Câu cá tình mùa thu Tuyển chọn 7 bài văn mẫu hay nhất có dàn ý tham khảo. Qua trải nghiệm Bài thơ Câu cá mùa thu, các em học sinh lớp 10, 11 có thêm gợi ý trong học tập, nâng cao năng lực văn học, ôn tập, luyện tập và hoàn thành các bài soạn khi thi đạt kết quả tốt vừa qua.

Với 7 bài viết dưới đây, bạn sẽ biết cách viết trôi chảy, hoặc có thêm ý tưởng hay và tự viết lại theo phong cách của riêng mình. Đây sẽ là tài liệu tự đọc, tự học vô cùng bổ ích và thiết thực cho các em trên đường đời sau này. Tôi chúc bạn mọi điều tốt đẹp nhất cho kỳ thi sắp tới của bạn.

Sơ lược về trải nghiệm câu cá mùa thu

Một. Lễ khai trương

Giới thiệu sơ lược về bài thơ câu cá mùa thu và tác giả

b. Nội dung bài đăng

*hai tiêu đề

“Ao thu se lạnh, nước trong veo, thuyền câu nhỏ

  • ao thu là một hình ảnh rất đời thường, đi kèm với tiết trời se lạnh và làn nước trong veo
  • Dùng hai câu thơ để diễn tả cảnh mùa thu ở quê
  • *Hai câu kết “Sóng xanh lăn tăn, lá vàng bay theo gió”.

    • Hình ảnh gợn sóng và những chiếc lá vàng, tạo cảm giác như một hình ảnh rất nhỏ
    • Không gian tĩnh lặng của mùa thu như tăng dần so với câu trước
    • Tâm hồn rất nhạy cảm và tinh tế của tác giả
    • *Hai bài báo

      <3

      • Độ mềm
      • Cảm giác tưởng tượng
      • Cảnh hiu quạnh, vắng lặng, nặng trĩu, luẩn quẩn không lối đi
      • *Hai kết thúc

        <3

        • Bức tranh thiên nhiên hài hòa
        • Từ bỏ mọi tạp niệm và không vướng bận, thói đời
        • c.Kết thúc

          Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ câu cá mùa thu

          Trải nghiệm câu cá mùa thu – mẫu 1

          Nguyễn Khuyến là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam, là nhà thơ của quê hương, các tác phẩm của ông đậm chất thôn quê Nam Bộ, phóng khoáng. Thơ ông thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, người thân, bạn bè, phản ánh cuộc sống bình dị, cực khổ của người nông dân, châm biếm giai cấp thống trị, thực dân xâm lược và đồng chí, đồng chí, thể hiện tình yêu nước thương dân sâu sắc. cho đất nước. Trong số những tác phẩm đặc sắc ấy có bài thơ “Câu cá mùa thu”. Đây là một bài thơ hay viết về mùa thu Tổ quốc thể hiện tình cảm của tác giả đối với mùa thu Tổ quốc.

          Bài thơ mở đầu bằng một nét khái quát về tác giả:

          “Thu ao lạnh nước trong, thuyền chài nhỏ”

          Theo cảm nhận của tác giả, bài thơ này đi từ gần đến xa, rồi từ xa đến gần. Từ thuyền câu nhìn xuống ao, nhìn lên trời, nhìn vào nơi khuất gió, rồi lại trở về ao thu, cùng thuyền câu. Từ chiếc ao hẹp, không gian mùa thu được mở ra một cách thơ mộng, khung cảnh mùa thu quen thuộc. Nước ở bể trong vắt và vô cùng mát lạnh, cái lạnh bao trùm cả không gian, trong bể xuất hiện một chiếc thuyền nhỏ, một con thuyền nhỏ gợi lên sự cô đơn, vẫn nhỏ bé, bé nhỏ giữa không gian thu bao la.

          Hai câu tiếp theo nói mùa thu vắng lặng.

          “Sóng xanh lăn tăn, gió thổi lá vàng”

          “hơi gợn sóng” và “hơi đung đưa” là những bức tranh mô tả trạng thái cô đọng chuyển động hoặc chuyển động cực nhẹ tạo nên sự tĩnh lặng vô hạn. Hòa giọng đáng yêu trong liên khúc “Làn Sóng Xanh” và “Lá Vàng”. Làn gió thu nhè nhẹ khẽ khuấy động mặt nước, làm những chiếc lá trên cành khẽ rơi.

          Câu thứ ba tả cảnh mùa thu:

          “Trời xanh mây trắng bồng bềnh, ngõ tre vắng”

          Bầu trời mùa thu trong xanh nhưng chất chứa nỗi buồn khôn tả. Trên đường làng không một bóng người, không một tiếng động, không một tiếng động, không gian im ắng dường như bóp nghẹt mọi thứ. Cảnh trong làng sáng sủa và yên tĩnh, bởi vì có một cảm giác của vô số suy nghĩ. Không gian mở rộng, bức tranh mùa thu cao vời vợi với trời xanh mây trắng. Màu xanh lá cây gắn liền với chiều sâu, sự tĩnh lặng của không gian và cái nhìn đẹp đẽ của nhà thơ. Ta thấy vần “eo” gợi sự nhỏ bé pha chút buồn và “ngõ tre uốn éo” tô thêm vẻ đẹp. Cảnh quê mùa thu yên tĩnh và thanh bình. Rồi anh nhận ra mình đang câu cá:

          “Kê cao gối lâu không ngủ được, dưới chân vịt thì cá không nhúc nhích”

          Câu cá cắn chân vịt không thể hiểu là cá không cắn câu, tức là không cắn câu. Một âm thanh, âm thanh của một con cá đớp mồi, làm tăng thêm sự yên tĩnh của khung cảnh. Nói là câu cá, nhưng nhà thơ không tập trung vào câu cá. Vừa câu cá, vừa cảm thấy mùa thu tràn đầy. Trái tim nhà thơ lặng lẽ và tĩnh lặng. Lặng yên cảm nhận sự trong vắt của làn nước, tiếng sóng lăn tăn gợn nhẹ và tiếng lá rơi nhè nhẹ. Đặc biệt là âm thanh duy nhất trong bài thơ: tiếng cá đớp mồi dưới chân vịt gợi sâu lắng những khoảng lặng trong tâm hồn nhà thơ. Một động thái nhỏ như vậy có thể có tác động rất lớn. Khoảng lặng này mang đến cảm giác cô đơn, u uất cho lòng nhà thơ.

