Khái niệm “Senior House” có thể còn tương đối xa lạ và mới mẻ đối với mỗi chúng ta, hiểu một cách đơn giản là các thượng nghị sĩ với chức năng lập pháp là tối cao trong xã hội hiện đại. Hạ viện, đây có thể hiểu là Thượng viện, tương đương với Thượng viện hiện nay trong hệ thống lập pháp lưỡng viện. Vậy Thượng viện là gì? Biết Thượng viện La Mã cổ đại?

Luật sưTư vấn Pháp luật qua Tổng đài Trực tuyến 24/7: 1900.6568

1. Thượng viện là gì?

Thượng viện là một tổ chức chính trị ở La Mã cổ đại. Đây là tổ chức lâu đời nhất trong lịch sử La Mã, được thành lập vào những ngày đầu tiên của thành phố (theo truyền thống là vào năm 753 trước Công nguyên). Thượng viện tồn tại qua nhiều sự kiện, chẳng hạn như việc lật đổ các vị vua La Mã.

Tên tiếng Anh của Thượng viện là: “senate”.

2. Tìm hiểu về Thượng viện La Mã cổ đại:

2.1. Sự ra đời của Thượng viện La Mã:

– 509 TCN, Cộng hòa La Mã sụp đổ vào thế kỷ 1 TCN, Đế chế La Mã chia tách vào năm 395 TCN, Đế chế La Mã phương Tây sụp đổ vào năm 476 sau Công nguyên, và những kẻ man rợ cai trị La Mã trong nhiều thế kỷ vào thế kỷ 5, 6 và 7.

– Ở mỗi thời kỳ tồn tại khác nhau trong lịch sử La Mã cổ đại, định nghĩa và chức năng điều hành của Viện Nguyên lão La Mã/Hội đồng La Mã có sự thay đổi bằng cách mở rộng hoặc thu nhỏ để phù hợp và áp dụng cho từng thời kỳ cụ thể. Nhiều năm cải cách và xác định lại hoạt động của Viện nguyên lão La Mã cổ đại, theo thứ tự 616 TCN → 509 TCN → 80 TCN → 27 TCN.

– Trong thời kỳ Vương quốc, Thượng viện nhỏ hơn nhiều so với Hội đồng Cố vấn của Nhà vua. Vị vua cuối cùng của La Mã, Lucius tarquinius sperbus, bị phế truất sau một cuộc đảo chính do lucius junius brutus lãnh đạo

– Trong những ngày đầu của nền Cộng hòa, vai trò chính trị của Thượng viện khá yếu, trong khi các thẩm phán khá tích cực. Kể từ khi chuyển đổi từ chế độ quân chủ sang chính phủ hợp hiến, Thượng viện đã mất một thời gian dài để bác bỏ các thẩm phán hòa giải. Thượng viện đạt đến đỉnh cao quyền lực ở giữa nền Cộng hòa. Thời kỳ cuối cùng của nền cộng hòa chứng kiến ​​sự gia tăng quyền hạn của Viện nguyên lão, bắt đầu với những cải cách của hai công chức Tiberius và Gracchus.

– Sau khi chuyển đổi từ chế độ cộng hòa sang chế độ nguyên thủ quốc gia, Thượng viện đã mất rất nhiều quyền lực và uy tín. Sau những cải cách của Hoàng đế Diocletian. Thượng viện trở thành một cơ quan phi chính trị và không bao giờ lấy lại được quyền lực trước đây của mình. Khi thủ đô đế quốc rời khỏi Rome, các chức năng của viện đã trở thành một phần của chính phủ. Điều này càng trở nên rõ ràng hơn khi Hoàng đế Constantius II thành lập một hội đồng mới ở Constantinople

– Sau sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã vào năm 476, Thượng viện Tây La Mã (Senior) được duy trì dưới sự cai trị của người man rợ trong một thời gian, và được phục hồi sau cuộc phục hưng. Chiếm phần lớn lãnh thổ của Đế quốc Tây La Mã dưới sự cai trị của Justinian 1,

– Mặc dù vậy, danh hiệu “Senator” vẫn được sử dụng thường xuyên trong thời Trung cổ, như một phần của sự kính trọng, nhưng phần lớn là vô nghĩa. Tuy nhiên, viện nguyên lão (cấp trên) của Đông La Mã vẫn tồn tại cho đến khi nó biến mất vào thế kỷ 14.

