tắc lớn, tình cảm lớn và niềm vui sống lớn. Như vậy, đọc thơ của tác giả, ta thấy được những mốc son lịch sử quan trọng của đất nước. Khi nói về những tác phẩm thơ này, có người ví chúng như một thước phim quay chậm về lịch sử vẻ vang của dân tộc.

    “Việt Bắc” ra đời năm 1954, khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc thắng lợi. Đây là lúc các cơ quan trung ương đảng và chính quyền Việt Bắc về Hà Nội. Người bạn này đã diễn lại cảnh chia tay của những người cán bộ Việt Nam và những người dân Việt Nam đã cùng nhau vượt qua bao khó khăn trong một thời gian dài.

    Trong bài thơ, tác giả sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, kết hợp với thể song ca như ca dao để tái hiện cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Nam.

    Nhưng trong nỗi nhớ về Việt Bắc, có lẽ điều đẹp đẽ nhất là sự hòa quyện mật thiết giữa con người và cảnh vật, là ấn tượng khó phai mờ về sự cần cù, thủy chung của con người Việt Bắc suốt đời. Tứ giác:

    Ngoảnh lại nhớ hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ, Cao Quan, nắng, ánh dao thắt lưng, ngày xuân mộng nở, rừng nở trắng, nhớ người đan nón, làm thành mỗi ngày một chủ đề. Măng non, rừng thu, trăng soi hòa bình, nhớ ai câu hò ân tình

    Thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Du Hữu và là thành tựu xuất sắc của thơ chống Pháp. Bài thơ ra đời vào dịp diễn ra sự kiện lịch sử tháng 10 năm 1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi về miền xuôi. Lấy đây làm điểm khởi đầu, cả bài thơ ngược dòng về quá khứ, nhớ lại những năm tháng cách mạng hào hùng, những năm tháng kháng chiến gian khổ, thể hiện nỗi nhớ quê hương Việt Nam, Bác Hồ, Tổ quốc. Nhân dân – mọi thứ là nguồn sức mạnh tinh thần quan trọng để dân tộc ta kiên định tiến lên trên con đường cách mạng. Nội dung này được thể hiện dưới dạng in đậm. Bài thơ này rất tiêu biểu cho thể thơ lục bát.

    Về thơ, Chenier từng nói: Nghệ thuật chỉ là thơ, còn trái tim là nhà thơ. Giá trị của một bài thơ nằm ở chỗ nó bao quát, thể hiện được tư tưởng, tình cảm của người nghệ sĩ, lời thơ chân thành, sâu sắc, xuất phát từ sâu thẳm trái tim. Nằm trong quy luật đó, sang đầu thế kỷ XX, các nhà thơ mới đương đại đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến thơ lãng mạn phương Tây, Rimbaud, Verlaine… Rồi yếu tố này lặng lẽ trở lại với thơ lục bát của người ta. Chính điều đó đã tạo nên một yếu tố thơ độc lập, độc đáo, chính luận, rất trữ tình.

    Dòng suy tưởng xuyên suốt bài thơ “Việt Bắc” chan chứa tình cảm sâu nặng của bạn bè đối với bộ đội và dân công tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Người đọc sẽ được tiếp xúc với hình ảnh những mối liên hệ gần gũi, những cuộc sống bình dị, những con người Việt Nam chân chất qua lời văn thơ. Phải dịu dàng, phải là người “có duyên” thì cô bạn này mới thổi hồn vào từng câu đối đáp bằng những vần thơ trôi chảy như vậy. Có thể nói, điểm nhấn của cả bài thơ là tiếng hát du dương mềm mại của Du Du cất lên từ bức tranh tứ tuyệt đẹp của núi rừng Việt Nam. Người đọc sẽ được đắm mình trong không gian thơ mộng hữu tình, đẹp như tranh vẽ của núi rừng.

    Hai câu đầu nêu lên cảm xúc chủ đạo của cả bài thơ. Đó là cảm giác nhớ Việt Nam :

    Tôi nhớ bạn về tôi, tôi nhớ hoa của bạn

    Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ sâu lắng, thấm đẫm tâm hồn và cảnh vật – “ta có nhớ ta không”. Đây là một câu hỏi ngọt ngào với một chút tình yêu. Là câu hỏi nhưng là câu hỏi bày tỏ tình cảm, câu hỏi để rồi trăn trở trong phút chia xa. Vẫn là cách nói “me-ta” ngọt ngào gợi nhiều cảm xúc. “Tôi” chỉ người đi, còn “tôi” chỉ người ở lại. “Ta-ta” cũng gợi nhiều lời thiết tha của những câu hát tình yêu đôi lứa: “Ta về, ta không đánh lại – Ta làm thơ với áo mặc” hay “Ta về ta, ta có nhớ ta không” – ta ‘m bên em, em nhớ quai hàm. “Nụ cười răng của tôi”.

    Đặc điểm của phần tử

    là viết về sự kiện lịch sử, chính trị nhưng không hề nhàm chán, cứng nhắc. Điều này được hỗ trợ bởi sự vận dụng sáng tạo của nhà thơ đối với hai đại từ nhân xưng “tôi-ta” và việc vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ lục bát trong đối đáp trữ tình của mình. Câu chuyện về cuộc chia tay của người và cách mạng được lãng mạn hóa như là cuộc chia tay của “tôi” và “mình” tạm thời xa nhau vì nghĩa vụ cách mạng. Nhờ đó, lời bài hát trở nên đậm đà hương vị trữ tình, câu chuyện dễ dàng đi vào lòng người, khiến người ta lưu luyến, lay động lòng người.

    Câu thứ hai như một lời khẳng định: “Ra về nhớ hoa nhớ em”. Hai câu thơ đầy vần “ta”, “ta”, “mình nhớ”, “ta nhớ” kết hợp liên âm “ta” và “a” (âm mở) khiến cho nỗi nhớ như được ngân vang, hùng tráng, sâu lắng hơn. Người về mang theo nỗi nhớ “Hoa và Em”. “Hoa” là hình ảnh ẩn dụ chỉ vẻ đẹp thiên nhiên Việt Nam.

