Trân trọng thư pháp Trung Quốc
Thư pháp hay nghệ thuật viết chữ Hán được coi là một loại hình nghệ thuật rất cao. Khi chữ Hán mới xuất hiện, chúng mang một màu sắc huyền bí. Hệ thống chữ viết sớm nhất được phát hiện cho đến nay là Bản khắc xương Oracle (Oracle Bone Inscriptions), có niên đại khoảng 1200 năm trước Công nguyên. Linh cốt Linh cốt là chữ viết tắt của quy giáp (mai rùa và yếm) và giáp (xương thú). Ngoài ra, còn có các văn tự bằng đồng, phông ngay trên đỉnh kiềng và đồ tế tự (bình tế) bằng đồng. Xương của nhà tiên tri được sử dụng để ghi chép trong bói toán, như một công cụ để giao tiếp với thế giới linh hồn và tổ tiên. Truyền thuyết kể rằng người tạo ra các ký tự Trung Quốc là thương gia Cang Jie. Theo truyền thuyết này, các thương nhân đã quan sát các hiện tượng tự nhiên và bắt chước dấu vết của động vật, thực vật, chim chóc và các vì sao để tạo ra các ký tự Trung Quốc. Chữ viết của Trung Quốc là một thành tựu văn hóa quan trọng đến nỗi người ta nói rằng khi hệ thống chữ viết được hoàn thành, các vị thần và ác quỷ khóc vào ban đêm, sấm sét nổi lên và các hạt trên trời rơi xuống.
Chữ Hán gốc là chữ tượng hình, tức là chữ tượng hình bắt chước hình dạng của các vật thể trong tự nhiên. Mặc dù các ký tự Trung Quốc sau này đã phát triển để trở nên tinh tế và có tổ chức hơn, nhưng dấu vết về mối quan hệ giữa các phông chữ và hình dạng biểu tượng của các vật thể vẫn còn sâu sắc. Mặc dù các ký tự Trung Quốc được tạo ra theo các quy tắc khác nhau (chẳng hạn như biểu thị sự vật, biết chiêm nghiệm, âm hình thanh, giả hình nón, Zhuanzhuzhuazhu), ít nhất một số yếu tố của một từ cũng là chữ tượng hình. . .
Chữ Hán cổ nhất: văn cốt, khắc trên mai rùa và xương thú
Hình thức: triện lớn, triện nhỏ, chữ la, chữ thường, hành lá, cỏ tranh (thư pháp đời Nguyễn gọi gió và mưa)
Chữ Hán chủ yếu có 5 kiểu chữ (gọi là shutishuti), chủ yếu là: Yin (bao gồm 字 và XiaozhuanXiaozhuan), bản ghi chữ viết chính thức, chữ viết bản ghi kai, chữ viết chạy bản thảo, chữ viết thảo bản thảo . Khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, một trong những sự kiện quan trọng nhất là việc ông ta cử Thừa tướng Lý Tư đi thống nhất chữ viết, tức là thống nhất chữ viết (ấn lớn) giữa các nước thành chữ thường ấnnhỏ niêm phong). Thư tín (thư) là một hình thức giao tiếp chính thức phổ biến, rất phổ biến giữa thế kỷ thứ 3 và thứ 2 trước Công nguyên. Chữ khai (chữ kai chữ viết thông thường hoặc chữ viết thông thường bản thân các chữ cái) là một phiên bản sửa đổi của chữ viết này. Ngày tận thế cũng ra đời vào thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên. Đây là dạng bảng chữ cái chính thức nhất, chuẩn nhất, dễ nhận biết nhất, dễ đọc nhất và là dạng bảng chữ cái thông dụng nhất hiện nay. Chữ viết tay (chữ cái) là một dạng rút gọn của từ mặc khải và được sử dụng trong các tài liệu thân mật (chẳng hạn như thư) và hình ảnh. Nó trưởng thành vào thế kỷ thứ hai sau Công nguyên. Mỗi chữ Hán đều có cấu trúc riêng và số nét nhất định. Khi viết nhanh, chữ khai có thể được rút ngắn một hoặc hai nét để tạo thành dạng Khải Huyền. Tương tự, từ hành tây trở thành chữ thảo onion. Tác phẩm thư pháp rất nổi tiếng lan đình tạp lục Lanting tuyển tập do vương hi chi Vương Hy Chi mở đầu. Chữ thảo (龙字) là hình thức viết nhanh nhất, tự do. Các ký tự thông thường của Trung Quốc cần viết nhiều nét bằng Qisi, nhưng các ký tự nháp có thể được viết bằng một nét. Nhiều ký tự có thể được viết bằng một nét, chẳng hạn như chữ thảo (kuangcao) của Yizhi Huaisu (khoảng 730-780).
