Acacia là nhóm thực vật họ tre, trúc có đặc điểm là vách mỏng, thuộc chi Tre, tên khoa học: schizostachyum.

Có khoảng 70 loài khác nhau trên thế giới. Những nghiên cứu gần đây cho thấy ở nước ta có một số loại nứa. Có 3 loại phổ biến nhất là cắm lá to, cắm lá nhỏ và cắm hoa tam thất.

Ở Việt Nam, theo Tổng điều tra rừng toàn quốc (2001), diện tích rừng là 1.492.000 ha, phân bố chủ yếu ở các tỉnh Kon Tum, Lâm Đồng, Thanh Hóa, Nghệ An và Đắk Lắk. Theo Phạm Hoàng Hộ (1999), ở Việt Nam đã ghi nhận được 121 loài tre trúc thuộc 23 chi. Đa số các loài tre ở Việt Nam là loại có khí khóm, một số ít loài có thân rời chỉ có ở một số tỉnh phía Bắc như: trúc sào, trúc sào (cao bình, lưng kạn…), vầu (vĩnh phúc, phú thọ, hòa bình , tuyên quang, sơn la, v.v.) Hầu hết cọc tre và cọc tre là loài trồng trọt.

Đặc điểm của cây bần

Cây bần mọc thành cụm. Chiều cao thân khoảng 12cm-15m. Đường kính thân khoảng 10 cm, thân có nhiều lóng. Mỗi cuống có chiều dài từ 30cm – 90cm. Thành mỏng 0,2cm – 0,6cm.

Con sâu bướm có những sợi lông nhỏ màu trắng. mép trên có lông, cao 0,1 cm, dày. Chiều rộng đáy 32-34cm, chiều cao 22-24cm, chiều rộng đáy 7-8cm. đầu nhọn hẹp, rộng 2,2,2,4cm, cao 7,5cm – 9cm. Có những sợi lông mịn ở bên trong và những sợi lông dài và cứng ở phía dưới. Tai nai thấp, cao 0,2cm, dài 1cm, có lông thưa. Phiến lá cao 0,2cm và lông tơ cao 0,4cm.

Lá hình mác, dài 10cm-30cm, rộng 3-7cm. Lá nhọn và hơi lệch, gân lá nổi rõ. Mặt dưới lá phủ lông mịn, cuống lá dài 0,2-0,7cm.

Nucca thường mọc hoang trong rừng tự nhiên, thường sống ở độ cao từ 100m – 700m so với mực nước biển.

7 loại tre mới của Việt Nam– cà na khop: cà na, ninh thuận.

– Núi Dinh: Bà Rịa – Vũng Tàu.

– Đèo Xuân: dak glei, kon tum.

– Salon trúc lá to: Hoa hồi ngọc am, kon tum.

– Tre cụt tai: chi linh, dương.

– Tre lá kim: chi linh, dương.

– tre bao loc: bao loc, lam dong.

khốp cà nakhốp cà na là loại tre mọc từ mật độ dày đặc đến thưa thớt. Thân cây nhỏ và thẳng. Chiều cao của cây khoảng 2m ~ 4m, đường kính thân từ 1,3 ~ 1,5cm. Độ dày của thành là 0,2cm và chiều dài lóng là 16cm đến 17cm. Nhiều nhánh nhỏ mọc ra từ một gốc. Cơ thể hơi sưng ở giữa.

Mo có thân hình thuôn dài, mặt ngoài có lông màu đồng. Phần trên nổi rõ gân dày. Chiều rộng đáy là 1,5cm-2,2cm và chiều cao là 8cm-11,5cm. Đáy trên nằm ngang hoặc lồi, vai hơi dốc, cao từ 1cm đến 1,5cm. Gò bầu thuôn dài, rộng 1cm-1,5cm, cao 8cm-11cm. Nốt ruồi 0,2cm – 0,5cm. Mo’er khi còn nhỏ đứng thẳng, khi già thì nằm ngửa, lông dày tới 1,3 cm.