    “Hoa” còn là ẩn dụ cho tình cảm của chúng ta: trong tâm hồn người đã khuất, những kỷ niệm còn lại là những kỷ niệm rất đẹp. Và “người” là vẻ đẹp của những người làm việc ở đây. Chữ “cùng” trong “Nhớ Hoa Người Cùng” thật sáng tạo. Nó gợi lên một cảm giác hoài niệm sâu sắc. Hoa và người cùng một lúc của nỗi nhớ. Nhỡ hoa thì bóng người in hoa, lỡ người thì bóng hoa soi mặt. Có lẽ vì thế mà trong bốn cặp lục bát tiếp theo, câu lục nói đến hoa, còn câu lục nói đến người. Hoa và hình được đan xen vào nhau để tạo thành bốn chiếc bình tinh xảo.

    Thơ như khúc hát cảm xúc dâng lên từ sâu thẳm trái tim người nghệ sĩ, bất tử hóa những điều tốt đẹp nhất trên đời. Thơ là biểu hiện của tình cảm, là ước mơ cao cả mà con người luôn muốn chạm tới, là nghệ thuật bên trong của tâm hồn, là sự bùng nổ của cảm xúc hiện tại, là sự bùng nổ của cảm xúc, là tình cảm sâu nặng. Đôi khi ta tìm đến một bài thơ vì thích cách thể hiện của một nghệ sĩ, và đôi khi ta đồng cảm với họ trong những khoảnh khắc lắng sâu trong từng câu chữ. Vì “thơ cắm rễ trong lòng, hoa nở trong lời nói” nên “Việt Bắc” của Dư Hữu là bản anh hùng ca đẹp đẽ về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vĩ đại của dân tộc.

    Bài thơ này như một câu ca dao, ăn sâu vào lòng người với tiếng nói ân tình thủy chung, khắc họa sâu sắc nỗi nhớ da diết trong lòng những người con lên “Thủ đô kháng Nhật cứu nước”. Tâm trạng người miên man, bóng dáng núi rừng, ký ức của người Việt Bắc còn nguyên vẹn, và có nhiều bức tranh giản dị mà xúc động. Cho đến hôm nay, những vần thơ ấy vẫn làm rung động lòng người bởi hơi thở trong lành của núi rừng chiến khu, của những âm thanh ấm áp, lan tỏa của tình yêu bao la nơi trần thế.

    Mở đầu bức tranh tứ bình là một bức tranh mùa đông sống động. Vẻ đẹp của núi rừng Việt Nam hòa quyện với vẻ đẹp lao động, sản xuất của con người Việt Nam. Trong bài thơ, mỗi câu tả cảnh là một câu tả người, thiên nhiên và con người như hoà làm một, sáng ngời bức tranh thơ. Màu sắc hài hòa đẹp nhất vào 4 mùa xuân, hạ, thu, đông. Mỗi hình ảnh bao gồm hai mảng: một xa và một gần. Bức tranh nào cũng có sự gắn bó của thiên nhiên và con người, là sự lưu luyến của nhà thơ trong nỗi nhớ hoa và người:

    Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, Qualcomm trong nắng, thắt lưng

    Nhắc đến mùa đông, chúng ta thường nghĩ đến cái lạnh thấu xương, sự u ám của một ngày mưa phùn và nỗi buồn của một tiết trời u uất. Núi rừng Bắc Bộ được bao phủ trong màu xanh êm đềm tĩnh lặng của rừng già – xanh chặt chẽ mà rực rỡ. Điểm nhấn của bức tranh núi rừng nơi đây được điểm xuyết trên nền rừng xanh bạt ngàn là màu hoa chuối đỏ tươi khoe sắc dưới nắng. Nhìn từ xa, loài hoa này như một ngọn đuốc sáng rực, đường nét và màu sắc bổ sung cho nhau, tạo thành một bức tranh vừa đối lập vừa hài hòa, cổ điển và hiện đại. Màu “đỏ tươi” – màu đỏ rực của hoa chuối bừng lên từ màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Nam bừng sáng, ấm áp, như chứa đựng sức sống bừng lên, xua tan đi vẻ hoang vu. Núi.

    Đoạn thơ này làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Thi:

    <3

    Từ sự liên tưởng này, ta thấy mùa đông trong bài thơ cũng toát lên cái ấm áp của mùa hè hơn là cái lạnh hoang vu bởi những bông hoa chuối đỏ au cũng ló ra từ đồi xanh.

    Bên cạnh vẻ đẹp của hoa còn là vẻ đẹp của sức khỏe con người. “Giắt dao, mặt trời chói chang” là hình ảnh của người dân phố núi. Hoán dụ không phải ngẫu nhiên mà là sự lựa chọn con dao rừng, vật bất ly thân của người dân miền núi và là nét đặc trưng của cuộc sống Bắc Bộ. Con người nổi bật giữa không gian cao và hẹp, càng nổi bật dưới ánh nắng, vẻ hùng vĩ của núi rừng trở thành điểm sáng trong khung cảnh mùa đông. Hình ảnh “con dao thắt lưng” là vẻ đẹp của một người đứng trên đỉnh cổng, với ánh nắng chói chang chiếu vào lưỡi kiếm. Đây là vẻ đẹp của những con người Việt Nam vững vàng, tự tin, làm chủ núi rừng – đang lao động cần cù để sản xuất ra nhiều lúa gạo phục vụ cho công cuộc kháng chiến.

    Trước thiên nhiên rộng lớn, con người dường như càng trở nên tráng lệ. Nhà thơ không miêu tả khuôn mặt ở đây, nhưng ghi lại biểu hiện rực rỡ nhất của tình yêu. Đó là nắng chiếu vào phiến rừng ngang hông anh. Ở đây, câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ, vừa mang ngôn ngữ nhiếp ảnh. Con người là tâm điểm của ánh sáng. Người đó cũng xuất hiện với tư thế đẹp nhất – “Qualcomm”. Nhân dân đang chiếm đỉnh, chiếm rừng núi, tự do “núi rừng là của ta/Trời xanh đây là của ta”. Đó là một thế thống trị kiêu hãnh và vững vàng: giữa núi rừng và nắng trời, giữa đất trời bao la và rừng xanh bất tận. Người đó đã trở thành linh hồn của Bắc Kinh Đông Hoa.