          Đoạn thơ này phần nào thể hiện vẻ đẹp của tấm lòng tác giả, một con người giản dị, gắn bó sâu nặng với quê hương, với con người, rung động trước vẻ đẹp của tạo hóa, hướng về thiên nhiên. Sạch sẽ trong cuộc sống và luôn có tinh thần trách nhiệm trong cuộc sống.

          Bài thơ câu cá mùa thu là một bài thơ hay và giàu ý nghĩa. Bầu trời mùa thu thực sự ảm đạm và hoang vắng, và bên trong nó là hình ảnh của một con người ảm đạm.

          Trải nghiệm lớp học câu cá mùa thu – mẫu 2

          Nhắc đến Nguyễn Khuyến người ta sẽ nghĩ ngay đến những tác phẩm tả mùa thu của ông. Trong đó có nhiều bài thơ chữ Hán và thơ nổi tiếng viết về mùa thu, và “Thứ Năm Vịnh” là một trong ba bài thơ nổi tiếng: Thứ Năm Điếu Thuốc, Thứ Năm Ẩm ướt và Thứ Năm Vịnh. Chính tập thơ về mùa thu này đã giúp Nguyễn Côn vươn lên hàng đầu trong số những nhà thơ viết về mùa thu. Những vần thơ dịu dàng dễ làm xúc động không ai quên được, nói đến thơ mùa thu Việt Nam thì thơ mùa thu là một trong ba đặc sản của thơ mùa thu.

          Tất cả những khung cảnh quen thuộc đều hiện về, đồng bằng chiêm trũng, ao hồ nước tràn, lũy tre bao quanh – biểu tượng quen thuộc của nông thôn Việt Nam.

          Ba bài thơ mùa thu của Nguyễn Khun Yên, được mệnh danh là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, đặc biệt là “Mùa thu xanh” đã trở thành một trong những bức tranh mùa thu đặc sắc trong nền văn học Việt Nam. Vẻ đẹp của mùa thu được thi vị hóa và trở thành một bức tranh độc đáo. Dường như mọi thứ đang diễn ra trước mắt bạn, nước hồ trong vắt và mặt hồ phẳng lặng là hình ảnh của mùa thu

          Ao thu lành lạnh, nước trong vắt, những chiếc thuyền câu nhỏ xanh rì theo gió, lá vàng khẽ gợn đưa trời xanh mây trôi, ngõ trúc quanh co vắng khách quỳ dưới đất, ôm cần câu, chân vịt, Đã lâu không thấy cá nhúc nhích.

          Mỗi cảnh, mỗi nét thơ đều mang đến cho chúng ta một vẻ riêng, mỗi cảnh đều có cách thể hiện riêng, nhưng không thể phủ nhận rằng mỗi bài thơ mùa thu của Nguyễn Thiển đều có một phong cách riêng. Chỉ có Thu Củi, được nhà thơ Chun Die khẳng định là mùa thu tiêu biểu nhất trong các làng cảnh Việt Nam, là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc: cảnh thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, tình yêu mùa thu. Một tình yêu đẹp gắn với tình quê ấm áp. Hình ảnh trong sáng, câu thơ chi tiết làm cho bài thơ có hồn hơn.

          Mở đầu bài thơ, hình ảnh non nước và con người đan xen giữa cảnh vật thiên nhiên. Tuy cảnh thu không chủ động nói đến người nhưng “thuyền chài trong ao thu” có thể liên tưởng đến cảnh người nhàn nhã câu cá.

          Nước ao thu se lạnh trong veo, thuyền câu nhỏ

          Toàn bộ hồ nước đều nhuốm màu thu, sắc thu, hồ thu có chút mát mẻ, không có một tia gợn sóng, có thể thấy được nước thu thấu đáy. Điều mà khung cảnh mùa thu có thể thể hiện rõ nhất chính là màu nước và khung cảnh thiên nhiên mà nó trải rộng. Thêm vào đó, cảm hứng của nhà thơ hoàn toàn đắm chìm trong khung cảnh mùa thu trong trẻo và tĩnh lặng gần như tuyệt đối, hình ảnh nước trong veo và bầu trời xanh biếc. khung cảnh. trong trẻo và tĩnh lặng:

          Sóng xanh lăn tăn gợn nhẹ cùng những chiếc lá vàng trong gió.

          Mọi thứ chỉ là một gợn sóng nhỏ, không có bất kỳ sự thay đổi mạnh mẽ nào, màu xanh của sóng và màu vàng của lá bổ sung cho nhau, khắc họa một khung cảnh thôn quê mộc mạc và lộng lẫy. Công phu của người thật rất điêu luyện, lá cây có màu vàng và sóng xanh, tốc độ của lá cây tương ứng với độ cao của gợn sóng. Vần cuối câu cho ta cảm giác không gian vắng lặng và chật hẹp, ý thơ nổi bật, điểm nhìn tập trung hơn.

          Mây trắng bồng bềnh giữa trời xanh, con đường ngoằn nghoèo dẫn lên trời tre.

          Không gian như được mở rộng ra, bức tranh mùa thu có tầng lớp trời xanh, mây trắng bồng bềnh trước gió. Bầu trời trong xanh là nét đặc trưng trong thơ Nguyễn Khuyến về mùa thu. Blue là một màu xanh có chiều sâu và chiều sâu. Màu xanh gợi chiều sâu của không gian, sự tĩnh lặng, biểu hiện tuyệt vời của nhà thơ, ông lão đánh cá. Không gian thu hẹp lại, anh lơ đãng đưa mắt nhìn bốn phía làng. Ngôi làng vắng lặng và yên ả, những con đường quanh co uốn lượn mê hồn không một bóng người qua lại.

