Phân tích bức tranh Hai đứa trẻ về phố huyện lúc hoàng hôn gồm 18 bài văn mẫu kèm gợi ý làm văn chi tiết nhất. Bức tranh phố huyện lúc chiều tà được miêu tả trong tác phẩm thể hiện rõ phong thái, tài hoa và những thông tin nhân văn mà tác giả muốn gửi gắm.
18 bài văn mẫu đầu tiên được phân tích về Phố huyện chiều tối cực hay trong bài viết dưới đây giúp thầy cô và các em học sinh lớp 11 ôn tập, củng cố kiến thức, kỹ năng đã học trên lớp. . Đồng thời, điều này cũng sẽ cùng các em nâng cao vốn văn học và nâng cao khả năng sáng tác trong quá trình ôn tập, để đạt kết quả tốt trong các bài kiểm tra, bài thi học kỳ I.
Phân tích dàn ý về bức tranh chiều tà phố huyện
I. Mở bài:Giới thiệu truyện ngắn và hình ảnh một thị trấn nhỏ trong Hai đứa trẻ
Ví dụ: Thạch Lam là nhà văn viết truyện ngắn đặc sắc, tác phẩm của ông đi sâu vào những hình ảnh giản dị đời thường, những bức tranh đời thường. Chính vì những yếu tố này mà các tác phẩm của anh đã được rất nhiều người yêu thích và ưa chuộng. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là truyện ngắn về hai đứa trẻ. Các tác phẩm thể hiện cuộc sống ở những vùng đất nghèo khó và những mong ước nhỏ nhoi của người dân nơi đây.
Hai. Nội dung chính bài:Phân tích hình ảnh phố huyện trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”
1. Thị trấn vùng lúc hoàng hôn:
- Bức tranh làng quê Việt Nam quen thuộc
- Tiếng ếch kêu
- Tiếng muỗi vo ve
- Trống rỗng
- Hoàng hôn mang nét đặc trưng của làng quê Việt Nam
- Bóng tối bao trùm toàn bộ khu nhà, lấp đầy khu nhà bằng bóng tối
- Đối với người dân nơi đây, bóng tối như một nỗi ám ảnh
- Hoạt động của con người chỉ có thể dựa vào những ánh đèn chập chờn, chập chờn
- Cuộc sống bế tắc
- Hy vọng dưới ánh đèn của đoàn tàu
2. Phố khuya trên phố
Ba. Phần kết:Hãy nêu cảm nhận của em về hình ảnh phố huyện trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
Ví dụ: Hai truyện ngắn thiếu nhi viết về cuộc sống khó khăn của người dân vùng nghèo. Một hình ảnh nổi bật trong thời gian gian khổ. Đồng thời ta cũng thấy được niềm tin, tình yêu quê hương của tác giả được thể hiện trong truyện ngắn.
………………………………………….. .
Xem thêm: Phân tích phác thảo bản đồ thị trấn huyện lúc chạng vạng
Bản đồ tư duy về thị trấn nhỏ ở múi giờ buổi tối
Phân tích hình ảnh thị trấn nhỏ theo múi giờ buổi tối
Ví dụ 1
Khác với các nhà văn đương đại cố gắng tìm kiếm cái mới hay cái vĩ đại và khác thường, Lâm Trạch Lâm một mình lặng lẽ trở về với giá trị nguyên bản ẩn chứa trong cuộc sống đang hấp hối. Anh ấy cũng không cố gắng xây dựng những câu chuyện hoàn chỉnh, bởi vì cuộc sống không bao giờ trọn vẹn với những măng đá. Truyện của ông thường không có cốt truyện cụ thể. Mỗi câu chuyện là một bản trữ tình buồn. Phong cách này được phản ánh rõ ràng trong công việc của cả hai đứa trẻ. Hình ảnh Quzhen và số phận của những con người chìm trong màn sương mù của những năm tháng hấp hối thật cảm động.
thạch lam thường xoáy sâu vào đời sống nội tâm của nhân vật, với những cảm xúc, tình cảm mơ hồ, mong manh nhưng rất tinh tế. Anh đi vào thế giới nội tâm của nhân vật rất chậm rãi, nhẹ nhàng, sợ gây ồn ào phá vỡ thế giới đó. Anh tiết kiệm từng chút một, chỉ nhìn chằm chằm vào một trạng thái trong một thời gian dài, một sự chuyển đổi, cho đến khi nó dừng lại hoàn toàn. Vì vậy, đọc truyện thạch nhũ chỉ có thể cảm nhận bằng trái tim và bằng mọi giác quan chứ ít khi tóm tắt được một cách mạch lạc diễn biến của toàn bộ cốt truyện.
Cấu trúc của hai con đơn giản. Các chi tiết và kết cấu đơn giản, nhưng tư tưởng sâu sắc và phức tạp. Câu chuyện chỉ kể hình ảnh hai đứa trẻ ngồi trên chiếc giường nhỏ dột nát nhìn đường phố dần khuất vào bóng tối, dù “mắt mờ” nhưng vẫn cố thức, chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua khi trời sáng. đèn, rồi đóng cửa. Cửa hàng ngủ. Không ai có tâm hồn nông cạn sẽ đánh giá cao kiểu kể chuyện nhàm chán, suốt ngày đêm như vậy. Tuy nhiên, tác phẩm này đã khiến nhiều người phải kinh ngạc và xúc động. Vấn đề là măng đá khéo léo nắm bắt bước đầu tiên của người đọc vào thế giới của câu chuyện.
Dưới nét cọ xanh, hai đứa trẻ không hề nhàm chán mà ngược lại, rất ám ảnh, thấm thía, vô tận dư vị, với những cảm xúc buồn bã và những lời thủ thỉ trìu mến.
Tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh quê sống động, như một bài thơ về quê hương thân quen mà thơ mộng. Chiều không biến mất mà len lỏi trong từng chữ, từng câu, bám lấy đất trời, dẫn dắt con người vào một thế giới cảnh sắc yên bình. Những nét bút thanh mảnh, hình khối măng đá vẽ nên những bức tranh sống động chỉ với vài nét vẽ, đường nét, màu sắc, âm thanh, mùi vị đưa người đọc về với tiên cảnh tĩnh tâm. Hương vị của cô là buồn, và những gì thân thuộc luôn là quê hương, làng mạc và làng quê Việt Nam. Nó gợi lên một sự gắn bó ấm áp với vùng quê lam lũ. Nơi ấy không chỉ có những khung cảnh thanh bình, thơ mộng, yên bình mà còn có một cuộc sống u ám, đen tối.
Sức mạnh áp bức của truyện ngắn nằm ở những chi tiết nặng tính nghệ thuật. Các măng đá có sự đảo chiều thú vị. Anh lặng lẽ lục lọi trong đống tư liệu mà người khác không để ý. Khi nhà văn phát hiện ra chất bột vàng trong đá, ông khẽ mỉm cười. Hai đứa trẻ không có những tình tiết gay cấn, ly kỳ nhưng ít ai dám chắc rằng một khi bước chân vào thế giới của thị trấn nhỏ nghèo nàn và yên tĩnh ấy, tâm hồn họ sẽ nhẹ bẫng, vô hồn và vô cảm.
Truyện ngắn dành cho hai đứa trẻ từ chiều đến tối trong một ngày. Khung cảnh của truyện chỉ chuyển động ba vùng sáng tối: chạng vạng-chợ nâu-đêm. Nhưng nó vẫn để lại nỗi ám ảnh khôn nguôi trong lòng không biết bao thế hệ độc giả. Vì vậy, sức hấp dẫn của câu chuyện thiêng liêng này không đến từ những chi tiết nghệ thuật ly kỳ, hấp dẫn. Sức hút bất tận của hai đứa trẻ vốn dĩ được giải tỏa từ hơi ấm tình người được lan tỏa trong câu chuyện.
Đọc “chiều, chiều. Đó là một buổi chiều êm ả như lời ru, gió hiu hiu thổi, tiếng ếch nhái ngoài đồng vọng về. Trong quán mờ tối, muỗi đã bắt đầu vo ve, lặng lẽ Ngồi lặng lẽ bên bóng đen những viên bi sơn. Đôi mắt em dần chìm trong bóng tối, nỗi buồn quê mùa thấm vào trái tim ngây thơ của em. Em không sao, nhưng cuối ngày em buồn lắm.”
Hóa ra tâm trạng của nhân vật trong buổi chiều tàn nơi phố nhỏ cũng chính là tâm trạng của chúng ta trước sự sống của ngày bắt đầu tàn, ánh sáng nhường chỗ cho bóng tối, cuộc chia ly nhường chỗ cho sự đoàn tụ, sự tha hương nhường chỗ cho lối về… ..Văn chương giúp ta gìn giữ những cảm xúc của tình người, giúp đánh thức những sâu thẳm tâm hồn đã đánh mất từ lâu. Hai đứa trẻ, tuy thiếu một cốt truyện hấp dẫn, nhưng đủ hấp dẫn để đọc vì nó giúp nắm bắt và đánh thức những tâm hồn như vậy.
Giống như một lữ khách bền bỉ, tìm kiếm tiềm năng trong cuộc sống mục vụ, sưu tầm và ghép nối những vần thơ, Lin Zelin lặng lẽ gửi gắm đến mọi người một thông điệp: vẻ đẹp của cuộc sống có thể được nắm bắt từ khung cảnh, những người bình thường, Chúng ta không để ý . Cảnh mặt trời lặn để lại trong lòng ta một nỗi sầu muôn thuở. Nhưng hơn cả là “tiếng trống đồng quê đánh trống gọi chiều từng hồi. Phía tây đỏ như lửa cháy, mây đỏ như than sắp tàn. Hàng tre làng trước mặt ngả màu đen, Hình bóng trên bầu trời có thể nhìn thấy rõ ràng.”
Quê hương Việt Nam bao giờ cũng đẹp, dịu dàng và êm ả như chính tâm hồn của Liên, một cô gái tinh tế, nhạy cảm, đầy trân trọng và nâng niu một mảnh hồn đã quen với làng quê. Tiếng ếch nhái, tiếng muỗi kêu như một bản đồng ca vang lên nhắc nhở mỗi chúng ta phải biết trân trọng, yêu quê hương đất nước.
Ngôi làng của hai đứa trẻ nghèo, bị bỏ rơi, không có tiếng nói vẫn gợi lên trong lòng ta những cảm xúc chân thành: “Đêm sớm, đêm hè mát như nhung Trên vòm trời, ngàn sao tranh nhau lấp lánh, hòa cùng ánh sáng của những con đom đóm bay trên mặt đất hay trên cành cây. Bình yên nhìn lên bầu trời đầy sao, tìm dải ngân hà và theo đàn vịt trời. Vũ trụ sâu thẳm và bao la dường như chứa đầy những bí mật, xa cách và tê tái trong tâm hồn của những con đom đóm. hai đứa trẻ, thế là hai chị em Lại nhìn xuống đất, nhìn ánh sáng thân mật quanh ngọn đèn. Lắc lư trong gian hàng của chị tôi.”
