Thông thường, đại diện là một cái tên, cho biết quốc tịch (họ của vua), rồi lấy tên theo bảng chữ cái làm tên. Ông là người tỉnh Hưng An, tinh thông thao lược, văn chương. Năm 26 tuổi làm đại thần trong triều, có tước hiệu triều đình, dần được thăng Thái úy. Lý Thường Kiệt làm quan 3 triều Lý: Thái Tông, Thanh Tông, Nhân Tông (1028-1128). Ông đã có công trong kháng chiến, bình định, bảo vệ và lập quốc, được truy phong là Công tước Yue sau khi ông qua đời. Ông là một người đàn ông được kính trọng vào thời của ông, và chiến công của ông sẽ được ghi nhớ qua các thế hệ mai sau.
Bài thơ “Nam Sơn Hà” của Nam Quốc luôn được coi là một kiệt tác vô song, và nó còn được gọi là “bài thơ thần thánh”. Theo truyền thuyết, bài thơ này do Lý Thượng Kiệt viết, trong bối cảnh Đại chiến, ông đã cử người đến chùa hát và đọc cho binh lính nghe vào ban đêm để khích lệ lòng yêu nước của các tướng lĩnh và binh lính. Việt Nam và All Pass. Quân xâm lược cũng ở trong thế giằng co trên các tuyến sông như nguyễn (cầu sông) ngày nay giữa hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh.
Nam Bộ
Hoàng đế núi Nanguo Hà Nam
Được định sẵn ở trên thiên đàng.
Bạn muốn đột nhập vào lỗ một lần nữa?
Những kẻ xấu đã bị đánh bại!
Bản dịch:
núi snam nước
Sông núi, biển cả, sống ở phương Nam
Đại cương đã ghi rõ trong sách trời.
Tại sao bạo chúa dám xâm lược?
Hãy chờ xem, họ sẽ thua!
Câu đầu tiên nhằm khẳng định chủ quyền và độc lập dân tộc. Nếu những ngọn núi và con sông này thuộc về đàn ông, thì “Nandiju” (Nanwangju) chỉ đơn giản như vậy! Như nước sông núi, vua nước phải sống, có gì lạ đâu? Các ngoại lệ và lỗi là gì? Một sự thật hiển nhiên đến đá chết cũng phải thừa nhận chứ đừng nói đến con người. Chỉ có một điều tưởng chừng đơn giản nhưng lại không hề đơn giản, đó là chữ “Nandudu”. Tại sao không phải là “Nam Bộ”, mà là “Nam Bộ”? Hóa ra dưới chế độ phong kiến, toàn bộ thế giới rộng lớn đều thuộc về nhà vua, và nhà vua là chủ nhân tối thượng. Theo quan niệm của Nho giáo, “quân tử tế thần” (vua buộc quần thần phải chết, quần thần phải chết), bất kể là chết sung sướng hay không còn cách nào khác là chết. Còn gọi là “Quân thần bất trung”, nghĩa là thần dân nào giết vua thì phạm tội bất trung. Vua với nước là nghĩa, trung với vua tức là trung với nước!
Tuy nhiên, dưới hàng nghìn năm bắc thuộc, Trung Quốc chỉ coi nước ta là một vùng. Trải qua nhiều cuộc khởi nghĩa đấu tranh giành độc lập, bọn phong kiến phương Bắc đã công nhận nước ta là một quốc gia, nhưng về mặt hình thức vẫn là một “nước thần” của một “triều đại”, chỉ được lên ngôi vua chứ không được phong hoàng đế. Vì hoàng đế là thiên tử (con trời), là chủ nhân của thế giới rộng lớn, nên “ông lớn” là chủ nhân của thiên hạ. Nếu ví thế giới như một bông hoa, thì Trung Nguyên (Trung Quốc) chính là trung tâm của bông hoa, tức là trung tâm của nền văn minh vũ trụ. Vì lý do này, người Hán thường coi mình là người Trung Quốc, tức là “Trung Hoa Dân Quốc”. Các quốc gia xung quanh Trung Quốc chỉ là những quốc gia lạc hậu. Họ cho rằng các nước phía bắc là “giặc”, các nước phía tây là “nhung” thậm chí là “chó nhung”, các nước phía đông là “di”, các nước phía nam là nước và “dân” ta. Cho nên, chư vị coi thường một người, người nào ở Nam Trung Quốc, hay người nào ở Đông Trung Quốc, người ta sẽ cong môi gọi họ là “man rợ”. Ngày nay, nó được gọi là phân biệt chủng tộc và nó biểu hiện thành một hệ tư tưởng gọi là “phân biệt chủng tộc” hay “bá quyền”, nơi cá lớn nuốt cá bé, rất nguy hiểm, rất phản văn hóa, văn minh.