Lá hình dải, có lông ở cả hai mặt và rất dài ở mép. Lá dài 8,5-9,5 cm và rộng 0,4-0,5 cm. Gốc lá nhọn, đáy xiên. Có 2-3 đôi gân chính. lá trụi lá. Tai thấp, có lông thưa dài tới 1,2 cm. Bẹ lá nhẵn. Cuống lá có lông 0,1 – 0,2 cm.

Khộp cà na nằm ở vùng núi Cà na (Ninh Thuận) ở độ cao khoảng 400 – 600 m so với mực nước biển. Nơi thổ nhưỡng và khí hậu khắc nghiệt. Mùa khô kéo dài hơn 6 tháng, lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.000 mm. Có những loài cây đặc hữu của vùng đất khô hạn như các loại tre như kana, tóc dầu và hoa trà.

nui dinhTre nui dinh là tre mọc thành bụi, đặc điểm là lá to, lóng dài. Tùy theo điều kiện sống mà thân có thể cao hoặc thấp. Ngay trên đồi dinh, ở vùng đất khô cằn, cây chỉ cao 2m-3m. Trong mùa khô, lá chuyển sang màu vàng. Bên suối, cây có thể đạt chiều dài 12 mét, đường kính thân 2-2,2 cm. Thân non có lớp bột dày màu trắng và sẹo lá phù nề lớn. Cây rạch có thân màu xanh đậm dài tới 125 cm giữa các đốt. tường dày 0,5 cm. Nhiều nhánh nhỏ, có rễ ở gốc.

Lá dài 20cm – 32cm, đầu cành rộng 3,5cm – 5cm. Lá dài từ 40 cm đến 42 cm và rộng 9 cm. Gốc lá nhọn, thuôn. Bẹ lá có lông dài rậm rạp. Cuống lá dài 0,6cm đến 0,8cm. Có khoảng 10-11 đôi gân.

Loài này được tìm thấy ở vùng núi Dinh (bà rịa – vũng tàu) cùng với một số loài tre khác như trúc (bambusa), le (gigantochloa).

Tre trẻ hóa Tre trẻ hóa là một khóm tre dày, thân mảnh, tròn và thon. Ấu trùng được bao phủ bởi lớp lông bột màu trắng, mọc thưa và nằm. Cơ thể cũ hấp thụ nhiều silicon và có nhiều lông hơn ở phần dưới. Thân cây cao khoảng 8m-10m, đường kính thân từ 4cm-5cm. Độ dày của thành là 0,7 cm đến 0,8 cm và chiều dài lóng là 80 cm đến 90 cm. Thân non phủ một lớp lông trắng mịn. Cơ thể cũ hấp thụ nhiều silicon và có nhiều lông hơn ở phần dưới. Có nhiều cành nhỏ và dài.

Mos là những hình trụ cứng được bao phủ bởi lớp lông dài và cứng ở bề mặt bên ngoài. Thường xếp dọc thân mo có nhiều đường gân dày nhẵn nổi rõ. Phần trên có nhiều lỗ nhỏ do rụng tóc để lại. Đáy lượn sóng, có lông màu nâu, nhẵn và dày, rộng 12-16 cm, cao 9-10 cm. Mặt trên và mặt dưới lượn sóng, một cạnh chúc xuống và một cạnh ngang, bề ngang từ 5cm đến 6cm.

Con ngài hình tam giác có đầu dài và nhọn, đáy lõm và nghiêng, mặt ngoài có gân nổi rõ, lông cứng và thưa màu đen. Mặt trên của tấm molypden có màu xanh lục nhạt và mặt dưới có màu tím đen. Lưỡi molypden cao tới 0,2cm. Một bên cao và một bên thấp. Tai lồi rộng 0,5cm-1cm, cao 0,3cm-0,4cm, có 2-3 hàng lông mềm, cao tới 0,4cm. Tai dưới dài 0,2cm, rộng 0,2cm, có lông mềm.

Phiến lá hình nêm hoặc thuôn dài, mép lá thon dần theo cuống lá. Gốc lá nhọn hoặc cùn, gốc xiên, dài 23 cm đến 28 cm và rộng 3,2 cm đến 3,5 cm. 7-8 cặp gân. Lá dưới có lông, rộng, dày, tới 0,1 cm. Gai lá rộng 0,4 cm, cao 0,1 cm, có tai ngắn và một tai cong nhô ra, dài 0,4 cm, có lông. Có lông mịn ở mép bẹ lá. Cuống lá dài 0,5cm, rộng 0,2cm, màu hồng tím, mặt trên có lông mịn và rậm.