Màu xanh tranh cỏ đánh thức một miền ký ức xa xăm trong mỗi chúng ta về một tuổi thơ tươi đẹp. Ngước nhìn bầu trời đêm, tìm dải ngân hà, vịt chạy theo sao Thổ, v.v… Ai mà không có những kỉ niệm tuổi thơ ngọt ngào và đẹp đẽ như thế? Hai đứa trẻ đánh thức trong ta hình ảnh cái đẹp thăng hoa từ những hình ảnh nhỏ bé đời thường. Nó nhắc nhở tất cả chúng ta phải trân trọng và đề cao tinh thần dân tộc. Bởi đó cũng chính là hồn dân, hồn quê, hồn của những con người mãi mãi trung thành với quê hương, đất nước.
Khi còn là đứa con thứ hai, lòng tôi đa sầu đa cảm, trong lòng có đất, có người, có quê. Một làng quê thôn dã với bức tranh nhân văn hiu quạnh, kiếp người mỏi mệt như tiếng con đuông khóc trong chiều tàn, nhưng tấm lòng nhân hậu ấm áp đã in dấu trong lòng người đọc.
Ví dụ 2
“Tự lực văn đoàn” là một nhóm tùy bút phát triển mạnh trong thời kỳ văn học Lãng mạn 1930 – 1945. Nhóm tùy bút này có những cây bút rất độc đáo, sáng tạo và có tầm ảnh hưởng lớn. Hoa hậu vào thời điểm đó. Bên cạnh những bài thơ được các nhà thơ Xuân Diệu, Chế Lan Viên… so sánh với “ngôn tình xưa”, nhà văn Thạch Lam còn được biết đến nhiều ở nhóm tùy bút Truyện ngắn Làng. Với “Tảo Phong”, “Pear Blossom’s Lady’s Family”… đã khẳng định vị thế của ông trong giới văn học trong nước. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. Trong các tác phẩm của mình, anh đã khắc họa chân thực, rõ nét và vô cùng lãng mạn cảnh chiều tối ở những con phố vắng người qua lại, hình ảnh tuyệt vời của cô gái nhỏ được nối liền với những dòng cảm xúc và ký ức, thật đau lòng.
Gọi là truyện, nhưng truyện ngắn của nhà văn Lin Zelin thường không mang tính tự sự hoặc cốt truyện phức tạp. “Hai đứa trẻ” được viết dưới dạng du hành thời gian, có hiện tại và quá khứ, nhưng không có mở đầu hay nút thắt. Tác giả dường như muốn miêu tả không gian của một vùng quê nghèo khó có đường ray xe lửa chạy qua, niềm hạnh phúc của lũ trẻ được gói gọn trong cảnh ngắm nhìn chuyến tàu đêm. Tác giả sử dụng những chất liệu rất đỗi bình dị hàng ngày để miêu tả cảnh cộng đồng hiện lên với nỗi buồn từ người đến cảnh, diễn biến tâm trạng của cô gái nhỏ trước giờ phút chứng kiến cái chết. Đó là sự kết thúc của một ngày dài khiến người đọc đồng cảm với những con người nơi đây.
Nhà văn Thạch Lam vẽ nên bức tranh phố thị miền sơn cước lúc hoàng hôn, sau một ngày dài vạn vật khoác lên mình một màu u ám, thiếu sức sống. Bức tranh ấy, từ nhân vật đến khung cảnh xung quanh đều toát lên vẻ u uất, u ám. Ngày tàn, những khu chợ, những con người cố gắng bám lấy sự sống trên mảnh đất cằn cỗi đó… tất cả những điều này góp phần tạo nên không khí nghèo đói và hấp dẫn ở các thị trấn trong vùng. Khung cảnh cuối ngày như sống động hơn với “tiếng trống khua chiêng” và “tiếng ếch kêu” của “tiếng chiều vọng ra từ những túp lều nhỏ trong cộng đồng”. Ngoài đồng còn có cả “tiếng muỗi vo ve”, chiều tà làm cảnh vật phai nhạt, màu chiều buồn cho biết ngày đã qua, tuy âm thanh được miêu tả trong trẻo, ngân dài nhưng lại có. không làm người ta cảm thấy người ta mệt mỏi Sau một ngày vui vẻ hối hả thay vào đó là sự trầm mặc Tiếng thú, tiếng trống vọng xa xa khiến ta cảm nhận được sự vắng lặng, hiu quạnh của phố huyện, bởi chỉ có một số nhỏ nhoi. âm thanh khuấy động không gian nơi đây.Trong âm thanh ấy Trên nền là những hình ảnh, màu sắc u buồn “phía tây đỏ như lửa” và những đám mây “hồng như than sắp tàn” Sắc hoàng hôn, đỏ cam , và màu đỏ ối quyện vào nhau, và sắc hoàng hôn chỉ còn thấy ở miền quê. Chỉ chốc lát, những sắc màu ấy sẽ bị thay thế bằng màn đêm thăm thẳm, bóng tối nhấn chìm vạn vật. Dường như trong tác giả có một sự nuối tiếc và nhớ nhung câu.Người về phố, phố huyện như cố cảm, nghe và nhớ những giây phút cuối ngày.Cảnh thiên nhiên quen thuộc sao lại hoang vắng đến thế?Hoàng hôn đẹp và lộng lẫy như thế mà sao lại hiện ra ảm đạm quá.”