Phải trích dẫn hai khúc quanh co như vậy, mới thấy chữ “đế” mà nhà thơ nhắc đến ở đây là một chữ vô cùng quan trọng, có ý nghĩa tư tưởng và văn hóa hết sức phong phú. Nếu kẻ xâm lược coi một nước văn minh là “hoàng đế” và coi thường tôi và coi tôi là “người”, thì tôi cũng là hoàng đế phương nam, hoàng đế của nước phương nam gọi là Đại Việt. Việt Nam to lớn vĩ đại) chẳng thua kém nước nào. Người Đại Nhạc có thể so sánh với người Hán, không thua gì người Hán đúng không? Vì vậy, “Hoàng đế Nam Quốc Sơn Hà Nam” là một quốc gia có chủ quyền, một quốc gia có chủ quyền, nhân phẩm, công bằng, công bằng, công bằng! Một quốc gia có chủ quyền, đang tồn tại với văn hóa lễ nghi riêng, khuôn khổ lãnh thổ riêng, phong tục tập quán riêng vẫn tồn tại, và tồn tại mạnh mẽ. Nguyễn Trãi (1380-1442) sau này trong “Ngô đại cáo” cũng dựa trên tinh thần tư tưởng này mà viết: “Cũng như Đại Việt ta xưa có nền văn hiến đã lâu/Núi chia sông/Phân chia phong tục phương bắc”. nam cũng khác”… nam bắc ở đây là Trung Quốc (phía bắc) và Đại Việt (phía nam).
Câu thứ hai là “số phận tại sổ trời” (trong sách trời có ghi rõ ràng). Nếu câu đầu tiên chứng minh sự tồn tại của núi, thì câu thứ hai là bằng chứng tinh thần, phi vật chất. Tự xưng hoàng đế, “con trời”? Vậy ta cũng là hoàng đế, hoàng đế, hoàng đế phải không? Và nếu bầu trời là tối cao và có thật, thì “Hoàng đế Nam Tôn Hà Nam” cũng là có thật, và nó được ghi lại rất rõ ràng trong “Thiên thư”. Vì vậy, sử dụng logic của kẻ thù để chống lại logic của bạn và thuyết phục. Đó cũng là một kiểu khẳng định, khẳng định chắc nịch “Đương nhiên là mệnh trời”!
Vậy tại sao lũ sát nhân đó lại dám đến đây xâm chiếm lãnh thổ của chúng ta (xâm lược xảo quyệt)? Một câu hỏi tu từ nhưng nhằm khẳng định chính nghĩa của ta và bản chất phi nghĩa của kẻ thù. Những kẻ xâm lược chỉ là những tên cướp, xâm phạm trắng trợn chủ quyền và độc lập của chúng ta. Từ “khủng bố” chỉ kẻ thù, từ “đồng” cũng là kẻ thù, và “Nidong” chỉ một nhóm kẻ thù nổi loạn và hung bạo, họ cố tình vi phạm “luật trời” và chống lại “luật trời”. “, đó cũng là chống lại công lý. Nếu kẻ địch sử dụng Huyền Vũ (Đạo của trời) thì tác giả cũng dùng sức mạnh của Huyền Vũ để chỉ ra và phê phán sự phi lý, phi lý của kẻ thù một cách trần trụi, tài tình, sâu sắc và chặt chẽ!