Măng có đặc điểm là có vết thâm màu tím sẫm, có phù ở phía dưới. Loài này phân bố ở cửa suối (đác glei, kon tum) ở độ cao 930m so với mực nước biển.

Tre Sharon Tre Sharon là một loại tre mọc thành cụm. Thân thẳng, cao 8m-10m, đường kính thân 2cm-2,5cm. Thành thân dày 0,2-0,3 cm, lóng dài 65-75 cm. Thân non có lông trắng đọng lại, thân già hút nhiều silic. Một gốc có nhiều cành nhỏ, lá dày ngắn.

Molypden có dạng hình trụ cứng, có nhiều bột trắng và các đường vân nổi rõ. Mặt ngoài có nhiều lông dày màu nâu đen, nhanh rụng để lại nhiều lỗ chân lông. Đáy lượn sóng, rộng 18cm-20cm, cao 24cm-26cm. Đáy, cạnh đáy, cạnh ngang rộng 9cm-11cm. Cơ thể của bướm đêm có hình tam giác, đầu nhọn dài và phần gốc phình ra, dài 5-6 cm, rộng 8-9 cm. Mặt trong gần đáy có nhiều lông màu nâu đen. mo lưỡi lên đến 0,2 cm. Tai nốt ruồi rủ xuống, rộng 1cm-1,2cm, cao 0,3cm-0,4cm.

Lá thuôn dài, dài 42 cm – 45 cm, rộng 7 cm – 7,5 cm, đầu nhọn dài đến 2 cm. Gốc lá nhọn, gốc xiên, hai mép lá kéo dài xuống cuống. Có 11-12 đôi gân chính. Lá cao tới 0,1 cm, có lông dày, cao tới 0,5 cm. Bẹ lá nhẵn. Cuống lá dài 1 cm, rộng 0,4 cm.

Mùa măng vào khoảng tháng 6 đến tháng 9. Măng có đặc điểm là có những vết dò màu đen tím, đáy nổi lên. Loài được lấy mẫu trên đường vận chuyển đến thẩm mỹ viện (hồi ngọc, kon tum).

tre cụt tai côn sơntre tai côn sơn là loại tre mọc thành cụm dày đặc. Thân mảnh, thân non có nhiều lông trắng rủ xuống, mắt lồi, cao 0,8 cm, rộng 1,5 cm. Thân cây cao 7m-8m, đường kính thân 1cm-1,5cm, thành dày 0,3cm, chiều dài lóng 45cm-58cm. Trên một gốc thường có nhiều cành nhỏ.

Mo là thân hình trụ đứng, mặt ngoài có lông trắng. Gân nổi và dày, bờ dày, mềm đến 0,2cm. Mo mo có đáy phẳng, rộng 7cm-9cm, cao 14cm-15cm. Đáy trên hơi lõm, hai mép không bằng nhau. Mặt lớn là 1,2cm-1,5cm, mặt nhỏ là 1cm-1,1cm và chiều rộng là 2,8cm-3cm. Lông rậm cao 1 cm chạy dọc thân. Hình thanh, dài 5cm-10cm, rộng 0,4cm-0,5cm. Răng hàm tới 0,2 cm, có lông tới 0,2 cm.

Lá sọc. Lá dài 23cm-26cm và rộng 3,5cm-3,8cm. Gốc lá nhọn, đáy xiên. 8-9 đôi gân chính. Bẹ lá dài, dựng đứng, có lông trắng. Lá thấp và nổi rõ, có lông, dài tới 1,2 cm. Cuống lá dài 0,8cm, rộng 0,3cm, mặt dưới cuống lá có lông.

Măng non có màu tím đen, khi già có màu xanh nhạt. Loài này được tìm thấy cùng với một loài tre khác có hình thái tương tự nhưng không có lông mọc ven suối ở độ cao 40-50 m.