Trên nền không gian tối tăm u ám, những bức chân dung hiện lên cũng mang nét buồn man mác. Cảnh cuối chợ cùng với sự có mặt của người dân càng làm tăng thêm vẻ hoang tàn cho khu ổ chuột đó. “Chợ đóng cửa lâu rồi”, “Mấy gánh hàng rong về muộn dọn dẹp, buôn chuyện vội vã”, trên chợ chỉ có rác, vỏ chợ, vỏ bưởi… . . . . “Những con người nơi đây hiện ra, tuy không lẻ loi, đơn độc, nhưng cái nghèo dường như đã ăn mòn máu xương, mạng sống của họ”, những đứa trẻ nghèo gần chợ ngồi xổm dưới đất, đi tìm, để nhặt xiên tre, xiên que, hoặc bất cứ thứ gì còn sót lại. “Trẻ em nghèo chỉ biết ăn cơm, đồ chơi người ta bỏ chợ. Người dân vùng này tính cách trái ngược, hoàn cảnh khác nhau nhưng chữ “nghèo” rất giống nhau. Dù vất vả nhưng vẫn không đỡ nổi”. họ”, bà nghiện rượu lúc nào cũng say, cười trong lòng, hai chị em Liên và An còn nhỏ đã phụ mẹ quản lý quán tạp hóa, rồi gánh phở từ nhà bác Siêu, ở đây lâu năm. phố huyện nghèo, quà cáp xa hoa, rồi gia đình chú mù sống bằng nghề hát, mong chút lòng tốt của khách qua đường… Số phận ấy, con người tưởng như chết héo, nhưng họ vẫn bám mảnh đất này mà sống với nhau . Cuộc sống của họ mòn mỏi, lay lắt, tưởng như chỉ đủ sống qua ngày. Có phải nghèo đói, buồn chán đã vắt kiệt sức sống, hay hoàn cảnh bất hạnh đã đẩy họ đến mảnh đất này để giao lưu, sẻ chia.
Bức tranh về một thị trấn tạm thời nghèo khó dưới con mắt của Lian Baobao trở nên ảm đạm và ảm đạm hơn. Là nhân vật trung tâm, điểm nhìn của tác giả cũng được xuất phát từ nhân vật này. Cô bé cảm nhận được sự lãng phí trên đường phố của khu dân cư, cảm thương cho số phận bất hạnh của mẹ và chị, thương bà cụ và cũng tiếc cả thời gia đình khá giả còn sống nơi đây. . Một thành phố đầy sung túc. Đầu óc nhạy cảm, từng trải và lối suy nghĩ trẻ trung khiến Lianwa cảm thấy “hơi ẩm dâng lên, lẫn với mùi bụi quen thuộc”, và cái mùi ẩm mốc ấy lại trở thành một thứ quen thuộc trong cuộc sống. Một đứa trẻ nên có cái nhìn ngây thơ, non nớt, lạc quan và quan tâm đến cuộc sống, nhưng ở Lian, cô cảm nhận được khung cảnh tương tự, với sự yên bình, buồn bã và tiếc nuối. Có sự buông bỏ. Dù trong hoàn cảnh ngặt nghèo, cô bé vẫn cảm nhận được sự vất vả, nhọc nhằn và tình thương của hai mẹ con, và còn rất cảm động “rót đầy ly rượu” cho bà lão điên. Xót xa cho mấy em nhặt rác nhưng vì không có tiền trả nên em ngậm ngùi quay đi, và em cũng không quên dành tình cảm của chị gái cho cậu em trai. Lianlian là nhân vật duy nhất trong tác phẩm miêu tả diễn biến tình cảm, đồng thời nhà văn Lin Zelin cũng miêu tả khung cảnh buổi chiều của một vùng quê nghèo dưới góc nhìn của Lianlian. Qua góc nhìn này, việc miêu tả không chỉ đảm bảo tính cụ thể, chân thực mà còn đảm bảo chất trữ tình, tình cảm lãng mạn của cô gái mới lớn.
thạch lam vẽ bằng sự tinh tế và yêu thương bức tranh phố vùng hoang vắng, buồn bã, người đọc có dịp sống trong không khí của một phố vùng nghèo, tiếc nuối cho số phận bất hạnh, buồn tẻ của nó. Nhạt đây, ấy vậy mà sâu thẳm trong những con người ấy vẫn ẩn chứa niềm tin, sự nỗ lực, niềm tin vào bản chất tốt đẹp vốn có của con người, cùng một kỳ vọng ánh sáng cuộc đời sẽ soi rọi cho họ. Khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp nhưng đượm buồn và sự khắc khoải của con người cũng khơi dậy trong lòng người đọc những trăn trở về cuộc sống mệt mỏi, đồng thời thể hiện sự trân trọng, yêu mến những con người có ước mơ và sức sống. Giọng văn miêu tả độc đáo và phù hợp đã tạo nên khí chất của ông và khiến ông nổi danh trong lịch sử.
Mô hình 3
Thạch Lam là một trong những nhà văn độc đáo nhất của nền thơ ca Việt Nam. Truyện của Thạch Lam không có cốt truyện, nhưng qua các thế giới tình cảm, tâm trạng của nhân vật, tác phẩm của ông vẫn toát lên cái tình, một cảm xúc thơ tự nhiên, tha thiết. Thông qua các tác phẩm của mình, ông bày tỏ sự đồng cảm, xót xa trước thân phận và cuộc sống của những người dân nghèo khổ. “Hai đứa trẻ” là một tác phẩm như thế! Bằng sự nhạy cảm của mình, Thạch Lam đã vẽ nên bức tranh phố huyện trong “Hai đứa trẻ” – bức tranh cảnh sống trong vùng nước lũ, sống cuộc đời tăm tối, đơn điệu.
“Hai đứa trẻ” kể về cuộc sống của hai chị em ở phố xá, cuộc sống cơ cực trước Cách mạng tháng Tám. thach lam muốn tri ân những mong ước nhỏ nhoi của những người lao động nghèo nơi phố nghèo, xã hội chật hẹp.