          Con đường quanh co dẫn đến lối tre vắng vẻ

          Cảnh càng trở nên thanh bình, trong không khí tĩnh mịch của mùa thu, phảng phất một nỗi buồn cô đơn. Tất cả các cảnh vật, từ mặt nước đến ao thu se lạnh, đến chiếc thuyền câu nhỏ, từ sóng xanh đến lá vàng, từ mây bồng bềnh đến ngõ tre… đều được thể hiện bằng đường nét, màu sắc và âm thanh. Một chút bâng khuâng, man mác, rất gần gũi, thân thiết với mọi người Việt Nam. Đối với người Việt Nam, những hình ảnh đó dường như đã quá đỗi quen thuộc khi gợi lại những ký ức tuổi thơ, và kèm theo đó là những nỗi buồn không đáy. Chiếc cần câu cũng bất động theo thời gian:

          Đẩy gối, ôm lâu cá dưới chân vịt không nhúc nhích

          Tư thế người câu cá đang quỳ và cầm cần câu, tư thế không thay đổi, như thể chờ đợi một điều gì đó xảy ra đã lâu, vẫn bình tĩnh, chờ đợi kết quả. Hình ảnh này cũng có dáng vẻ của một người vui sống ẩn dật, sống một cuộc đời thanh đạm. Tập thơ này còn thể hiện sức hấp dẫn của một tâm hồn thi sĩ cao cả ở những câu thơ vắng lặng, tiếng cá bơi gợi sự mờ ảo, thao thức nơi xa xăm.

          “Điếu thuốc thứ năm” là một bài thơ mùa thu đặc sắc, sử dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Cảnh sắc mùa thu của quê hương được tả từ xa đến gần, màu sắc đậm trang nhã, cách miêu tả tinh tế gợi cảm. Âm thanh của sự vật cũng trở nên tinh tế dưới sự quan sát và nhạy cảm của tác giả. Hình ảnh thân thuộc ấy là chất liệu để dệt nên hồn thơ đẹp đẽ ấy

          Với tình yêu thiên nhiên, yêu cảnh vật, yêu sự đổi thay của thế gian vào mùa thu, mọi thứ trong “Khói Tây Tạng” đều là cách để anh thể hiện tâm hồn mình. Ông là một nhà thơ của làng Shanshui của Việt Nam. Ngập trong điếu thuốc, thu nước, thu vịnh, ta thêm yêu quê hương, thêm yêu quê, thêm yêu đất nước này. Vẻ đẹp của quê hương và tâm hồn của Ruan Kun được thể hiện trong từng câu chữ.

          Trải nghiệm lớp học câu cá mùa thu – mẫu 3

          Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng, vừa là nhà thơ trữ tình, tràn đầy tư tưởng truyền thống và triết lý phương đông. Hầu hết các bài thơ chữ Hán của ông đều thuộc thể loại trữ tình. Có thể nói, Nguyễn Khuyến thành công trên cả hai phương diện. Thuốc lá tập trích trong tập thơ gồm 3 bài: Thuốc lá tế và Tế bay. Ba bài thơ đều theo chủ đề từ, văn, thơ, họa, đi theo trào lưu tả thực của văn học trung đại nhưng vẫn mang đậm dấu ấn riêng của một bậc thầy kiệt xuất của thi ca cổ điển.

          Chụp là từ gần đến xa, từ xa đến gần. Nhà thơ từ thuyền nhìn ra bể, nhìn lên trời, nhìn vào ngõ vắng, rồi lại trở về góc bể thu để quan sát không gian, cảnh sắc thu đi theo người đời.

          “Ao thu lạnh, nước trong, thuyền chài nhỏ.”

          Nguyễn Khuyến đã chọn những chi tiết rất tiêu biểu cho mùa thu Bắc Bộ (ao thu, gió thu, trời thu). Ao mùa thu là một chiếc ao rất độc đáo chỉ xuất hiện vào mùa thu. Nguyễn Khuyến nhận thấy ao thu có hai đặc điểm: lạnh và trong – ao lạnh thì phẳng lặng và trong vắt. Cái ao là một đặc điểm chung của thơ Nguyễn Khuyến, nói đến ao là nói đến một cái gì rất gần gũi, thân thuộc, tâm hồn của Nguyễn Khuyến là thế: gần gũi, chân chất, chân chất mang hồn quê. Bầu trời mùa thu trong xanh cũng là một hình ảnh quen thuộc trong thơ của Ruan Kunyan. Bầu trời trong xanh vào mùa thu luôn là biểu tượng đẹp đẽ của mùa thu. Thay vì trôi trên bầu trời, những đám mây trôi nổi. Màu xanh trong thơ Nguyễn Khuyến là màu xanh trong trẻo, tinh khiết đến tột cùng, không pha tạp, phức tạp.

          Các đường chuyển động mềm mại, mảnh mai và tinh tế: gợn sóng nhẹ, đung đưa nhẹ nhàng, mây trôi, đường nét mảnh mai của rừng trúc, gợn sóng của ao thu. Cảnh vật toát lên sự hài hòa, ăn ý: ao nhỏ – con thuyền; gió nhẹ – sóng lăn tăn; trời xanh – nước trong; khách vắng – chủ thể tĩnh lặng, trầm tư. Sau này, mùa xuân trong bài “Mùa thu tới” cũng nắm bắt được những đặc điểm tiêu biểu đó của sông nước nông thôn, và bắt đầu bước vào những ngày se lạnh:

          Dòng nước khẽ lay lá… Tôi nghe trong gió lành lạnh, thuyền không một bóng người.

          Nghệ thuật sử dụng từ ngữ của tác giả vừa mô hình vừa lôi cuốn các từ láy, tính từ và lượng từ như lạnh lùng, trong trẻo, nhỏ bé, hơi gợn, khẽ đung đưa, lơ lửng, xanh ngắt, trống trải, quanh co, chọn eo gây cảm giác thu nhỏ không gian

          Cảnh buồn không có nỗi buồn——Cảnh thu cho ta thấy tình người trong cảnh. Đây có phải là tâm trạng hiện tại của nhà thơ? Thời gian đang thay đổi quá nhanh! Trong phút chốc, Jiang He rơi vào tay kẻ thù. Một lúc sau, thời gian trôi qua: những chiếc lá vàng rung rinh trong gió. Phải chăng mặt nước, mây bồng bềnh, bầu trời có mở ra không gian cho thơ, đồng thời ẩn chứa những cảm xúc dạt dào? Chọn con đường ở ẩn để giữ họ tên, giữ Đức ông, như một biểu tượng của bầu trời khác, liệu có thật, hay đang “chạy làng” như lời giáo sư đại học? .