Cây lá kim Tre là loài tre mọc thành cụm dày đặc. Thân mảnh, lúc non có nhiều lông trắng nằm rủ xuống. Thân cây cao 5m-6m, đường kính thân 1,4cm-1,7cm, thành dày 0,4cm-0,7cm, chiều dài lóng 36cm-50cm. Thường có nhiều nhánh nhỏ mọc ra từ một gốc.

Cơ thể mo hình trụ, mọc thẳng, mặt ngoài có lông trắng và cứng. Có nhiều gân nổi rõ, giữa các gân lớn có gân thưa, mép có lông mềm dày, to 0,2 cm. Đáy phẳng, chiều rộng 6cm-7cm, chiều cao 11cm-13cm. Đáy lõm, hai vai không bằng nhau, rộng đáy 1,5cm-1,8cm. Con ngài có sọc, có lông ở gốc mặt trong, dài 7 cm đến 7,5 cm và rộng 0,3 cm đến 0,5 cm. Tai nốt ruồi thấp, lưng hướng ra ngoài, cao 0,1cm, rộng 0,2cm, chiều cao lông có thể tới 1,2cm, lùi về phía tai. Răng hàm dưới, có lông, to 0,15cm.

Mặt dưới lá hình nêm, mặt trên hình dải, đầu lá nhọn. Lá dài 28cm-30cm, rộng 5cm-5,5cm. Gốc lá nhọn hoặc hơi tù, gốc lá xiên. 10-12 đôi gân chính. Bẹ lá có lông mịn màu trắng. Chiều dài của tai lá có thể đạt tới 0,4cm, chiều cao là 0,1cm và chiều dài của lông có thể đạt tới 0,1cm. Cuống lá dài 1cm, rộng 0,4cm, có 2 bẹ lá vươn ra ôm lấy cuống lá.

Măng có màu hơi tím đen. Loài này được tìm thấy cùng với nứa cụt tai dưới chân dãy núi Côn Sơn.

Đèo Bảo LộcTre đèo Bảo Lộc là một khóm tre. Thân thẳng đứng hoặc hơi nghiêng. Chiều cao của cây khoảng 8m-10m, đường kính thân 4,5cm-5,5cm, chiều dài lóng 80cm-130cm, thân có màu xanh đậm. Tường dày 0,5cm – 0,7cm. Nhiều nhánh nhỏ mọc ra từ một gốc. Cơ thể trẻ với nhiều lông bạc mềm và đôi mắt nhỏ. Loài này có thể dễ dàng nhận ra nhất bởi các lóng dài, một phần nhô ra nhỏ ở phía dưới của bướm đêm bên phải bao phủ vòng răng hàm.

Bề mặt thân Mo có lông tơ, màu trắng bạc, nằm úp. Mặt trong có lông bạc gần gốc trên, góc dưới bên phải nhô lên và uốn cong. Đáy bẹ rộng 20cm-25cm, cao 26cm-30cm. Mặt trên và mặt dưới cao 4,8cm-5,2cm, ở giữa lõm sâu 1,2cm. Bướm có sọc, rộng 10cm-20cm, cao 1cm-1,2cm, mặt trong có lông tơ, dựng đứng, dày ở phía dưới. Nốt ruồi cao 0,2cm, rộng từ 1,5cm đến 2cm, có lông dày và mềm, dài tới 1,3cm.

Lá sọc. Lá dài 20cm-22cm, rộng 2,8cm-3,1cm. Gốc lá nhọn, đáy xiên. Gân 6-7 đôi, nổi rõ. Lá thấp, có lông bạc, dày, dài tới 1,7 cm. Bẹ lá có lông ở cả hai mặt. Cuống lá dài 0,5cm.

Ứng dụng của nút chai trong đời sống hàng ngày

Cây bần hầu như không còn bộ phận nào. Trước đây, những chiếc ná bằng tre già được đồng bào vùng cao dùng làm ná, đồng thời dùng làm lò xo nhử địch trong thời kỳ kháng chiến. Hiện nay tre rừng làm ga trải giường, lư hương, ống tăm là những sản phẩm không thể thiếu trong mỗi gia đình.