Câu cuối là kết quả của hành động gây hấn “vô lý, vô lý” của địch, đồng thời cũng là niềm tin của chúng ta rằng thắng lợi là tất yếu. Rằng “họ sẽ bay” (nghìn người) và “sẽ được nhìn thấy” (lễ phép) chắc chắn sẽ mang lại thất bại cho chính bạn (khiếm khuyết thất bại)! Không có cách nào khác. Một lần nữa khẳng định rằng công lý phải chiến thắng và kẻ thù man rợ phải bị đánh bại.
“Sông núi” nước Nam từ lâu đã được coi là “thiên cổ hùng văn” và là “bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên” của dân tộc Đại Việt. Tứ tuyệt chỉ dài 28 chữ nhưng chứa chan tình cảm, sâu sắc và bất hủ. Tương truyền, khi vị “Thần” ở đền Hai Hoàng Đế và nàng Chàng đọc to bài thơ này, quân sĩ Đại Việt lập tức hừng hực khí thế chiến đấu, dũng cảm xông lên đánh tan quân thù. Quân địch hoảng sợ, chạy tán loạn và bị đánh tan tác.
Hay là, văn chương có thần thông, chẳng những có thể đề cao quân đội trình độ chiến đấu, còn có thể đề cao toàn quốc trình độ, chiến thắng chính mình, chiến thắng cường địch. Ai đã làm ra một tác phẩm vô giá như vậy? Đây không phải đều là trí thức lỗi lạc sao? Làm sao một người bình thường ít học lại có thể làm được những điều phi thường như vậy? Trí thức là bộ não của dân tộc, là người lãnh đạo đất nước đi lên. Quá khứ và hiện tại, cả hai!
Ở phần cuối của bài viết này, chúng tôi muốn bổ sung quan điểm của mình về thơ và văn của Li Shangjie Nan Guozihe. Cách đây hàng chục năm, một giáo sư đã đăng bài báo “tuyên bố” rằng ông đã “phát hiện” một tấm bia rất cổ ở biên giới phía Bắc nước ta. Tấm bia “cổ” khắc bài thơ của Tôn Anh thời Nam Quốc không ghi tên tác giả (khuyết danh). Thông tin này khiến giới nghiên cứu văn học sửng sốt và hoài nghi. Điểm đáng nghi ngờ này cũng được ghi chú trong sách giáo khoa ttpt, tương tự như có người đoán rằng phụ đề của bài hát này không phải là bản dịch của bà Duan Shiyan. Sách giáo khoa cũng khuyến khích sự hoài nghi ngu ngốc như vậy. Bản dịch hiện tại có lẽ là của một ich fan. Chúng tôi bác bỏ điều này. Không có bằng chứng nào cho thấy cuốn sách Ya Conqueror hiện tại là bản dịch của Pan Huiyi.
Bài thơ nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, tôi nghĩ kẻ xấu cố tình làm bia giả cổ rồi chôn sát biên giới phía Bắc. Sau đó, họ nhắn tin cho nhiều người để “đào bới” và đăng lên báo khiến người Việt Nam hoang mang, nghi ngờ đủ thứ. Chúng còn cố tình chôn những tấm bia “cổ” khắp các đảo của ta để làm bằng chứng một lúc nào đó đây là đất tổ của chúng. Các phương tiện truyền thông đã đăng nó một cách công khai, vạch trần trò chơi khăm.
Như vậy, cái gọi là “bằng chứng” khai quật được tấm bia bài nam “khám phá” Tôn Hạ chỉ là một sự bịa đặt hết sức khéo léo nhằm công kích vào niềm tin ngây thơ của người Việt. Họ có đủ loại. Đó là lý do tại sao người Việt tin vào những lời dối trá. Có đáng tiếc không?
Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2022.
v.b.l