          Ngõ tre quanh co vắng người tâm sự cô đơn? nguyễn khuyến đã từng thấy mình là tre! Cô đơn lẻ loi, vắng vẻ trước tấp nập. Phải chăng đó là lời tâm sự của một nhà Nho thoát ly trần tục nhưng vẫn không thôi nghĩ về nước, về dân, về vong, về sự bất lực của chính mình? Nhàn mà không nhàn, Nguyễn Khuyến không thể thong thả đi câu như một ẩn sĩ thực thụ.

          Ở khổ thơ cuối chỉ có âm thanh: tiếng cá đớp mồi. Đó có phải là giọng nói của một ngư dân? nguyễn khuyến đang nói về câu cá nhưng tác giả không thực sự tập trung vào câu cá. Nói là câu cá nhưng thực chất là dắt trời thu gửi tấm lòng. Hãy cảm nhận sự trong vắt của làn nước, những gợn sóng lăn tăn và tiếng lá rơi nhẹ nhàng với một trái tim tĩnh lặng. Đặc biệt là trái tim yên tĩnh đã bị đánh thức sâu sắc bởi một âm thanh nhỏ: tiếng cá cắn mồi. Đó là sự tĩnh lặng tuyệt đối của tâm trạng, và lòng nhà thơ lặng lẽ và trong trẻo như một làng quê Việt Nam vào thu.

          “Bài thơ câu cá mùa thu” thể hiện sự cảm nhận và nghệ thuật miêu tả tinh tế của Nguyễn Côn về cảnh sắc mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ.

          Tình khúc câu cá mùa thu-Mẫu 4

          “Hái khói” thể hiện cái hồn mùa thu độc đáo của vùng quê đồng bằng Bắc Bộ được Nguyễn Côn Trân nắm bắt và thể hiện một cách tinh tế, thơ mộng.

          Không gian trong lành, tĩnh lặng. Mặt ao “lạnh” mùa thu, bao phủ trong không khí mùa thu. Nước “trong veo” có thể nhìn thấy đáy. Thuyền chài, thuyền nan “nhỏ bé”. Ở quê Tam Nguyên, thung lũng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, hầu như nhà nào cũng có một cái ao nhỏ trong vườn, ao thì nhỏ, thuyền đánh cá cũng “nhỏ”.

          Gió thu khẽ thổi, mặt hồ thu trong xanh gợn sóng chỉ là “một chút gợn”. Có cả mùa thu, lá vàng “khẽ đung đưa”. Khung cảnh từ sóng xanh cho đến lá vàng đều “khẽ đung đưa” vừa nên thơ vừa yên bình. Tác giả ít tả mà nhiều gợi, chỉ đặt dấu chấm, sử dụng các động tác tả, lặng để làm nổi bật không khí mùa thu của đồng bằng châu thổ sông Hồng.

          Không gian nghệ thuật được mở rộng về chiều cao, chiều dài, chiều dài và chiều rộng. Bầu trời mùa thu “trong xanh”, những đám mây mờ ảo đang “lơ lửng”, như một nhà thơ lang thang. Ai cũng cho rằng bầu trời mùa thu thật thanh tao, bao la và mỏng manh như một dải ruy băng xinh xắn.

          Nhìn quanh làng, bạn chỉ có thể thấy “Ngõ Fengzhu”. Không ai vượt qua, “Airbus”. Nhà thơ thể hiện tâm hồn cô đơn một cách tinh tế bằng cách sử dụng cảnh vật làm ẩn dụ cho tình yêu.

          Các cảnh trong “Thu điếu thuốc lá” được ngắt quãng bằng những đường nét khéo léo: những gợn sóng li ti, nhè nhẹ đung đưa, lượn vòng, uốn khúc; những mảng màu: nước trong, sóng xanh, lá vàng, trời xanh. Đó chính là khung cảnh mùa thu quê hương nhà thơ, khung cảnh mùa thu của làng quê Bắc Bộ. Khung cảnh êm đềm, thơ mộng, mờ ảo, xa xăm. Cảnh mùa thu nào cũng đẹp, thân quen và đáng yêu. Nguyễn Khuyến thổi hồn mình vào từng cảnh sắc mùa thu, từng nét riêng của mùa thu, thể hiện tâm huyết, tình yêu và tình yêu quê thiết tha.

          Hai câu kết bài thể hiện thái độ không vội vàng:

          <3

          Tư thế “cầm sào” của Nguyễn Khuyến gợi cho người đọc liên tưởng đến cảnh đánh cá bên bờ sông hàng nghìn năm trước. Tuy nhiên, ông lão không chờ đợi thời gian, nhưng bất lực, vị quan này đã lui về quê nhà: “Ruan quan chức đã trở về từ lâu.”

          “Cá quẫy dưới chân vịt” là nét bút chuyển động của sự tĩnh lặng.

          Qua “Khói thu”, ta cảm nhận được vẻ đẹp trong lòng của Tan Yuanyan: yêu mùa thu tươi đẹp đi đôi với yêu nước, phong thái cao thượng, điềm tĩnh và trong sáng.

          Trải nghiệm câu cá mùa thu – mẫu 5

          Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 19, với sự tàn lụi của chế độ xã hội phong kiến ​​lạc hậu, tưởng chừng văn học trung đại Việt Nam sẽ đi vào ngõ cụt với Việt Nam. phương pháp phản xạ. Nhưng thật kỳ lạ khi một tài năng thơ xuất chúng như Ruan Kunyan lại nổi lên trong thời kỳ suy thoái kinh tế tưởng như đã đến đỉnh điểm. Như một lời cảm thán, ông khẳng định tính cổ điển đang chuyển động của văn học trung đại ở giai đoạn cuối của một thời kì văn học dài hàng chục năm. Ông đã để lại cho quê hương, đất nước một di sản văn học phong phú. Nhưng nhắc đến nhà thơ Nguyễn Khuyến, người đọc gọi ông là nhà thơ thôn quê Việt Nam bởi ông đã viết nhiều bài thơ đẹp về thôn quê. Đặc biệt là tập thơ mùa thu của ông, trong đó có tập thơ (Câu cá mùa thu).