Ngay từ đầu truyện, bức tranh phố huyện được dựng lên thật giản dị, nhẹ nhàng mà dung dị. Thạch Lâm sử dụng tất cả các giác quan: thị giác, âm thanh và cảm nhận để tạo nên một khung cảnh phố thị xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc điển hình.
Bức tranh phố huyện bắt đầu bằng khung cảnh thiên nhiên lúc chiều tà, phát triển qua lời kể và cảm xúc của nhân vật, nhưng mở đầu bằng những hình ảnh, âm thanh của thiên nhiên và một phiên chợ đang lụi tàn.
Hình ảnh trời chiều gợi lên cảnh thiên nhiên lúc chạng vạng: “phía tây đỏ như lửa, mây muôn màu như than”. Cảnh chiều rực rỡ, đẹp đến sững sờ, làm nổi lên cái hồn của quê hương. Và trong khung cảnh ấy, không thể thiếu tiếng “trống trống” vàng vọt đi vào không gian dần yên tĩnh, xen lẫn với âm thanh và “tiếng” của “ếch đồng ộp ộp trong gió”. tiếng muỗi vo ve”, tất cả quyện vào nhau thành một âm thanh quen thuộc gợi lên vẻ đẹp thanh bình của một “buổi chiều thanh tĩnh” nơi thôn quê.
Cuộn tranh thiên nhiên quê hương tươi đẹp vẫn giữ được phong cách thơ mộng, mang hồn quê hương. Nhưng mà, mỗi một chữ trong khung cảnh ấy, mỗi một chữ đều mang theo một loại âm trầm buồn tẻ, mục nát đến mức buồn tẻ. Cảnh hoàng hôn thơ mộng như một khoảnh khắc bừng sáng cuối cùng, chập chờn rồi chợt tắt, rất buồn. Vì vậy những âm thanh quen thuộc như “trống trống”, “ếch, muỗi” đều gợi lên sự đều đặn, buồn bã, đơn điệu, đều đều.
Cảnh thiên nhiên buổi chiều tiếp theo là hình ảnh một phiên chợ quê cuối ngày. Hình ảnh chợ quê luôn gợi cho người ta nhớ về sự hối hả, tấp nập, tươi đẹp của đồng quê nhưng hình ảnh chợ ở đây là một phiên chợ đã hết khi “chợ gặp phố”. Người đã lâu không về, tiếng nói đều đã khuất”, “Trên mặt đất chỉ còn rác, vỏ bưởi, vỏ chợ, lá nhãn, lá mía”. một vùng buồn tẻ, thê lương. Không những thế, nó gợi lên sự nghèo nàn của cuộc sống thôn quê. Hình ảnh chợ quê có thể là hình ảnh xao xuyến nhất của một vùng thì ở đây, nó gợi lên một nỗi buồn man mác, đượm buồn.
nổi bật nhất trong hình ảnh thiên nhiên của thị trấn là tâm trạng của Lian En, một trong những cư dân của thị trấn nghèo khó này. Điều ẩn chứa trong tâm trạng cô là một nỗi buồn sâu thẳm của một trái tim nhạy cảm và trong sáng. Nỗi nhớ quê da diết nhưng chị vẫn ngửi thấy mùi quê hương, mùi đặc trưng nhất của phố thị nghèo khó này “mùi ẩm thấp bốc lên, cái nóng ban ngày lẫn với mùi cát quen thuộc, khiến người ta cảm thấy Phụ nữ sẽ nghĩ về vùng đất này và mùi hương độc đáo của ngôi nhà này.Tâm trạng của Liên Chân cũng như hình ảnh của khu ổ chuột này vừa tĩnh lặng vừa buồn bã.Đó là nỗi buồn của một cô gái, nhạy cảm với những cảm xúc xung quanh nàng, mơ hồ và mong manh nhưng ăn sâu vào lòng người “Nỗi buồn mục đồng thấm vào tâm hồn thơ ngây của nàng”, “Tôi thấy xót xa trước ngày tận thế”. Nỗi buồn của Liên Chân cũng là nỗi buồn của Lin trước mặt xã hội đương đại.Trong xã hội này, thời gian như đứng lại trong chốc lát, bất biến và lòng người thật hoang vắng.
Bức tranh ở Khúc Trấn không chỉ thể hiện cảnh hoàng hôn đỏ rực và buồn bã, mà còn xuất hiện trong cuộc sống của người dân Khúc Trấn – cuộc sống của những người đã chết.
Điều đầu tiên đập vào mắt tôi là hình ảnh những đứa trẻ xuất hiện trên đường phố của cộng đồng. Không phải là hình ảnh những đứa trẻ nô đùa, chạy nhảy trên thảm cỏ xanh trong công viên mà là hình ảnh “những đứa trẻ tội nghiệp ngồi xổm dưới đất bên chợ rau vừa đi vừa khám phá” ở hậu cảnh. Cái chợ phố huyện ấy”. Cuộc sống quá tất bật, nghèo đói đã buộc cuộc sống phải lụi tàn, và những đứa trẻ chỉ biết sống nhờ những đống rác bỏ lại ngoài chợ. Gieo hạt hy vọng lên rác. Một đống chợ chết. Cuộc đời họ, tương lai của họ thật tăm tối, thật bế tắc Và chính nhân vật Liên cũng cảm thấy thương cảm cho những số phận ấy nhưng “bản thân cô chẳng có gì để cho họ cả”.