    Có thể nói thế này: Đối với các bạn hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Đây là nét độc đáo của các yếu tố trong thơ Đặng Tài Mai, đồng thời cũng là bí quyết tạo nên nét độc đáo đó. Như vậy, thơ chính luận được nâng lên một tầm rất trữ tình, song song với những biến cố, sự kiện trọng đại của đất nước. Sự kết hợp sáng tạo ấy thật dịu dàng, sâu lắng, tinh tế, thấm thía bằng ý chí, bằng tình yêu, bằng cảm xúc của một tình bạn 15 năm.

    Đối với người nghệ sĩ, thơ sinh ra từ yêu ghét, từ nụ cười trong sáng hay giọt nước mắt đắng cay. Thơ là một công cụ để chơi các cảm xúc khác nhau của con người, và nó là biểu hiện của những cảm xúc gần gũi nhất và thuần khiết nhất. Như bạn tôi đã nói: Một bài thơ hay là làm cho người ta không còn nhìn thấy câu thơ mà chỉ cảm nhận được tình cảm con người, quên đi tiếng nói của ai, chỉ cảm nhận đó là tiếng hát. Từ trái tim, như thể của chính mình.Thơ là kết tinh của tình nhân và tài thơ. Tình yêu là trái tim ban đầu, và chỉ khi đó nó mới có thể được tóm tắt trong một từ. Để chạm đến trái tim người đọc, mỗi tác phẩm không chỉ mang tâm tư, tình cảm và tình yêu của tác giả.

    Người đọc chưa hết ngỡ ngàng trước khung cảnh mùa đông đặc trưng của núi rừng Việt Nam, mà được đắm chìm trong bức tranh cuộn tràn đầy sắc xuân, ánh lên vẻ hoang sơ và sức sống mãnh liệt của thiên nhiên mùa xuân Việt Nam.

    p>

    Mùa xuân hoa nở trắng rừng, nhớ người đội nón đan, se sợi

    Khi các mùa thay đổi, màu sắc trong bức tranh cũng thay đổi. Mùa đông qua đi và mùa xuân lại đến. Nhắc đến mùa xuân, chúng ta nghĩ ngay đến cỏ cây, hoa lá và trăm loài bừng dậy sức sống mới sau một mùa đông dài. Mùa xuân ở miền Bắc Việt Nam cũng vậy. Hoa mai khắp núi dịu dàng, trong veo, trắng xóa bao phủ cảnh xuân: “Ngày xuân, Baimenghualin”. “Rừng trắng” được viết ngược, và “trắng” được dùng như một động từ để nhấn mạnh màu sắc, màu trắng như làm lu mờ tất cả màu xanh của lá, soi sáng cả thế gian. Một màu trắng mơ màng, ủ rũ và mát mẻ của hoa hạnh nhân. Động từ “nở” làm lan tỏa sức sống của mùa xuân và căng tràn sức sống.

    Đây không phải là lần đầu tiên tác giả viết về màu trắng đó, năm 1941, miền Bắc Việt Nam cũng đón Bác bằng màu hoa mai:

    Ôi sáng xuân nay, mùa xuân thứ 41 trắng xóa, rừng biên giới hoa nở, giấc mơ im lìm, tiếng chim hót vui ngẩn ngơ.

    (“Theo toi”)

    mường thanh, cúm hồng, giấc mơ lamhoa lại trắng, vườn cam chuyển sang màu vàng

    (“Chúc mừng chiến sĩ Điện Biên”)

    Không gian mùa xuân rực rỡ trong màu hoa hạnh nhân. Sức sống của mùa xuân tràn ngập khắp núi rừng Việt Nam. Giữa nền trắng, bông hoa mận đặc biệt bắt mắt, “người thợ dệt nón”. Nỗi nhớ ở đây cụ thể đến từng chi tiết “chải từng sợi vải”. Theo tôi, có bao nhiêu sợi nhớ Giang cũng có. Nỗi nhớ triền miên, đan xen suốt năm tháng. Trong đoạn tả cảnh không có âm vang của núi rừng mà là vẻ đẹp của mùa xuân căng tràn sức sống do hoạt động của con người.

    Trong nốt nhạc vang vọng trong trẻo, tràn đầy sức sống ấy, mùa xuân như tươi tắn hơn bởi sự hiện diện của một bóng hình đơn lẻ đang “vắt từng sợi tơ”. Vẻ đẹp tự nhiên trong công việc hàng ngày. Từ “sáng” và hình ảnh thơ chỉ bàn tay của người dân lao động: cần cù, tỉ mỉ, thông minh, tài hoa, nhanh nhẹn, cẩn thận, đó cũng là đức tính cần cù của người dân Việt Bắc. Dường như họ đang dệt nên biết bao yêu thương, chờ đợi, chờ đợi bằng những sợi tơ, sợi thương nhớ, đan những chiếc nón tri ân những cán bộ, đồng bào nơi tuyến đầu.

    Hai câu thơ xuân gợi vẻ đẹp kiều diễm trong nỗi nhớ dịu dàng, nhắc nhở người cán bộ xuôi ngược. Ai đó đã từng nói “làm thơ hay phải có tài văn chương”. Sống dưới chế độ bao cấp đã lâu, cơm không đủ ăn, có khi phải ăn bobo, nên nhiều người khi đọc tiếng Việt Bắc đã không cảm nhận được cái “dư vị” của nó.

    Ngày xưa, Beethoven đã viết bài hát này bằng những cảm xúc tinh tế và mạnh mẽ nhất khi nhìn thấy cảnh đời của người con gái mù và người con trai của mình. Và người bạn này đã từng khẳng định: “Thơ là sự hòa hợp, là tiếng nói thống nhất, là tiếng nói thống nhất, là tiếng nói của đồng đội trong vòng tay”. Hoài niệm về cuộc kháng chiến 15 năm, tình keo sơn, tình máu thịt đã hòa vào trong những áng văn, vần thơ đầy nước mắt của Việt Nam?