          Ba bài thơ trong Tuyển tập, Tuyển tập và Tuyển tập. Bài nào cũng hay, dễ nghe, để lộ nỗi nhớ da diết. Chỉ có bài Qiucui, được nhà thơ Huyền Di khẳng định là mùa thu tiêu biểu nhất trong các làng cảnh Việt Nam, là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc: cảnh thu quê hương, tình thiên nhiên, tình mùa thu. Vẻ đẹp và tình yêu đồng hành cùng quê hương.

          Bài thơ được viết theo thể Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình ảnh sinh động. Cảnh thu, trời thu ở làng quê Việt Nam như hiện ra những hình thù, sắc màu tuyệt vời dưới ngòi bút của Nguyễn Khuyến.

          Hai câu đầu:

          Nước ao thu se lạnh trong veo, thuyền câu nhỏ

          Nhà thơ ít thích câu cá mà bị hơi thở của mùa thu mê hoặc, ở câu đầu tiên nhà thơ gọi ao nhà mình là ao thu, đặc trưng bởi sự mát lạnh của làn nước trong vắt, đây là mùa thu ao, không thích hợp để câu cá, cảm hứng hoàn toàn đắm chìm trong khung cảnh mùa thu, đó là nước trong và yên tĩnh. Cần rất nhiều sự chú ý để đánh giá cao những nét tinh tế vốn chỉ giúp tăng cường độ rõ nét và tĩnh lặng của một cảnh đầy màu sắc:

          Sóng xanh lăn tăn gợn nhẹ cùng những chiếc lá vàng trong gió.

          Màu xanh của sóng cộng với màu vàng của tán lá tạo nên một khung cảnh thôn quê khắc khổ mà lộng lẫy. Công phu của người thật rất điêu luyện, lá cây có màu vàng và sóng xanh, tốc độ của lá cây tương ứng với độ cao của gợn sóng. Thi sĩ Tản Đà ca ngợi chữ Ngô trong thơ Nguyễn Côn Yên. Ông cho rằng, đời thơ của ông có lẽ chỉ có một câu hoàn hảo trong bài ca ngợi:

          Ngôi nhà đầy lá rơi

          Chuyển đến trang giấy:

          Mây trắng bồng bềnh giữa trời xanh, con đường ngoằn nghoèo dẫn lên trời tre.

          Không gian mở rộng, bức tranh mùa thu cao ngang bầu trời xanh với những đám mây lững lờ trong gió. Trong tập thơ về mùa thu, Nguyễn Khuyến cho rằng bầu trời mùa thu trong xanh. Mùa thu ở vịnh là “mùa thu lầu xanh”, mùa thu là “bầu trời nhuộm xanh”, mùa thu là “mây trắng” bồng bềnh giữa trời xanh. “

          Xanh lam là sắc thái đậm của màu xanh lục. Bầu trời mùa thu không có mây (xám), nhưng xanh và sâu. Màu xanh gợi chiều sâu của không gian, sự tĩnh lặng, biểu hiện tuyệt vời của nhà thơ, ông lão đánh cá. Rồi anh lơ đãng nhìn quanh. Ngôi làng vắng lặng và yên ả, những con đường quanh co uốn lượn mê hồn không một bóng người qua lại.

          Con đường quanh co dẫn đến lối tre vắng vẻ

          Cảnh tĩnh lặng, thoáng chút buồn, hiu quạnh, hiu quạnh. Người đánh cá như một giấc mơ trong mùa thu. Tất cả cảnh vật, từ “bể thu” trong nước đến “đoàn thuyền đánh cá”, từ “sóng xanh” đến “lá vàng”, từ “tháp mây” đến “lầu lửng” “ngõ tre”… đều được thể hiện bằng đường nét. , màu sắc, âm thanh Trình bày, hơi hướng hoài cổ, man mác, gần gũi, gần gũi với mọi người Việt Nam.

          Buổi sáng tĩnh lặng ấy đã trôi qua bao nhiêu thời gian, tư thế câu cá của anh cũng bất động theo thời gian:

          <3

          Nằm trên sào là tư thế chờ câu mệt mỏi của các cần thủ. Trước đây, một số người dựa vào công việc bán thời gian là đánh bắt cá và chờ đợi đúng người giúp đỡ. Thơ ca và văn học truyền thống sử dụng câu cá để từ chối địa vị của tiếng phổ thông, và tin rằng câu cá là câu cá cho người, người và tiếng. Tập thơ này cũng thể hiện niềm khao khát của một nhà thơ bậc cao đối với những câu thơ trống vắng lặng lẽ của tâm hồn. Tiếng cá tanh tách gợi lên một sự mơ hồ xa xôi, một sự thức tỉnh.

          “Bài thơ câu cá mùa thu” là một bài thơ miêu tả truyện ngụ ngôn đặc biệt của Ruan Qian. Cảnh sắc mùa thu của quê hương được tả từ xa đến gần, màu sắc đậm trang nhã, cách miêu tả tinh tế gợi cảm. Tiếng gió thu thổi lá rơi, tiếng cá đập – âm thanh mùa thu quen thuộc của thôn quê, đã gợi lại trong lòng chúng tôi biết bao kỉ niệm đẹp về quê hương.

          Thơ là sự cách điệu của tâm hồn, Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, cảnh đồng nội đầy tình cảm thôn quê. Ông là một nhà thơ của làng Shanshui của Việt Nam. Đọc Điếu thu ẩm, thu vịnh ta thêm yêu quê hương hơn, yêu làng quê hơn, đất nước hơn, đất nước hơn. Tả mùa thu với Nguyễn Khuyến, yêu mùa thu cũng là yêu quê hương. Nguyễn Khuyến là một nhà thơ kiệt xuất chiếm một vị trí đáng trân trọng trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.