2.2. Thượng viện Cộng hòa La Mã:

– Nếu có một cuộc tham vấn của senatus xung đột với một bộ luật được quốc hội thông qua, thì luật quan trọng hơn cuộc tham vấn của senatus vì thẩm quyền của nó chỉ là tiền lệ chứ không phải luật. Tuy nhiên, hội đồng tư vấn senatus vẫn có chức năng giải thích luật.

– Thông qua các nghị quyết này, Thượng viện chỉ đạo các Thẩm phán, đặc biệt là các Quan chấp chính (Chánh thẩm phán) truy tố các xung đột quân sự. Thượng viện cũng nắm giữ quyền lực lớn đối với chính quyền dân sự của Rome. Điều này đặc biệt đúng trong các trường hợp liên quan đến việc quản lý tài chính nhà nước vốn chỉ có thể được ủy thác cho kho bạc kho bạc. Với việc mở rộng lãnh thổ của La Mã, Viện nguyên lão cũng giám sát các tỉnh, được điều hành bởi các quan chấp chính và quan tòa, đồng thời xác định việc quản lý của các quan tòa.

– Từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, trong trường hợp khẩn cấp, Viện nguyên lão có thể bổ nhiệm một trong hai chấp chính quan làm nhà độc tài, người có tiếng nói cuối cùng về mọi vấn đề. Tuy nhiên, nếu quyền hạn của 202 cơ quan của nhà độc tài bị hạn chế (chỉ được khôi phục hai lần), thì chúng sẽ được thay thế bằng tối hậu thư tư vấn senatus (“sắc lệnh cuối cùng của viện nguyên lão”), có thể bổ nhiệm các quan chấp chính huy động mọi biện pháp để giải quyết khủng hoảng.

– Trong khi các cuộc họp của Thượng viện có thể được tổ chức trong hoặc ngoài ranh giới chính thức của thành phố, các cuộc họp khác không được tổ chức cách Pomeru hơn một dặm. Thượng viện hoạt động vượt ra ngoài nhiều ràng buộc tôn giáo. Ví dụ, khi một cuộc họp đang được tổ chức trong khi dâng lễ vật cho các vị thần, một cuộc tìm kiếm điềm báo sẽ được tiến hành.

– Phiên họp thường bắt đầu vào lúc bình minh và thẩm phán muốn triệu tập Thượng viện sẽ ra lệnh yêu cầu phiên họp phải mở cửa cho công chúng, thường do một lãnh sự chủ trì. Trong các cuộc họp của Thượng viện, anh ta thường phô trương cơ bắp của mình thông qua các hành động của mình, thậm chí đi ngược lại mong muốn của chủ tịch nếu cần. Chủ tọa khai mạc cuộc họp bằng một bài phát biểu và sau đó trưng cầu ý kiến ​​của các thượng nghị sĩ có mặt theo thứ tự thâm niên.

Các thượng nghị sĩ có thể đồng ý hoặc không đồng ý với người chủ trì cuộc họp.

– Vào bất kỳ thời điểm nào trước khi kiến ​​nghị được thông qua, kiến ​​nghị có thể bị từ chối, thường là bởi một quan chức nhà nước. Nếu không có quyền phủ quyết và câu hỏi không quan trọng, sự lựa chọn có thể được thực hiện bằng biểu quyết bằng giọng nói hoặc bằng cách giơ tay. Nếu là vấn đề rất quan trọng, thượng nghị sĩ có thể đến một trong hai vị trí đối diện nhau trong phòng họp để biểu quyết

– Đạo đức của thượng nghị sĩ là quan trọng. Họ không được phép tiến hành kinh doanh hoặc tham gia vào bất kỳ loại giao dịch nào, kể cả hợp đồng. Họ cũng không có quyền sở hữu tàu buôn bán nước ngoài của riêng mình và không được phép rời khỏi Ý nếu không có sự chấp thuận của Thượng viện. Ông già không cho tiền. Các cuộc bầu cử tư pháp được tự động dựa trên tư cách thành viên Thượng viện.