    Sau khung cảnh thiên nhiên và nét đẹp văn hóa Việt Nam vào mùa xuân, là bức tranh mùa hè vàng óng ở miền Bắc Việt Nam, hệt như một bức tranh sơn mài với những đường nét hiện đại:

    Nghe nói núi rừng đổ vàng, tưởng em hái măng một mình

    Câu đầu tiên là một bức tranh thiên nhiên mùa hè tươi đẹp, với hai ấn tượng: tiếng ve kêu và nhịp đập vàng. Tiếng ve đặc trưng cho mùa hè, tiếng ve vàng đặc trưng cho mùa hè miền Bắc Việt Nam. Từ “xuống” được sử dụng vừa phải. Nó cho thấy hai hoạt động cùng một lúc. Vai trò của âm thanh và vai trò của màu sắc. Dường như khi tiếng ve kêu, cả khu rừng hổ phách đồng loạt chuyển sang màu vàng.

    Nơi tiếng tích tắc vang lên bông hồng vàng. Ý thơ gợi nhớ đến một câu thơ của Hữu Khương: “Tiếng chim hót sáng cả rừng”. Đó là nghệ thuật dùng âm thanh để gợi màu sắc, không gian để diễn tả thời gian. Như vậy, cảnh là thật, nhưng lại vô cùng hư ảo. Loại hình nghệ thuật vừa gợi sự chuyển màu nhanh chóng, vừa khắc họa tinh tế, chính xác khoảnh khắc mùa hè. Vì vậy, bức tranh mùa hè hiện lên trong lành, thơ mộng và dịu mát chứ không chói chang như trong thơ cổ. Động từ “đổ” được sử dụng rất khéo léo và chính xác để diễn tả sự thay đổi nhanh chóng của màu sắc.

    Ví dụ từ “đổ” trong bài thơ của Hoàng đế Xuân: “tưới lá ngọc trời”.

    Trong mảnh thiên nhiên phồn hoa vàng ngọc ấy, có hình ảnh một cô gái áo xanh đang cần mẫn hái măng: “Chị Yi hái măng một mình”. Từ “một người” có thể khơi dậy sự cộng hưởng của mọi người. Nó vừa gợi lên hình ảnh con người cần cù, cần cù, chịu thương chịu khó, người ta không khỏi liên tưởng đến câu ca dao: “Lầu tre mọc trên mái nhà em cũng đẹp, em đứng một mình cũng đẹp”. Đoạn thơ chứa đựng nỗi nhớ nhung, ngưỡng mộ và kính trọng của nhà thơ đối với người em gái thân yêu của mình.

    Câu chuyện cách mạng, chính trị bằng thể thơ, lối đối đáp “tôi-ta” trở nên trữ tình ngọt ngào, thật là một thắng lợi của yếu tố nghệ thuật. Như Huyền Diệu đã khẳng định: Đỗ Hồ đã đưa thơ chính luận lên một tầm cao rất trữ tình, nên Đỗ Hồ xứng đáng được gọi là Nhà thơ của nhân dân, là “đầu tàu của thơ ca cách mạng”. Việt Nam.

    Người thợ làm bánh bằng tình yêu với bánh quê, người họa sĩ vẽ nên bức tranh mùa thu bằng niềm đam mê với thiên nhiên thôn quê. Trước khi ra đi, nhà thơ Du Hú đã viết bài thơ “Việt Nam” bằng chính nhịp tim của mình, trước những năm tháng gian khổ mà hào hùng của đồng bào Việt Bắc. Đây là cốt lõi sức mạnh của thơ ca trong thời đại nói với lòng mình, với chính mình.

    Cuối chùm tranh Tứ Phương Việt Nam này là bức tranh mùa thu, kèm theo bài hát tiễn biệt bạn để lại dư âm phản kháng:

    Rừng thu, dưới ánh trăng thanh bình, ai còn nhớ khúc tình ca

    Vào mùa thu, núi rừng chiến khu như được tắm mình trong ánh trăng lung linh mát rượi. Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, ánh trăng của hòa bình soi sáng niềm vui của rừng núi, làng quê Việt Nam. Hồi ở chiến khu mới biết trăng thu trong thơ anh:

    Yue Ruichuang nói rằng quân đội đang bận, xin hãy đợi ngày hôm sau, chuông đột nhiên vang lên, và tin tức về trận chiến thắng lợi đã đến.

    Không gian chìm vào màn đêm như hoàn thành vẻ đẹp của núi rừng Việt Nam. Vào một đêm mùa thu, ánh trăng dịu nhẹ như lan tỏa trong màu xanh của núi rừng. Vẻ đẹp của rừng trăng gợi ảo diệu, cảnh sắc gợi hồn thơ. Nỗi nhớ nhà như ánh trăng hóa thành khúc “khúc tình thủy chung”.

    Ở đây không có tiếng chuông chiến thắng, nhưng tiếng hát vang lên. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào các dân tộc thiểu số, là tiếng hát gợi lên tình yêu thủy chung son sắt. Đây cũng là khúc ca gắn bó say đắm trong núi rừng Bắc Nguyệt mười lăm năm. Đúng! Bức tranh mùa thu Việt Nam hoàn thiện bức tranh núi rừng tươi đẹp và kết thúc bài thơ bằng bài “Lòng chung tình” khơi gợi tình yêu quê hương đất nước. nước.

    Những bài thơ trên của Du Bạn vừa cổ kính vừa hiện đại, làm nổi bật cảnh vật, nhân vật bốn mùa ở Chiến khu Việt Nam. Cảnh vật và con người bổ sung cho nhau, bổ sung cho nhau làm cho bức tranh thêm thân quen, sinh động và tràn đầy cảm xúc. Tất cả đã biến thành nỗi nhớ da diết, gắn bó cháy bỏng của người cán bộ trở về. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận xét những câu thơ của Việt Bắc có thể sánh ngang với bất kỳ câu thơ miêu tả thiên nhiên nào trong thơ cổ điển.

    Bài thơ này tiêu biểu cho phong cách trữ tình chính trị của Touzu. Chuyện chính sự, chuyện chia tay lịch sử giữa quân dân với cách mạng được lãng mạn hóa, như cuộc chia tay của “anh” và “ta”, anh em, vợ chồng… Việt Bắc là một bài thơ mang đậm tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ . Bài thơ được viết theo thể thơ lục bát, giọng điệu tình cảm, ngọt ngào, dễ thuộc, dễ hát, thấm đượm về chủ đề, nội dung, hình thức nghệ thuật, đặc biệt là tình cảm sâu nặng của nhân vật trữ tình. suy nghĩ, cảm xúc.