Văn tự thảo của Wang Xichi
Khoảng thế kỷ thứ 2 và thứ 4 sau Công nguyên, nghệ thuật viết chữ được biết đến với tên gọi thư pháp thư pháp hay thư pháp thư pháp. Kể từ đó, thư pháp đã trở thành một nghệ thuật dân gian tao nhã, và các bậc thầy thư pháp thường được coi là trí thức có học thức cao. Trong thời kỳ này, có một vị vua Xiji (303-361), một bộ trưởng và một học giả, người được thế giới tôn sùng là “thánh thảo”.
Các tác phẩm thư pháp là hiện thân của phong cách, cá tính cũng như khả năng sáng tạo của người viết thư pháp. Tôn Quốc Đình Tôn Quốc Đình (648-703) – một quan thư viện đồng thời là một nhà lý luận về thư pháp thời Đường – đã viết trong tác phẩm Thường khi vương hi chi viết lan đình tạp lục (lời tựa). ở lan đình) tâm trạng vui vẻ, tư tưởng cao trào dâng trào trong buổi gặp gỡ văn nhân, điều đó được thể hiện trong cuộc sống hạnh phúc của ông.
Thư pháp là một nghệ thuật có kỷ luật mà các thủ thư đã làm việc chăm chỉ để thành thạo. Nội dung và hình thức thư pháp (như vuông, long, tròn, quạt, hoành phi, câu đối) cũng phải phối hợp với nhau để xác định bố cục và hình thức của tác phẩm (gọi là Trương Pháp Trương Pháp). Thư pháp theo lối viết chữ Hán truyền thống (gọi là «thuật»): các chữ được viết theo cột từ trên xuống dưới và từ phải sang trái. Đặc biệt không đánh dấu chấm để ngắt câu. Cách viết này không có dấu chấm câu, giống như cách viết trong sách cổ, được gọi là Baiwen Baiwen.
Sách ngày xưa, gồm những thẻ tre (hoặc gỗ) ghép lại với nhau. Điều này giải thích cách viết chữ Hán truyền thống (từ trên xuống dưới, từ phải sang trái)
Luyện thư pháp qua âm nhạc phi sự sống để kiếm (Jia Jiliang) tiền xuất gia
Các ký tự cột (mô tả cách viết dọc) bắt nguồn từ cách viết thẻ tre (phiếu tre giản thể) hoặc thẻ gỗ (phiếu gỗ giản). Những tấm thiệp này được dệt thành từng tấm (gần giống như mành tre ngày nay) và cuộn lại thành bó. Khi viết, tay trái cầm xấp thẻ, tay phải viết lên thẻ từ trên xuống dưới, viết xong thẻ kéo thẻ đó sang bên phải để viết tiếp thẻ tiếp theo. Viết theo trình tự như vậy cho đến hết bó thẻ. Vậy từ sáchchiến lược (sách,chiến lược) được viết với tập hợp cấu trúctre, và sau đây là chữ cái ở cuối bó (bó,cột).bó) để viết một số tiền nhỏ, ngụ ý rằng cuốn sách là một bó thẻ tre. Trong khi chữ sách笔(đồng nghĩa với chữ sáchchữa bệnh) chỉ rõ có bốn quân bài (tre hoặc gỗ) có cột ngang ở giữa. Khi nghề dệt lụa phát triển, người ta còn viết chữ trên lụa (gọi là sách vải bạch tự). Lụa được cuộn trên trục, lối viết cũng giống như trên tre, mộc mạc và giản dị. Viết như vậy đã trở thành một truyền thống không thay đổi ngay cả sau khi phát minh ra giấy. Khi chữ Hán và văn hóa chữ Hán truyền sang Nhật Bản (gọi là Hanja), Hàn Quốc (gọi là Hanja) và Việt Nam, các chữ viết truyền thống trong cột đó đã ảnh hưởng đến chữ Kana của Nhật Bản, hangǔl của Hàn Quốc và Việt Nam; các nước phương Tây đã tiến hành giao lưu văn hóa, và họ bắt đầu bắt chước cách viết ngang của phương Tây (từ trái qua phải, từ trên xuống dưới, gọi là “viết ngang”).