          Tình yêu câu cá mùa thu – Mẫu 6

          Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn có đóng góp lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. Ông thường đưa vào những trang thơ của mình vẻ đẹp mục đồng của vùng quê yên ả. “Thuốc lá thứ năm” là một bài thơ độc đáo trong tuyển tập thơ của Ruan Kunyun. Đoạn thơ này là một bức tranh thiên nhiên mùa thu vắng lặng, se lạnh và hoang vắng, đồng thời nó cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc của nhà thơ.

          Mở đầu bài thơ, nhà thơ giới thiệu sơ lược về không gian, địa điểm quen thuộc, yên tĩnh khi câu cá vào mùa thu:

          “Thu ao lạnh nước trong, thuyền chài nhỏ”

          Hình ảnh “ao thu” đặc trưng của làng quê Việt Nam đã đi vào thơ Nguyễn Khuyến. Điều mở ra trước mắt độc giả là ao thu ở vùng lõm phía Bắc. Nhà thơ dùng tính từ “trong veo” để miêu tả “Ao thu” trong veo, trong vắt như pha lê. Có lẽ, thời điểm này không phải là đầu thu mà là thời điểm giữa thu hoặc cuối thu nên trời rất “lạnh”, không lạnh cũng không mát. Đoạn thơ gợi lên cảnh trong veo của ao thu thu vắng lặng mà se lạnh. Trong vũng lạnh rộng lớn xuất hiện một chiếc thuyền nhỏ khiến không gian càng thêm lạnh lẽo. So với chiếc thuyền câu vốn đã nhỏ bé, thì chiều rộng của ao thu vẫn còn “nhỏ bé” khiến hình ảnh con thuyền nhỏ bé và cô đơn hơn. Hai câu đầu đều được nhà thơ gieo vần “eo” làm cho không khí mùa thu se se lạnh, có chút gì đó ảm đạm.

          Nếu hai câu đầu nhà thơ miêu tả cảnh câu cá mùa thu vắng lặng thì những câu tiếp theo, cảnh mùa thu càng sống động:

          “Sóng xanh lăn tăn, gió thổi lá vàng”

          Câu thơ mở đầu cho thấy sự chuyển động của vạn vật trong mùa thu, mặc dù sự chuyển động đó chỉ là mềm mại, nhẹ nhàng. Nhà thơ miêu tả “sóng xanh” là “gợn sóng”, “lá vàng” là “hơi rung rinh”. Hai nhân vật “Wei Wei” và “Qing Qing” đại diện cho sự chuyển động vô cùng nhẹ nhàng trong phong cảnh mùa thu. Nhà thơ Nguyễn Khuyến phải rất tinh tế mới cảm nhận được sự dịu dàng của thiên nhiên. Hình ảnh “những làn sóng xanh” gợi cho người đọc hình ảnh màu xanh trên mặt nước ao trong, một màu xanh rất đẹp và biểu cảm. Không chỉ có sóng xanh lăn tăn mà những “chiếc lá vàng” cũng được lồng ghép một cách tinh tế trong thơ Nguyễn Khuyến. Người ta thường nói mùa thu là mùa thay lá, mùa lá vàng và rụng. Vì vậy, Huang Ye đã đi vào nhiều trang thơ mùa thu. Trong bài thơ về mùa thu, Giảm béo đã viết:

          “Con nai vàng bối rối dẫm lên lá vàng khô”

          Nhà thơ nhìn bầu trời mùa thu và tiếp tục miêu tả khung cảnh mùa thu yên tĩnh:

          “Trời xanh mây trắng bồng bềnh, ngõ tre vắng”

          Đọc đoạn thơ này, người đọc hình dung ra khung trời hùng vĩ của mùa thu. Bởi vì bầu trời trong xanh. Nếu đáy bể được tô vẽ bằng màu “xanh” của sóng thu và màu vàng của “lá” mùa thu thì ở bài thơ này là màu “xanh” vô biên. Trong bầu trời mùa thu ấy là những đám mây “lơ lửng” “lơ lửng”. Từ “lơ lửng” gợi tả trạng thái bồng bềnh của đám mây, bồng bềnh nhưng rất nhẹ nhàng, dửng dưng. Dường như vào thu, cả không gian và cảnh vật như chậm lại. Nhà thơ quay lại cảnh dưới kia, bên kia ngõ. Hình ảnh “Ngõ tre” thật hoang vắng. “Qu” và “Kong” tượng trưng cho những khúc quanh, khúc ngoặt và những con hẻm vắng, gợi lên sự cô đơn, hấp dẫn và buồn bã.

          Trước khung cảnh mùa thu vắng lặng, hiu quạnh, nhà thơ trở về câu lạc bộ câu cá mùa thu:

          “Cá nằm lâu trên gối, dưới chân vịt chẳng chịu nhúc nhích”

          Trong cái u sầu và tĩnh lặng của mùa thu, nhà thơ lại tập trung vào việc câu cá để đầu óc thư thái hơn. “Gối lưng” có nghĩa là sự tập trung, chiêm nghiệm trước sắc thu đỏng đảnh. Cảm xúc hoang vắng và cô đơn vô tận trong bài thơ nên khiến nhà thơ bất ngờ khi có những chú cá nhỏ “đớp mồi”. Những câu thơ thể hiện tâm trạng suy tư của nhà thơ, một tâm trạng buồn, một nỗi buồn xa vắng. Nhà thơ viết bài thơ này khi đang sống ẩn dật ở nông thôn. Nếu đặt trong ngữ cảnh của thơ, người đọc sẽ hiểu rõ hơn về tình yêu trong tuyển tập. Vì trong bài thơ còn chất chứa một nỗi niềm thời đại, nhà thơ tiếc thương cho thời đại loạn lạc, tang thương lúc bấy giờ nhưng không ai cắt nghĩa được.

          Thu điếu là một bài thơ đặc sắc của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Bài thơ này là một trong những tác phẩm tiêu biểu được viết vào mùa thu. Đọc bài thơ này, người đọc không khỏi choáng ngợp trước khung cảnh mùa thu đẹp đẽ, thanh bình và tấm lòng yêu thiên nhiên của Nguyễn Côn Yên, đồng thời cũng thể hiện tình cảm sâu sắc của nhà thơ đối với thời cuộc, lòng yêu nước thương dân.