    “Việt Bắc” là bản tình ca gửi gắm đến những người cách mạng và đồng bào cả nước qua giọng hát của tác giả. Có điểm chung trong sự đặc biệt, và sự đặc biệt đại diện cho điểm chung. Những tình cảm, kỷ niệm đã trở thành tình cảm, lòng biết ơn đối với đất nước, nhân dân và cách mạng. Tác giả khẳng định lòng biết ơn và lòng thủy chung của các cán bộ kháng Nhật đối với Tổ quốc và nhân dân Việt Nam qua dòng hồi tưởng về Chiến khu Việt Nam.

    Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến cái nôi của cách mạng, nhắc đến đồng bằng miền Trung nghèo khó, nặng nhọc, nơi ghi dấu biết bao kỷ niệm của thời kỳ cách mạng gian khổ mà hào hùng. Xa nhau làm sao không xao xuyến. Như nhà thơ trữ tình đã từng viết: “Khi ta ở trên đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất trở thành tâm hồn”. Đúng! Việt Bắc biến tâm hồn đằm thắm trong thơ, lời ca như khúc nhạc ngân nga, cảnh người đầy kỉ niệm không bao giờ quên.

    Dòng nước của năm tháng vẫn vận hành không biết mệt mỏi, đã chia cắt bao nhiêu thế hệ, bao nhiêu thế kỷ thăng trầm, công việc của nó là âm thầm phủi bụi xóa sạch mọi thứ, trừ thi ca, văn chương, nghệ thuật. sống mãi mãi có Thi thiên vĩnh cửu và vĩnh cửu bên trong.

    Phân tích bức tranh tứ bình – Ví dụ 15

    Nhắc đến những nhà văn, nhà thơ cách mạng trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến, không thể không nhắc đến người bạn này, một người hát đầy khí thế chiến đấu, giàu lý tưởng và có phong cách chính luận, trữ tình. . Tuy nhiên, trong những bài thơ ấy vẫn có chất trữ tình, chất thơ, hình ảnh mượt mà, trong sáng. Sơ đồ tứ bình trong bài thơ Việt Bắc là một ví dụ điển hình:

    “Anh về nhớ Tata, nhớ hoa và người, rừng xanh chuối đỏ, đèo cao nắng thắt lưng, ngày xuân mơ nở, rừng nở trắng, nhớ dệt người dệt sợi chỉ với nón. Cô gái Qiulin hái măng một mình, trăng soi bình yên, nhớ ai khúc hát chung tình”

    Bài thơ này là một cuộn tranh về đất nước Việt Nam bốn mùa, chất chứa nỗi nhớ da diết và lòng thủy chung của tác giả và của đa số cán bộ đối với đất nước Việt Nam:

    “Em về, anh nhớ em, nhớ hoa cùng em”

    Câu thứ hai là câu hỏi và câu chuyện của người đã khuất, tôi muốn biết tấm lòng của người đó được gìn giữ như thế nào và bày tỏ tấm lòng của mình. Câu “Em về” mở đầu hai câu thơ như thể hiện tâm trạng của kẻ ra đi. Vẻ đẹp của bài thơ nằm ở hình ảnh “hoa và người”, con người cũng là một bông hoa trong vườn Việt Nam. Bức tranh tạo nên vẻ đẹp hài hòa, trong đó thiên nhiên và con người, hoa lá và con người được hòa nhập và bổ sung cho nhau. Bên cạnh những hình ảnh hoa lá, con người là bản đồ bốn mùa Việt Nam được vẽ chân thực với màu sắc rực rỡ và âm thanh rộn ràng:

    “Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, trên cao, nắng chói chang, thắt lưng”

    Vào đầu đông, núi rừng trải dài ngút tầm mắt. Tác giả miêu tả mùa đông trước có lẽ vì khi những người cách mạng đến đây cũng là mùa đông của đất nước này, đồng thời mười lăm năm sau những người cách mạng cũng vĩnh biệt cái nôi của cách mạng Việt Bắc – Việt Bắc. . .

    Tương phản với màu xanh mướt của rừng sâu, những bông hoa mã đề đỏ tươi đặc biệt bắt mắt, khiến núi rừng không còn hoang lạnh lạnh lẽo mà trở nên ấm áp. Hoa mã đề ẩn mình trong sương, như ngọn đuốc hồng soi đường ta từng gặp trong bài thơ “Hoa về đêm”. Sắc “đỏ tươi” của hoa chuối như xóa đi nỗi cô đơn của mùa đông lạnh giá nơi núi rừng, như chứa đựng, ẩn chứa sức sống của vạn vật trên đời. Sự tương phản về màu sắc và sự hài hòa về cách thể hiện khiến mùa đông ở đây có phần giống mùa hè ấm áp trong thơ Nguyễn:

    “Thạch lựu vẫn phun đỏ hồng, tỏa hương thơm”

    Trong thiên nhiên, vẻ đẹp của con người Tây Bắc là duy nhất:

    “Dao thắt lưng Qualcomm”

    Người Việt đi rừng luôn đeo dao ở thắt lưng để phát quang chướng ngại vật, ngăn chặn thú rừng xâm phạm. Tác giả không miêu tả khuôn mặt hay biểu cảm ở đây, nhưng ánh sáng phản chiếu bởi lưỡi kiếm ở thắt lưng. Ánh mặt trời chiếu xuống làm con dao tỏa sáng, tạo ấn tượng khó quên, như thể con người là một tập hợp ánh sáng, vừa lấp lánh vừa chói lóa. Con người ở giữa “Gào quan, nắng vàng”, giữa núi rừng Tây Bắc, vượt lên không gian bằng hình ảnh kỳ vĩ, nắm bắt thiên nhiên bằng hình ảnh kỳ vĩ, nắm bắt đất nước bằng hình ảnh kỳ vĩ, vĩ đại.