Bức ảnh tiếp theo của bé là hình ảnh đời thường của cô tiểu thư. Cô xuất hiện trong không gian ngày càng tăm tối của Quzhen với hình ảnh “chiếc giường nhỏ trên đầu và đống đồ đạc trên tay”. Em gái tôi cũng là một công nhân nghèo ở thị trấn vùng da đen đó. Ban ngày thì “mò cua bắt tôm”, tối “dậy sớm tham ăn” mở quán nước, chỉ để vơ vét được ít tiền lẻ nhưng “chẳng được bao nhiêu”. Thân như con cò lội bờ sông, lang thang trong sương sớm, hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ truân chuyên:
“Lặn trong vùng hoang dã”
Nhưng cửa hàng của chị cũng nhỏ và gầy guộc như chị, bởi “cửa hàng của chị” toàn là những thứ chị xách được, xách được, xách được, xách được. Cửa hàng đó chỉ bán trà xanh và thuốc lá cho “một số gạo hoặc một người lái xe tải, và đôi khi là những người thân của một người lính hoặc giáo viên đã mất ở quận gọi là tổ tôm”. Khách hàng của cô đơn giản là những người đang sống như cô, đang sống như cô. Họ chỉ sẵn sàng bước vào cửa hàng của cô ấy khi biết rằng cửa hàng của cô ấy không kiếm được nhiều tiền. Vì thế, trước sự dò hỏi của Liên Chân chỉ biết thở dài: “Ôi, sớm muộn gì cũng phải mất”. Phải chăng cô đang thở dài cho cuộc đời vô vị của mình, một tiếng thở dài chán chường vì cuộc sống quá đơn điệu, chỉ biết lang thang, không có tương lai tươi sáng và cuộc sống vô nghĩa.
Không chỉ số phận của em gái Mi Chefu mà cuộc sống của hai chị em Lian An và Lian cũng trở nên vô hồn ở quận này. Chuỗi ngày sinh tử của gia đình, bắt đầu từ biến cố “thầy mất dạy” đã đẩy gia đình đến bế tắc. Không thể ở lại trên những con phố nhộn nhịp của Hà Nội nữa, cả gia đình chuyển về quê để tìm cách phá vỡ những bế tắc xung quanh họ. Trở về nhà, mẹ của Lian trở nên lộn xộn, và hai chị em được gửi đến để trông coi “gian hàng do bà già thuê”. Cửa hàng tạp hóa nhỏ chỉ có vài que diêm, vài bánh xà phòng, ít rượu… nhưng khách chỉ gọi “nửa bánh xà phòng”. Chính gian hàng nhỏ bé ấy đã để lại trong mắt người đọc ấn tượng về cái nghèo đơn thuần và sự bế tắc của gia đình. Tuy nhiên, dù có cố gắng thế nào thì bế tắc vẫn là bế tắc “ngày nào cũng không bán được hàng”, không còn hy vọng vào cuộc sống. Cuộc sống của nhà họ Liên, chị em vẫn quanh quẩn như vậy, đơn điệu như vậy, vẫn là cái nhịp điệu “sáng dọn ra tối vào”, “ngày nào cũng vậy, tối nào mẹ cũng ghé thăm” mỗi ngày. “. Hai chị em sống không phải là niềm vui trẻ thơ mà là cuộc sống tù túng chán nản, mất đi cả sự hồn nhiên của trẻ thơ.
Thương thay, thương cho số phận của em gái nhỏ, thương cho cuộc đời đen tối đáng thương của một người cùng cảnh ngộ. Tuy nhiên, trong hình dung về cuộc sống của gia đình, Liên cũng xót xa cho chính mình, xót xa cho sự bế tắc trong gia đình, xót xa cho người cha lam lũ của mình, xót xa cho chính cuộc đời đã mất của mình. Đã phải sống những ngày vô nghĩa. Nỗi niềm ấy của chị được thể hiện qua từng câu chữ đầy cảm thương, xót xa của Thạch Lam.
Những mảnh đời không chỉ có vậy mà còn được tô điểm bởi hình ảnh của bác Siêu, bác Xẩm, bác Thị điên. Thoáng qua, những hình ảnh đời thường ấy cũng khiến ta không thể nào quên.
<3 Gánh phở của bạn là "món quà xa xỉ tiền tỷ" ít ai mua được. Chính vì vậy, hàng phở ở thị trấn này luôn vắng khách. Mỗi ngày là một điệp khúc đơn điệu, tối đốt lửa, đêm vác gánh về làng. Cuộc sống của chú cũng đơn điệu, nhàm chán và lặp đi lặp lại như cô em gái của cô em gái.
Trên chiếc chiếu còn có hình gia đình bác Xẩm, cũng là những người đã chết ở vùng này. Gia đình bác Xẩm sống bằng nghề văn nghệ và kiếm ăn, không có chỗ che nắng che mưa nên chỉ có thể dùng tạm vỉa hè bên cầu làm nơi nghỉ chân. Tài sản của gia đình ông chỉ là chiếc chiếu rách, cái bầu và đồ dùng bằng sắt, bằng đồng, tất cả đều là của cả nhà. Tuy nhiên, hình ảnh đọng lại sâu sắc nhất trong tâm trí người đọc là hình ảnh “một cậu bé chui xuống đất, chui ra khỏi chiếu, nghịch đống rác bẩn thỉu vùi trong cát bên vệ đường”. Những đứa con – những đứa cháu chui ra khỏi bóng tối, nhưng cũng không thoát khỏi cuộc sống đói nghèo, bóng tối bao trùm gia đình ông.
Cuối cùng là hình ảnh bà cụ nghiện rượu. Cây đàn là biểu tượng của kiếp người đang hấp hối gần hết, vẫn thật èo uột, mục nát. Kết hợp hình ảnh các nhân vật nơi phố huyện là hình ảnh bà lão điên “đi vào bóng tối” với “tiếng cười hạnh phúc”. Đó là tiếng cười rợn người của một cuộc sống đang chết dần, một cuộc sống đang chết dần chết mòn ở thị trấn nghèo này.