          Cảm giác nhận điếu thuốc – mẫu 7

          Mùa thu là đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Thơ mùa thu trong văn học trung đại thường miêu tả một cảnh đẹp, hoang vắng và u sầu. Những cảnh được chụp thường được ghi lại bằng những nét tượng trưng nắm bắt được linh hồn của sinh vật. Bộ sưu tập của Nguyễn Khuyến cũng có bức thư pháp này. Khi Tam đại Yên Đổ được coi là quán quân của thơ mùa thu thì ba bài “thu vịnh, thu cuối, thu mới” được coi là “tam chủ” của thơ thu Việt Nam. Một trong những điều đặc biệt nhất có lẽ là bộ sưu tập thuốc lá. Khi Chundie nhận xét về bài thơ này, cô đã viết: “Khâu Thiều là tình cảm nhất, nhưng chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng bài hát này là mùa thu tiêu biểu nhất trong một làng cảnh Việt Nam”. Không phải là một cove thu với không gian rộng lớn, mà là một thu điếu “gói” trong Ao Thu – một ao thu đặc trưng của vùng trũng Bắc Bộ – quê ngoại của ông lão. Đằng sau khung cảnh mùa thu yên tĩnh là bí mật của chủ nhân:

          Hồ thu se lạnh, nước trong vắt, thấp thoáng những chiếc thuyền câu nhỏ. Sóng xanh khẽ đung đưa theo sóng, lá vàng rung rinh theo gió. Bầu trời trong xanh với những đám mây bồng bềnh uốn lượn. Ngõ tre vắng.. Gối ôm lâu không được, dưới chân vịt cá không nhúc nhích.

          Bộ sưu tập thuốc lá, Bộ sưu tập Wan và Bộ sưu tập độ ẩm chỉ có thể được Ruan viết và giới thiệu khi anh ấy trở về quê hương sau khi nghỉ hưu. “Qúy cô” là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Cảnh sắc mùa thu của quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu tươi đẹp luôn đi kèm với tình yêu quê hương tha thiết. Cảnh đẹp mùa thu của làng quê Việt Nam dường như khoác lên mình những hình thù và màu sắc kỳ ảo dưới ngòi bút của Nguyễn Khuyến.

          Bối cảnh của toàn bộ bài viết dường như xuất hiện trong hai câu đầu tiên. Khung cảnh trong bức tranh bao trùm bởi cái se lạnh của mùa thu và nỗi cô đơn trong nội tâm của thi nhân:

          Nước ao thu se lạnh trong veo, thuyền câu nhỏ

          Ấn tượng đầu tiên của người đọc về bài thơ này có lẽ là cách gieo vần “eo” độc đáo, tinh tế và dốc đứng. Sự co lại của hai câu thơ trên tạo cho người nghe một cảm giác lạnh lẽo bao trùm lấy người nghe, vắng lặng và hiu quạnh. Gia thư nói: “Thủy chi thanh tắc ngư” nghĩa là nước trong quá mà không có cá. Tuy nhiên, Nguyễn Khuyến đã chèo ra “nước trong” để kịp ra khơi đánh cá. Vì vậy, không phải là một câu chuyện cổ tích để đặt tiêu đề cho bài thơ câu cá vào mùa thu này. Hay điều này thể hiện cảnh ngộ của nhà thơ? Nguyễn Thiến, một nho sĩ, thời bấy giờ đã đỗ đầu khoa thi và làm quan lớn, nhưng trước nhiều biến động của đất nước, ông phải từ quan về quê dạy học. Vua và Ôn Nhược chỉ biết cầu an theo pháp luật, học giả thấy rõ hoài bão giúp dân, giúp nước quá khó, chẳng khác nào “mớm chài trong nước” đã nói ở trên. câu. So sánh vớ vẩn giữa thuyền và ao, đó chẳng phải chính là lập trường của Nguyễn trước những khó khăn chung quanh hay sao? Bài thơ này lời lẽ chân tình, vần giản dị, gần gũi, có sức gợi cảm sâu sắc, phải là người có tầm nhìn xa và lòng yêu nước vô bờ bến. Miêu tả quang cảnh lúc đó từ tâm hồn đến khuôn mặt.

          Xuân Diệu: “Cái vui của bài hát nằm trong làn điệu xanh: ao xanh, bờ xanh, sóng biếc, tre xanh, trời xanh, nước biếc”. Không chỉ có màu xanh, những bức tranh thiên nhiên còn được vẽ bằng nét vàng ở hai câu thực:

          Sóng xanh lăn tăn gợn nhẹ cùng chiếc lá vàng trước ngõ

          Mùa thu tiếp tục hiện ra với hình ảnh “sóng xanh”, “lá vàng”. Khung cảnh chuyển động lặng lẽ. Tác giả rất nhạy cảm và tinh tế trong việc nắm bắt những biến động tinh vi của tạo vật. Đó là sự chuyển động “hơi gợn” của sóng biển, sự đung đưa nhẹ nhàng của những chiếc lá vàng và sự mong manh của hơi nước trên mặt bể. Sự tương phản giữa hai câu thơ là tuyệt vời, và các vấn đề có liên quan chặt chẽ với nhau: gió thổi và lá rơi. Các tính từ, trạng từ “bịch”, “tí”, “vàng”, “nhẹ”, “vèo” được sử dụng nhuần nhuyễn, giàu hình khối tạo nên một bức tranh xanh, vàng vừa trang nhã, vừa gợi sự linh hoạt sáng tạo. Nghệ thuật đảo trái phải độc đáo của tác giả làm cho cuộc tình này thêm phần tĩnh tại. Im lặng thật mờ nhạt và vô hình, và cảm nhận được khoảng lặng ấy, nhà thơ này xứng đáng là một người yêu thiên nhiên và cuộc sống.