    Mùa đông qua, mùa xuân qua. Việt Nam xuân về rồi, hoa mai trắng nở cả rừng:

    “Ngày xuân núi nở hoa trắng, Chợt nhớ người đan nón chuốt sợi”

    Nhắc đến mùa xuân là người ta nhắc đến khí hậu mát mẻ, hoa cỏ tràn đầy sức sống, đâm chồi nảy lộc, xanh non mơn mởn. Mùa xuân ở Việt Nam có một cảnh tượng rất độc đáo được ông cha ta nhìn thấy: “giấc mơ trắng rừng”. Nghệ thuật đảo ngược “Rừng trắng” sử dụng từ “trắng” như một động từ hơn là một tính từ để chỉ màu sắc. Thêm vào đó, động từ “nở” như một tấm màn xòe trắng bao phủ cả màu xanh của lá trong rừng, tạo nên một không gian trong lành, mát rượi của hoa mai, làm cho bức tranh thêm trong sáng, tinh tế và đằm thắm.

    Trong nền trắng của hoa mai, nổi bật lên một người lao động hiền lành, chăm chỉ: “Chải từng dòng sông”. Con người đẹp một cách tự nhiên trong công việc hàng ngày. Sự kết hợp giữa động từ “cắt” và trợ từ “ge” cho thấy người thợ khéo léo, tỉ mỉ và tài hoa. Đây cũng là phẩm chất tốt đẹp của dân tộc Việt Nam anh hùng, khí phách.

    Mùa hè đến rồi, tiếng ve kêu khắp núi rừng:

    “Lời gọi rừng xuống vàng nhớ cô em hái măng một mình”

    Tiếng ve kêu, lá vàng. Dường như chỉ cần một tiếng ve kêu cũng khiến tiết trời chuyển từ xuân sang hè một cách đột ngột. Câu thơ tương đồng với ý thơ của Khương “chim hót vang rừng”. Chỉ một câu thơ thôi mà gợi lên sự chuyển động của thời gian và cuộc sống. Trên nền vàng của rừng hổ phách ấy hiện ra một bóng dáng yêu kiều khiến bức tranh càng thêm thơ mộng. Đó là hình ảnh: “Chị tôi hái măng một mình”, hái măng một mình nhưng không đơn độc mà toát lên vẻ đẹp của người phụ nữ chịu thương, chịu khó. Bài thơ thể hiện sự đồng cảm, biết ơn với đồng bào miền Bắc mà ai đã đi rồi sẽ không bao giờ quên tình cảm chân thành ấy.

    Vào thời điểm này, mùa thu ở Việt Nam cùng với vầng trăng thu tuyệt vời khiến cho khung cảnh núi rừng Việt Nam mơ màng, tĩnh lặng và đầy bình yên. Từ đêm trăng thu huyền diệu ấy, những bản tình ca thủy chung của người Việt lại được cất lên, làm ấm lòng người:

    “Trăng soi rừng thu, trăng soi bình yên nhớ ai khúc tình ca da diết”

    Ở đây không có tin chiến thắng, nhưng có những bản tình ca của người Việt Bắc, của núi rừng Tây Bắc gắn bó mười lăm năm. Bài Tình ca kết thúc bài tứ tuyệt về thiên nhiên và con người, nhắc nhở kẻ đi, kẻ ở và cả người đọc đương thời đều xúc động sâu sắc về lòng yêu nước.

    Nếu câu thơ nói về cảnh thì câu thơ nói về người. Cái hay của bài thơ này là sự hòa hợp giữa con người Việt Nam với thiên nhiên. Khung cảnh Việt Bắc đẹp, thơ mộng, trữ tình và tràn đầy sức sống làm nền, nổi bật hình ảnh con người Việt Nam đáng yêu, cần cù, nghĩa tình, trung hậu, thủy chung.

    Pingyue North Four Figures là một bản phác thảo đơn giản và bình dị, pha trộn giữa cổ xưa và hiện đại, con người và thiên nhiên, tạo nên một bức tranh hài hòa giữa thiên nhiên và cuộc sống. Đoạn thơ này là một nét đặc sắc trong phong cách trữ tình chính trị của Tố Hữu, nhắc đến Việt Nam là người ta nghĩ ngay đến những tâm hồn nhân hậu, đằm thắm, thủy chung.

    Phân tích bức tranh tứ bình – Ví dụ 16

    Tử Hữu là đại biểu xuất sắc của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng là nhà thơ độc đáo trong sáng tạo. Du có giọng văn thiết tha, trữ tình, tác phẩm của ông luôn gắn liền với những giai đoạn quan trọng của lịch sử dân tộc.

    “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Du Hữu, được sáng tác sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền bắc hoàn toàn giải phóng. Các cơ quan chính phủ rời Việt Nam về Hà Nội. Tác giả đã viết bài thơ ôn lại một thời kỳ kháng chiến gian khổ mà hào hùng, đồng thời thể hiện tình cảm sâu nặng của những người kháng chiến đối với đồng bào Việt Bắc và quê hương cách mạng. Đoạn trích trong sách giáo khoa ngữ văn lớp 12 phần đầu của bài thơ Việt Bắc. Giữa những ký ức hỗn độn và hoài niệm, hình ảnh Việt Nam trong sáng tươi đẹp hiện ra trong hoài niệm của những người trở về từ Thuận Giang, như một dấu ấn tươi mới của ký ức:

    “Anh về, em có nhớ anh về không? Nhớ hoa và người rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao nắng ánh dao trên thắt lưng, ngày xuân hoa mơ nở trắng Rừng nhớ người đan nón gọi tên Lâm đạo tiến nhớ em hái măng một mình

    Câu đầu của bài thơ như một câu hỏi về nỗi nhớ da diết, vương vấn. “Anh về, em có nhớ anh không?” Câu trên là câu hỏi không cần đáp, được lấy làm cái cớ để bộc lộ tình cảm trong câu sau: “Anh về, anh nhớ bên em những bông hoa”. Nhớ hoa là nhớ cảnh đẹp thiên nhiên Việt Nam, nhưng vẻ đẹp Việt Nam không thể tách rời vẻ đẹp con người Việt Nam. Như vậy, cũng giống như một cặp đối xứng, nghĩ đến người thì hoa hiện ra, nghĩ đến hoa thì người hiện ra.