Từ khung cảnh buổi chiều thê lương đến cuộc sống tăm tối, ảm đạm và khó khăn, thị trấn có một cái nhìn toàn cảnh. Những ai sống một cuộc đời đơn điệu, buồn tẻ, buồn tẻ, tù túng và vô nghĩa thì suốt đời họ là những mảnh đời đau khổ đầy bi kịch vật chất, nghèo đói và bi kịch tinh thần. Cuộc sống của họ quá tăm tối không có tương lai tươi sáng. Bức tranh ấy được nhìn qua đôi mắt của Ren – một cô gái trẻ với tâm hồn trong sáng, nhạy cảm, trong sáng và cũng hoàn cảnh như bao người khác. Đằng sau sợi dây liên kết là tâm hồn của một nhà văn tiểu tư sản đan xen với tâm hồn của những người lao động khác bằng tình yêu thương, sự chiêm nghiệm của mình, bày tỏ sự cảm thông, xót xa cho số phận của họ.
Thạch Lam viết về người lao động nghèo nhưng không xoáy sâu vào cái nghèo của họ mà xoáy vào bi kịch tinh thần của những kẻ sống bơ vơ, vô nghĩa. Khi thấu hiểu những bi kịch tình cảm đầy đau khổ đó, Lin Zelin đã thức tỉnh ý thức cá nhân và quyền được sống nên cảm thấy xót xa cho những mảnh đời vô nghĩa đó. Có lẽ chính vì vậy mà tác phẩm mà thạch lam muốn gửi gắm đã tạo được chiều sâu trong ý nghĩa nhân đạo của nó.
Bức tranh về một thị trấn trong khu vực nghèo khó khép lại với bầu trời đêm đen kịt khi màn đêm buông xuống. Đó là một đêm hè “mượt như nhung, lồng lộng”, “trên trời muôn ngàn vì sao lấp lánh, thoảng trên mặt đất hay trên cành cây dưới ánh sáng của những con đom đóm nhảy nhót”. Thật là một đêm Vinh quang, vinh quang! trời thì sáng trưng, cảnh đẹp thì đẹp, đất thì đen như mực, chiếm lĩnh những con phố nhỏ của cộng đồng, phải chăng đây cũng là ẩn dụ cho xã hội thời Pháp thuộc, một xã hội đen tối không ánh sáng xuyên qua, kìm hãm, ngột ngạt và nghèo đói.
Con người sống trong xã hội ấy giống như những hạt ánh sáng, những chấm sáng, những khe sáng, những tia sáng lung linh, nhỏ bé, luồn lách, chập chờn. Nhân vật chính của Liên hay Thạch Lâm đau buồn trước cuộc đời tăm tối không tương lai tươi sáng ấy. Bầu trời ngàn sao đẹp đẽ, nhưng với Lian, đó chỉ là “một vũ trụ sâu thẳm và bao la”, “đầy bí ẩn”, và những niềm vui xưa cũ không còn có thể thành hiện thực. . Vì vậy, tôi cứ “nhìn xuống đất” và “nhìn vào vầng hào quang thân thiết quanh ngọn đèn leo lét trên sạp hàng của cô em gái nhỏ”. Bởi vì vầng hào quang đó rất gần với Liên, bởi vì đó là cuộc sống vô nghĩa và mờ ảo của chính cô.
Bức ảnh Thạch Lam ở phố Qu cuối ngày khi được dựng lên là một mô hình thu nhỏ của toàn bộ xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc. Đây là một xã hội chật hẹp, ngột ngạt, vô cùng tăm tối, nơi nghèo đói và sự sống còn hơn cả cái chết.
Nghệ thuật được sử dụng trong măng đá là một chất liệu thực tế được trải nghiệm trực tiếp. Xen lẫn với hiện thực là cảm hứng lãng mạn cho từng cảnh sắc thiên nhiên, tạo nên ý nghĩa tượng trưng sâu sắc cho từng nhân vật.
Bức tranh miền viễn xứ dựa trên dòng thời gian từ chiều tà đến rạng đông, khắc họa từng bước diễn biến tâm trạng nhân vật. Qua những rung động mơ hồ, tinh tế, mong manh của một tâm hồn trẻ trung, nhạy cảm, Thạch Lam đã dựng lại bức tranh quê hương với tất cả vẻ đẹp của nó, đồng thời gửi gắm tình yêu thương vào đó. Tình quê hương, lòng yêu nước, những mảnh đời bị tiễn đưa ngoài đường cùng ngõ hẻm thật đáng buồn, tôi bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc. Sâu thẳm trong trái tim Người là ý thức phê phán sự thất bại của xã hội thực dân tiểu tư sản trong việc bảo vệ tính mạng và quyền sống của con người.
Mô hình 4
thạch lâm là một trong những tác giả chính của Tự lực văn đoàn. Tác phẩm của anh thiên về cảm xúc trong sáng, nhẹ nhàng nhưng vô cùng sâu sắc. Đằng sau những trang thơ là tấm lòng nhân ái, nhân văn đối với những mảnh đời nghèo khổ trong xã hội. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông. Chụp lại khoảnh khắc cuối ngày, khối măng đá khắc họa cuộc sống lam lũ của người dân nơi đây cũng đầy thơ mộng.
Những măng đá xanh lựa chọn thời điểm hoàng hôn buông xuống khi vạn vật bắt đầu chuẩn bị ngủ đông. Bằng ngòi bút tinh tế, nhạy cảm của mình, ông không chỉ nắm bắt được cái hồn của cuộc sống con người mà còn chụp được cả những bức tranh thiên nhiên. Qua hai bức tranh này, cái nhìn và cảm xúc của tác giả được thể hiện trước hiện thực cuộc sống.