          Như đã nói ở trên, tác giả sử dụng âm cuối “eo” ở đầu bài thơ, nhưng cảnh vật không bị giới hạn mà được mở rộng về chiều cao, tạo cảm giác trống trải trong cảnh vật:

          Mây trắng bồng bềnh, trời trong xanh, con đường quanh co dẫn lên trời tre

          Bầu trời xanh luôn là biểu tượng đẹp đẽ của mùa thu. Độ cao được xác định bởi sự “lơ lửng” của những đám mây và độ sâu của bầu trời xanh. Màu sắc của bầu trời mùa thu dường như đã ám ảnh Nguyễn Khuyến sâu sắc đến nỗi trong những bài thơ về mùa thu của ông thường nhắc đến: “Trời thu trong xanh” – Thu trong vịnh hay “bầu trời nhuộm xanh” —— Thu dưỡng. , màu xanh của bầu trời không chỉ là một màu, có lẽ đó còn là quan niệm nghệ thuật của nhiều ẩn ức, là chiều sâu của tâm hồn trăn trở của nhà thơ. Trước đây, nguyễn du đã viết về mùa thu:

          Lóng lánh đáy nước lên trời khói vàng tuổi trẻ

          Ngay cả Ruan Kun cũng vậy. Mở ra không gian của riêng mình đã thôi thúc Nguyễn Khuyến trở về với khung cảnh làng quê quen thuộc, vẫn là hình ảnh lũy tre, vẫn là bầu trời thường nhật, những con ngõ ngoằn ngoèo… tất cả bổ sung cho khung cảnh Bắc bộ muôn màu muôn vẻ. Nếu chiều cao được đo bằng bầu trời thì chiều sâu chính là độ “biến dạng” của lũy tre ngõ xóm. Từ “không” có nghĩa là sự im lặng không bóng dáng, không chuyển động, không âm thanh. Vì vậy, hai dòng thơ này gợi lên sự trống trải, cô đơn trong lòng người.

          Sáu phần đầu, tác giả cho ta thấy một bức tranh mùa thu từ gần đến xa, từ xa đến gần. Bức tranh xanh thẫm, buồn hiu quạnh, chứa chan nỗi niềm của một thi nhân. Thu về, trời thu còn là không gian cho quan niệm nghệ thuật: lòng thi nhân lặng lẽ, tĩnh lặng. Tất cả những suy nghĩ và giải thích được cô đọng trong hai câu ở cuối:

          Đẩy gối, ôm lâu cá dưới chân vịt không nhúc nhích

          Hình ảnh một người xuất hiện, ngồi ôm gối, trong trạng thái thiền định. Nhà thơ đang ngồi câu cá, không để ý đến việc câu cá, bỗng nghe tiếng chân vịt “cộp cộp” của con cá giật mình. Không gian phải thật yên tĩnh mới nghe được giọng nói nhẹ nhàng ấy, trái tim phải rất trong trẻo. Nói về câu cá, tôi thực sự cảm nhận được khung cảnh mùa thu, và trái tim tôi từ trên trời rơi xuống. Thái độ của Shinobi: “Ôm gối”; Chờ đợi: “Không lâu đâu”; Sự bừng tỉnh mơ hồ: “Cá đâu biết bơi”. Nhà thơ dùng cảnh để tả tình. Câu cá chỉ là cái cớ để tìm sự bình yên trong tâm hồn. Âu cũng là vì nước, vì dân. Đất nước chúng ta thật tươi đẹp và người dân của chúng ta thật khốn khổ. Từ đó hoài bão giúp đỡ mọi người mỗi ngày một khó khăn hơn cũng tạo nên chướng ngại trong tâm trí ông, tạo ra sự chán chường, cô đơn. Làm sao thịnh vượng và niềm vui đến với trái tim của một người cô đơn:

          Không cảnh buồn, người buồn, không niềm vui

          Tuyển tập thuốc lá không chỉ là một tập thơ. Từng câu chữ xuất phát từ cảm quan của nhà thơ tài hoa đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của nông thôn Việt Nam. Ai biết quê hương của họ rất đẹp và mục vụ? Càng đọc càng yêu nước. Kể từ đó, mong muốn bảo vệ và phát triển đất nước này của chúng tôi ngày càng mạnh mẽ hơn.

          Hơn thế, sưu tầm thuốc lá đã để lại cho bao thế hệ chúng ta những bài học quý giá. Lòng tự hào dân tộc không cho phép chúng ta đầu hàng kẻ thù. Cũng như lão nhân, không muốn phế quan mà ở lại làm quan. Hay bán rẻ lương tâm, bán rẻ đồng bào để có chức vụ nào đó rồi chỉ hận bản thân chưa làm được gì cho Tổ quốc, cho đất nước. Dù chỉ là một chút thôi, tôi mong các bạn và tất cả những người trẻ đang sống và làm việc an lạc và mãn nguyện hôm nay sẽ cố gắng hơn nữa cho công cuộc xây dựng đất nước.

          Tất cả các tác phẩm trong tuyển tập thơ của Ruan Guanyin đều tuyệt vời. Tuy nhiên, nếu tôi phải chọn một trong những bài thơ yêu thích của mình, thì đó sẽ là Điếu thuốc lá. Tác phẩm này có thể được gọi là một kiệt tác của văn học cổ điển Trung Quốc. Bài thơ này như vẽ nên một bức tranh mùa thu trước mắt tôi, rất chân thực. Âm nhạc độc đáo, vần điệu có phần phiêu nhưng tự nhiên, không cứng nhắc. Theo Hoàng đế Xuan, Ruan Kunyan thực sự là một nghệ sĩ có tay nghề cao. Sở thích và tài năng của nhà thơ bổ sung cho nhau. Với tình yêu quê hương, đất nước và con người Việt Nam, từng chữ, từng câu tác giả nhắc đến đều khơi dậy bao cảm xúc trong tâm hồn người Việt Nam chúng ta. Ông Tam Nguyên đúng là nhà thơ bình dị của nông thôn Việt Nam.

Kiểm tra tiếng Anh trực tuyến

Bạn đã biết trình độ tiếng Anh hiện tại của mình chưa?
Bắt đầu làm bài kiểm tra

Nhận tư vấn lộ trình từ ACET

Hãy để lại thông tin, tư vấn viên của ACET sẽ liên lạc với bạn trong thời gian sớm nhất.