    Tám khổ thơ tiếp theo diễn tả tứ thơ bốn mùa ở Việt Nam. Trong văn thơ Việt Nam, hình tượng tứ bình xuất hiện nhiều lần, chẳng hạn như cảnh “tung hoành tứ phương” trong “Chinh phụ ngâm” (đoàn thị điểm) và “nỗi sầu” trong “Tiêu lầu đài”. “. ” (Nguyễn Du), hay hồi tưởng về quá khứ huy hoàng của Hổ trong “Tư rừng” (lu). Tuy nhiên, ở Việt Bắc, bức tranh bốn mùa hiện lên với vẻ đẹp và sắc thái tự nhiên riêng: đông xuân hạ thu.

    Bước chân vào khung cảnh mùa đông Việt Nam, mắt ta như choáng ngợp trước màu xanh bất tận của núi rừng. Đâu đó, hình ảnh hoa mã đề đung đưa như những ngọn đuốc sưởi ấm không gian, xua tan đi cái lạnh giá, hoang vu vốn có của mùa đông. Trong ánh nắng tràn ngập không gian, chúng tôi nhìn thấy ánh sáng rực rỡ của chiếc khóa thắt lưng của người công nhân. Người đứng trên đỉnh đèo cao, ánh nắng chiếu từ trên xuống trên con dao ngang lưng thấp thoáng, thể hiện tư thế oai phong, điệu đà của chúa sơn lâm.

    Bước sang xuân, sắc xanh của cỏ nhường chỗ cho sắc trắng tinh khôi, mộng mơ của hoa ngân hạnh. Cảnh tượng rừng hoa trắng trong giấc mơ khiến tôi nhớ đến vẻ đẹp của thiên nhiên khi trở về nhà:

    “Ôi mùa xuân 41 sáng nay, rừng biên giới nở hoa trắng trong mơ… Lặng yên chim sậy vui ngẩn ngơ”

    (-follow-uncle-element)

    Trên nền không gian trong lành và tinh khiết, hình ảnh người đan nón cần mẫn mài từng sợi chỉ mang đến cho người nhìn cảm giác ấm áp và giản dị.

    Xuân sang hạ. Nhắm mắt lại và lắng nghe bằng tai, chúng ta sẽ cảm nhận được “âm nhạc”. Phải chăng tác giả đang nói đến tiếng ve hót trong rừng hổ phách hay tiếng ve vàng vỗ tay trên rừng hổ phách? Đây có thể nói là bài thơ tả cảnh thiên nhiên tứ tuyệt hay nhất. Đọc đoạn thơ trở lên, ta cảm nhận được sự chuyển từ thính giác sang thị giác trước cảnh sắc thiên nhiên. Đặc biệt từ “lộn ngược” gợi liên tưởng đến sự chuyển màu nhanh chóng từ trắng sang vàng làm bừng sáng cả núi rừng Việt Nam. Tôi chợt nhớ ra rằng, Hữu Khương cũng có một bài thơ có cấu trúc tương tự: “Tiếng chim sáng rừng”. Nếu như khương dùng tiếng chim để khám phá vẻ đẹp tự nhiên của bình minh, thì dựa vào tiếng ve kêu để khám phá lớp vỏ vỡ của cả mùa hè cũng rất hữu ích.

    Khi mùa hè đến, hình ảnh của một người xuất hiện trong một hình thức hoàn toàn khác. Nếu như hai mùa trước, những hình bóng ấy chỉ hiện ra một cách gián tiếp, mơ hồ thì lần này, con người Việt Nam hiện lên rõ nét, sinh động hơn trước hình ảnh người thiếu nữ một mình cặm cụi hái măng.

    Từ “chị” được tác giả sử dụng nghe như tiếng gọi thân thương, tiếng gọi thân quen, thể hiện tình cảm chân thành, tha thiết.

    Chúng tôi chợt nhận ra rằng bất kể mùa nào, người Việt Nam cũng luôn tỏ ra chăm chỉ. Vì vậy, theo tác giả, vẻ đẹp thực sự của con người gắn liền với vẻ đẹp của lao động, gian khổ.

    Tạm biệt mùa hè rực rỡ sắc màu, mùa thu đến với cảm giác nhẹ nhàng, yên bình. Mùa thu trong như trăng, đầy núi và đồng bằng, gợi cho ta một bài thơ như thế:

    “Tiếng suối trong như trăng cổ hát bóng hoa”

    (-Night View-Thành phố Hồ Chí Minh)

    Trong thơ chú có bài ca thiên nhiên, thơ bạn em có bài ca: tiếng ca của người, tiếng ca giữa người với người. Có thể nói đây là sự đồng điệu của hai tâm hồn đồng điệu. Khúc ca ân tình vượt qua núi rừng và biển cả thời gian nhưng dấu chân người đã khuất còn đọng lại trong lòng người còn sống và vương vấn trong lòng người đọc. Đặc biệt, từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần khiến cả bài thơ chìm trong nỗi nhớ da diết.

    Bức ảnh chụp một buổi chiều quang đãng với bầu trời đêm mát mẻ và ánh trăng. Mỗi mùa đều có những nét đẹp riêng, đáng yêu và mỗi mùa là một bức tranh nên thơ. Bởi vậy, những bức tranh theo phong cách nghệ thuật tứ bình truyền thống phương Đông đã đạt đến cảnh giới hài hòa, cân bằng giữa xa và gần: gần là thiên nhiên, gần là con người, thiên nhiên và con người giao hòa với nhau. .Thiên nhiên làm nền cho con người.Con người hòa nhập tâm hồn mình vào cảnh thiên nhiên làm cho thiên nhiên thêm sinh động, tươi đẹp. Tất cả hòa quyện với nỗi nhớ cố Việt. Kết hợp với giọng điệu tình cảm ngọt ngào, ngôn ngữ trữ tình chính luận đã tạo nên thể thơ này, đặc biệt là sức hấp dẫn độc đáo của thơ. Qua đó, ta thấy được tình cảm chân thành sâu sắc của người bạn đối với thiên nhiên và con người của quê hương cách mạng Việt Bắc.