Những bức tranh thiên nhiên đẹp như mơ nhưng đượm buồn, còn lại âm thanh chỉ là “tiếng trống khua chiêng trong xóm nhỏ; từng đứa ríu rít trong chiều”, tiếng ếch nhái ríu rít trong khoảng cách, kèm theo tiếng gió. Giọng nói lẽ ra phải to và ồn ào, nhưng hóa ra lại căng thẳng, lo lắng và u ám. Có lẽ không gian phải yên tĩnh và tĩnh lặng để có thể nắm bắt trọn vẹn mọi âm thanh ở đó. Lúc này, mặt trời cũng dần đi vào trạng thái ngủ đông: “phía tây đỏ như lửa”, “mây hồng như than tàn”, màu sắc rực rỡ, rực lửa nhưng đều gợi sự xui xẻo. Những hàng tre phía trước Làng Heimian rõ ràng bị cắt trên bầu trời, bao phủ trong làn sương mù và bóng tối dần dần bao quanh chúng. Nhịp điệu chậm rãi, chuyển động câu thơ như khắc họa bức tranh thiên nhiên thanh bình, yên ả. Một bức tranh hoàng hôn đẹp mơ màng, thanh bình nhưng đầy u uất, hoang vắng.
Bên cạnh những bức tranh về thiên nhiên, nhũ đá còn dẫn lối cho bức tranh của mình đến những bức tranh về cuộc sống của con người. Anh chụp được cảnh chợ chết. Người ta thường nói muốn biết cuộc sống bên đó ra sao thì cứ ra chợ là biết. Hoa nhài cũng vậy. Khung cảnh chợ sau buổi họp trông buồn tẻ và tồi tàn. Sự hối hả và nhộn nhịp đã biến mất, và bây giờ chỉ có sự im lặng. Chỉ có một vài người bán muộn đi lấy hàng và trò chuyện vội vã. Chợ rau chỉ còn lại rác rưởi, vỏ rau, vỏ bưởi… Những đứa trẻ tội nghiệp ngồi xổm dưới đất bên chợ rau, nhặt nhạnh que tre, v.v… hoàn cảnh của các em thật đáng thương, đáng thương . Mấy ngày mẹ con mò cua bắt ốc, tối về gánh nước đi bán, dù cực nhọc mấy cũng không đủ ăn. Bà già khùng say xỉn, lúc nào cũng bốc hỏa, hay cười, … hai chị em cũng điều hành một cửa hàng tạp hóa nhỏ, bán những món đồ đơn giản cho khách quen. . Lian và An chỉ là những đứa trẻ, nhưng họ phải tham gia vào cuộc sống mưu sinh. Cuộc sống của người dân nơi đây thật tẻ nhạt, họ tượng trưng cho một cuộc sống dài đằng đẵng và mệt mỏi. Trong sâu thẳm, họ luôn khao khát, chờ đợi một cuộc sống tốt đẹp hơn nhưng vẫn còn mơ hồ.
Điều nổi bật nhất trong bức tranh ấy là tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của các nhân vật. Cô tinh tế, nhạy cảm trước những biến đổi của thiên nhiên vào giờ phút hấp hối, và cảm nhận từng chi tiết của cuộc sống nơi đây: “Mùi ẩm thấp xen lẫn mùi bụi quen thuộc. Và…”, một mùi quen thuộc, đã luôn gắn bó với trên cô ấy. Cô ấy đã sống trong nhiều năm. “Ngồi lặng lẽ bên một gốc sơn đen nào đó…” Nhìn khung cảnh ấy, nỗi buồn và sự tĩnh lặng của thiên nhiên như xoáy sâu vào trái tim non nớt và nhạy cảm của cô bé. Lian cũng là một cô gái tốt bụng và chu đáo. Đó là sự quan tâm đến hai mẹ con, là một câu hỏi đầy suy nghĩ, chất chứa tình thương, sự xót xa và trăn trở cho hoàn cảnh gia đình chị. Nghe tiếng cười, biết là ông già, “rót ly rượu đưa cho”, “đứng nhìn”. Tôi xúc động trước hình ảnh những đứa trẻ nghèo nhặt rác mà chính tôi cũng không có tiền cho.
Bức tranh phố huyện lúc chiều tà là một đoạn văn trữ tình. Thứ thơ ấy bắt nguồn từ thiên nhiên, từ cảnh quê hương bình dị, thân thuộc, tiếng trống canh, tiếng ếch nhái ngoài đồng…, và chất thơ còn được thể hiện ở tâm hồn nhạy cảm, tinh tế. cuộc sống xung quanh. Không những vậy, bài thơ còn tràn ngập từ ngữ, câu văn nhịp nhàng, nhịp nhàng, giàu nhạc tính: “Chiều ơi đã về chiều Chiều lặng như lời ru Tiếng ếch nhái ngoài đồng gió thoảng Vào đi”, tô thêm màu sắc trữ tình cho tác phẩm.
Bức tranh phố huyện lúc chiều tà không chỉ thể hiện một bức tranh thiên nhiên đẹp, buồn mà còn thể hiện cuộc sống bế tắc, nghèo khó của người dân nơi đây. Đằng sau những bức tranh về thị trấn nhỏ, ta còn thấy được tình yêu thiên nhiên, tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả: những ước mơ cứu đời, đổi đời. Nghệ thuật miêu tả độc đáo và đầy chất trữ tình cũng là yếu tố cấu thành nên thành công của tác phẩm.
..
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn mẫu phân tích bản đồ chiều phố huyện