Theo từ bi của Tôn Qua Định, phong cách viết của một thủ thư lão luyện có thể gợi lên năng lượng của tự nhiên, chẳng hạn như ngọn bút Ngòi bút của cuốn sách này giống như thể «Chim bay ra, rắn vào đồng» Chim bay ra khỏi rừng, rắn giật mình vào cỏ (chim bay ra khỏi rừng, rắn giật mình vào cỏ) hay «phi hồng hạc bay trời» Phi hồng vờn biển múa hạc bay trời (hồng nhạn bay về biển, hạc bay lên trời), v.v. ., nét vẽ có lúc nhẹ nhàng như i> «cánh thiền» Cánh ve sầu (cánh ve sầu), có lúc như «cột» đập đá ( đá rơi), v.v. Khi ngòi lướt qua thì nhẹ như gió xuân thổi cỏ, khi dừng lại thì nặng như núi. Bởi vậy, một tác phẩm thư pháp là sự kết tinh của nhân cách, của thi pháp, tư tưởng, kỹ thuật và tâm sức của người thủ thư.
Thư pháp đời xưa
Thư pháp là một trong những nghệ thuật lâu đời nhất ở Trung Quốc. Khi một nhà thư pháp đánh giá cao một tác phẩm thư pháp, điều mà anh ta đánh giá cao là nét vẽ của tác giả và sự sáng tạo được thể hiện qua bút lông và mực, có tốc độ và sự chậm chạp, mực và mực, và mực và mực (phi trắng Feibai ), Cường độ màu và độ tương phản giữa giấy trắng và mực đen. Biết chữ Hán, biết các quy ước về thứ tự nét và số nét trên mỗi nét, người sành chữ sẽ cảm nhận được sự gần gũi với tác phẩm và tác giả, một cảm xúc ít có ở các môn nghệ thuật khác. Mi Fang (còn đọc là Mi Fan, 1052-1107), một nhà Nho lớn thời Bắc Tống, đã mô tả sự ngây ngất của mình khi đánh giá cao các di vật cổ: “Mỗi khi tôi mở một tác phẩm nghệ thuật. Khi tôi nhìn vào những bức tranh cổ, tôi ngây ngất. ngay cả bên tai cũng không nghe thấy tiếng sấm, cũng không thèm để ý đến đồ ăn ngon xung quanh… Tôi ngờ rằng sau khi chết đi, linh hồn của tôi sẽ trở thành một con cá bạc chui vào thư pháp và bơi lội trong đó. »
Thư pháp của Sư Tử (đến đông pha) đời Tống
Kể từ thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên, các bộ sưu tập thư pháp thường dựa trên hình thức của tác phẩm hơn là nội dung văn học của nó. Việc phân loại truyền thống các tác phẩm thư pháp và nghiên cứu từng trang các hiện vật cổ xưa đã dẫn đến sự tách biệt giữa nội dung và hình thức. Đối tượng đánh giá là ngòi bút, kết cấu và kỹ thuật của tác giả chứ không phải nội dung tác phẩm. Sự sắp xếp lại này giữ được tính nghệ thuật, nhưng sự không mạch lạc có thể gây khó chịu cho những độc giả có khả năng đọc văn bản tiếng Trung.
Hình thức phổ biến nhất của thư pháp là đôi câu đối mà người Hoa thường treo trước cửa nhà, trên bàn thờ gia tiên, phòng khách, cột nhà. Câu đối Tết có nhiều loại: câu đối Tết gọi là câu đối Xuân; Trong dịp lễ hội đầu xuân, câu đối là lời chúc tốt lành, thể hiện ước vọng hạnh phúc trong mùa xuân mới. Mong muốn này sẽ được thực hiện và phát triển như chồi mới của mùa xuân.
Tác giả: Lý An Dân
Nguồn: khoa học việt