Tuy nhiên, tre chủ yếu được sử dụng làm nguyên liệu cho hàng thủ công mỹ nghệ và đan lát. Thực tế, thời điểm sản phẩm làm từ nứa rừng “thơm” nhất là khi loài bắt đầu cạn kiệt. “Phát triển vì lợi ích nên thi nhau phá rừng luồng, nhưng rừng luồng không có quy hoạch, không có hướng ‘trồng trọt’ tái sinh nên đang chết dần…” –

Tre còn được dùng trong xây dựng, làm ngói tre, lợp mái nhà, làm giàn giáo trong sản xuất nông nghiệp. Vật liệu tre cũng được sử dụng trong xây dựng và trang trí các không gian kiến ​​trúc. Cork được nghiên cứu để sản xuất các tấm nan làm vách hoặc vách rất đẹp vì vẫn giữ được màu xanh tự nhiên. Măng có thể ăn tươi hoặc ngâm chua.

Làm sáo trúc

Để làm sáo cần nguyên liệu. Đặc biệt, để làm được một cây sáo tốt phải chọn được loại nứa tốt, đẹp, có tính thẩm mỹ, nguyên liệu là nứa, có hai loại nứa là nứa nam và nứa bắc. Gongzhu là một cây trúc đẹp, không đục đẽo, không có bột màu ảnh hưởng đến sáo, rất đẹp và phóng khoáng. Quả bần đực có màu vàng vàng. Trúc bắc không giống trúc đục nam, nhưng lại mang vẻ đẹp của gỗ mềm bắc bộ. Để chọn được nứa ngon, bạn nên chọn nứa thẳng, già, không non. Thước đo của nhị từ 2 đến 3 hoặc 4mm là thích hợp hơn, tre khô đã được chọn lọc, xử lý cẩn thận để làm sạch sáo. Đối với nút chai bị cong, chúng tôi hơ trên lửa cho thẳng lại. Đối với cây nứa mọc thẳng tự nhiên ta chỉ cần xử lý rồi phơi khô.

Cày ô

So với điếu cày tre, điếu cày tre có ưu điểm là rất thơm, rất thơm, thoát nước nhanh, nhược điểm là tương đối mỏng, nếu không biết cách bảo quản thì rất dễ để phá vỡ và phá vỡ.

Hướng dẫn cách cứu cày tre trong nước nhanh chóng

1/ Khi lau thuốc nên để lại nước thuốc cũ, tráng lại bằng nước sạch và đổ lại, tốt nhất là hơ bằng nước muối sinh lý 2/ Khi trời nắng, nóng: để nơi tối và tránh ánh nắng trực tiếp.

3/ Sử dụng một số loại tinh dầu thực vật như dầu dừa, dầu oliu… (có thể dùng dầu máy may nếu không có các loại trên) để làm sạch tàn thuốc, giúp tăng cường độ ẩm, da sẽ căng bóng hơn

/p>

4/ Vào mùa hè nóng bức, nếu nhiệt độ quá cao, bạn có thể cho thuốc lá vào túi xốp hoặc túi xốp sau khi sử dụng

– Tẩu tre, trúc đất các bạn có thể nhét giẻ ướt vào đáy điếu, nhét thuốc vụn vào (lấy ra phơi nắng kẻo bị mốc)

– Xì gà luôn chứa đầy nước và hút thường xuyên.

Chú ý: Không nên quấn khăn ướt quá chặt có thể làm tổn thương da sau này.

<3

6/ Hợp tác sản xuất và chia sẻ nhiều người cũng rất quan trọng: ít nhất 20 viên mỗi ngày, tốc độ đảm bảo cho xì gà mới là:

_Buổi sáng bưng cháo ra quán

_Buổi trưa chở nhau đi cafe

_ Chiều rủ nhau đi uống bia

_Mang miếng bạc về nhà>>có lẽ không dưới 100 quả bóng

Kiểm tra tiếng Anh trực tuyến

Bạn đã biết trình độ tiếng Anh hiện tại của mình chưa?
Bắt đầu làm bài kiểm tra

Nhận tư vấn lộ trình từ ACET

Hãy để lại thông tin, tư vấn viên của ACET sẽ liên lạc với bạn trong thời gian sớm nhất.