    Phân tích bức tranh tứ bình – Ví dụ 17

    “Ôi! Nỗi nhớ mãi!”. Nỗi nhớ đi xuyên thời gian và vượt không gian. Nỗi nhớ chạy sâu. Nỗi nhớ ấy cứ mãi day dứt, cháy bỏng trong tâm hồn những người chiến sĩ cách mạng xa xôi nơi miền xuôi, Việt Bắc thân yêu, nơi họ đã lớn lên trong những năm tháng gian khổ của cuộc Kháng chiến.

    Tôi về, tôi nhớ tôi, nhớ hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng nhớ người đan nón dệt từng sợi chỉ. Em tôi hái măng một mình rừng thu thanh bình dưới ánh trăng

    Cùng một bài thơ ngắn, từ “nhớ” được lặp lại năm lần. Nỗi nhớ nhà xuyên suốt từ câu đầu đến câu cuối. Hai dòng đầu là từ gợi hình, “nhắc nhở”: Em có nhớ anh không? Riêng tôi, tôi vẫn nhớ! Cách xưng hô gợi sự thân mật, tình cảm bền chặt. Bạn và tôi không phải là một, và một không phải là hai. Người ra đi nhớ gì? Người Việt Bắc nhớ gì, thương gì? Câu thơ đã rõ chưa?

    “Em về nhớ hoa cùng anh”

    Núi rừng, phong cảnh Việt Nam được ví như “hoa lá”. Nó tươi mới, rực rỡ và “thơm”. Trong cuộn tranh của thiên nhiên, hình ảnh con người hiện lên, giản dị, chân chất, giản dị mà cao đẹp vô cùng! Con người và thiên nhiên bổ sung cho nhau, tạo thành một phong cách Việt Nam độc đáo.

    Bốn mùa đất nước du hành qua những câu thơ ngắn với những hình ảnh, chi tiết, nhân vật. Mỗi mùa có một hương vị đặc trưng riêng.

    Mùa đông, rừng cây xanh mướt những bông chuối đỏ tươi và nắng vàng rực rỡ. Khi mùa xuân đến, cả khu rừng được thắp sáng bởi màu trắng của hoa mai. Mùa hè ve kêu “Rừng hổ phách vàng”. Khi thu về, thiên nhiên được soi sáng bởi ánh trăng vàng dịu. Bài thơ tràn ngập những gam màu tươi tắn, rực rỡ: xanh, đỏ, vàng, trắng. Những màu sắc này đánh vào giác quan của người đọc. Khi tiếp xúc với những câu thơ của nhà thơ, chúng ta như đang thưởng thức những bức tranh sinh động. Trong số đó, việc sử dụng màu sắc tự nhiên, hài hòa càng làm tôn thêm vẻ đẹp của núi rừng Việt Nam.

    Thời gian trôi êm đềm theo dòng thơ. Những bước đi vững vàng khiến người ta không thể thấy được sự thay đổi của các mùa. Thiên nhiên Việt Nam cũng được miêu tả theo chiều dọc của thời gian. Buổi sáng hoa nở “Bai Lin”, buổi chiều nắng chói chang, đêm trăng sáng. Núi rừng Việt Nam như một cuộc sống luôn thay đổi từng khoảnh khắc.

    Và khi hình ảnh con người xuất hiện, khung cảnh tươi đẹp, đáng yêu ấy trở nên hài hòa, ấm áp và sống động hơn. Con người làm tổ trong tự nhiên, như bông hoa đẹp nhất, tỏa hương thơm ngào ngạt nhất. Mỗi câu thơ tả cảnh được ghép với một câu thơ tả người. Cảnh vật và con người bổ sung cho nhau. Những người này chăm chỉ, tận tâm và đam mê công việc của họ. “Đồng dao”, “Chiếc nón”, “Chị hái măng một mình” những bản tình ca vang vọng đêm khuya. Hình ảnh con người rực rỡ hơn vẻ đẹp của thiên nhiên. Chính họ thắp sáng thiên nhiên và làm cho nó lộng lẫy hơn. Chúng gợi lên nỗi nhớ nhung người đã khuất. Đọc bài thơ này ta cảm nhận được vẻ đẹp bình dị, trong sáng của trái tim người Việt Nam. Ở đó, họ đối xử với nhau bằng tình cảm ấm áp, chân chất, “trước sau như một”. Họ nuôi quân, nuôi cách mạng, nuôi cả nước để kháng chiến. Người Việt Bắc bình dị và anh hùng.

    Gợi lên hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây, những người bạn thể hiện tình cảm nồng nàn, thắm thiết và nỗi nhớ da diết. Tôi và tôi, tôi và tôi là:

    “Thương nhau thì chia củ sắn, chia bát cơm đắp chung chăn.”

    Thật ngọt ngào, thật khó khăn, thật khó khăn! Ta, làm sao quên được nhau. Tình cảm ấy đã ăn sâu vào tâm hồn của những người còn sống và cả những người đã khuất. Vì vậy, lúc chia tay, nỗi nhớ là cảm giác, nỗi niềm khắc sâu trong lòng tác giả.

    Giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng. Cả bài thơ chứa đựng sự lạc quan, vui tươi và

    Tin vào cuộc sống. Nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện lòng yêu nước yêu thiên nhiên, tha thiết với con người và thiết tha với tố. Cuối bài thơ là câu hát ngọt ngào gợi bao kỉ niệm của mỗi người. Những kỷ niệm ấy theo chân người ra đi và quấn quít trong lòng người ở lại.

    Những câu của bài thơ này mang tính khái quát hơn toàn văn. Lời thơ giản dị, trong sáng thể hiện sự bàng hoàng thực sự trước vẻ đẹp của sông núi và con người Việt Nam. Nỗi nhớ trong thơ của nhà thơ đã đi sâu vào lòng người đọc, như một khúc dân ca ngọt ngào, để lại trong lòng ta những dịu dàng sâu lắng.

    ………

    Vui lòng tải file tài liệu để xem thêm 3 bài phân tích sơ đồ tứ giác

Kiểm tra tiếng Anh trực tuyến

Bạn đã biết trình độ tiếng Anh hiện tại của mình chưa?
Bắt đầu làm bài kiểm tra

Nhận tư vấn lộ trình từ ACET

Hãy để lại thông tin, tư vấn viên của ACET sẽ liên lạc với bạn trong thời gian sớm nhất.