2.3. Viện nguyên lão La Mã:

– Thượng viện của Vương quốc Rome là một thể chế chính trị ở Vương quốc Rome. Từ tiếng Anh senate có nguồn gốc từ tiếng Latinh senex, có nghĩa là “trưởng lão”, vì vậy toàn bộ cụm từ có nghĩa là “trưởng lão”. Những người Ấn-Âu thời tiền sử định cư ở Ý nhiều thế kỷ trước khi thành lập La Mã vào năm 756 trước Công nguyên đã thành lập các liên minh bộ lạc, thường bao gồm một hội đồng gồm các quý tộc lớn tuổi từ bộ lạc.

– Các thị tộc La Mã sơ khai được gọi là thị tộc hay thị tộc, mỗi thị tộc là một tập hợp các gia đình sống dưới quyền của một tộc trưởng tên là pater (tiếng Latinh có nghĩa là “cha”). Các thị tộc này tập hợp lại với nhau để thành lập một hội đồng chung, và bố già được bầu ra từ các thị tộc lỗi lạc để vào Hội đồng Nguyên lão (sau này là Thượng viện La Mã). .Theo thời gian, các bố già nhận ra nhu cầu không thể tránh khỏi đối với một nhà lãnh đạo duy nhất, vì vậy họ đã bầu ra một vị vua (rex) và trao cho ông ta quyền tối cao. Sau cái chết của nhà vua, quyền lực trở lại với cha đỡ đầu.

– Thượng viện được cho là đã được thành lập bởi vị vua đầu tiên của Rome, Romulus, trong số 100 người đàn ông ban đầu. Con cháu của 100 người này trở thành quý tộc. Vị vua thứ năm, lucius tarquinius priscus, đã chọn 100 người khác. Họ được chọn từ các nhóm nhỏ hơn

– Vị vua La Mã thứ bảy và cũng là cuối cùng, Lucius Tarquinius. Chiếc superbus đã bị Chủ tịch Thượng viện sa thải; bệnh viện không được thay thế và thu hẹp quy mô.

Thượng viện của Vương quốc Rome có ba trách nhiệm chính:

– Nắm quyền điều hành;

– Là hội đồng tư vấn cho nhà vua;

– là cơ quan lập pháp của người dân La Mã.

– Trong một chế độ quân chủ, nhiệm vụ quan trọng nhất của viện hàn lâm là bầu chọn một vị vua mới. Nếu nhà vua được người dân bầu chọn một cách tự động, những điều này sẽ thay thế vai trò của viện nguyên lão một cách hiệu quả.

– Ngoài ra, một nhiệm vụ quan trọng khác của Thượng viện là đóng vai trò là ủy ban cố vấn của nhà vua, nhà vua có thể phủ quyết các đề xuất của quốc hội, nhưng uy tín ngày càng tăng của viện nguyên lão khiến nhà vua ngày càng khó phủ quyết. nghị quyết. Hạ viện về cơ bản cũng có thể viết luật mới, mặc dù không hoàn toàn đúng khi gọi các nghị quyết của mình là “luật” theo nghĩa hiện đại. Chỉ nhà vua mới có thể ban hành luật mới, mặc dù ông cũng tham gia vào viện nguyên lão và hội đồng giáo hoàng.

Kiểm tra tiếng Anh trực tuyến

Bạn đã biết trình độ tiếng Anh hiện tại của mình chưa?
Bắt đầu làm bài kiểm tra

Nhận tư vấn lộ trình từ ACET

Hãy để lại thông tin, tư vấn viên của ACET sẽ liên lạc với bạn trong thời gian sớm nhất.