Trong dòng tranh dân gian Việt Nam, tranh Đông Hoa thuộc dòng tranh khắc gỗ, tranh in, được người dân làng Đông Hoa sáng tạo, sản xuất và phát triển thành một làng nghề thủ công. Đây là bộ tranh thể hiện một cách gần gũi và sinh động xã hội nông nghiệp truyền thống của Việt Nam, cuộc sống lao động của những người nông dân chất phác, những phong tục tập quán sinh hoạt của người dân Việt Nam. Để trưng bày một bức tranh, ngoài những nét đen chủ đạo, còn có bao nhiêu khối gỗ được in màu tương ứng như bức tranh mẫu. Đặc biệt giấy in là giấy dó truyền thống, quét phi điệp, màu vẽ tranh được lấy từ tự nhiên như màu vàng của hoa huệ, màu đỏ của mẫu đơn, màu trắng của hoa mẫu đơn… Bột vỏ sò, điệp, than tre đen…, tạo nên nét thẩm mỹ đơn giản mà độc đáo.
Về thể loại, tranh của Donghao có thể được chia thành 7 loại dựa trên chủ đề và nội dung: tranh tế lễ, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, truyện tranh, tranh phương ngữ, tranh phong cảnh và tranh tương phản. Ánh sáng.
Quá trình làm một bức tranh có nhiều công đoạn, nhưng có thể tạm chia làm hai công đoạn chính: tạo/khắc hoa văn và in/vẽ. Vẽ và chạm khắc là công đoạn lao động sáng tạo và là mắt xích quan trọng quyết định sự sống chết của một làng tranh. Nó ít nhiều đòi hỏi tài năng của người thợ và kỹ năng lao động tuyệt vời. Công việc sáng tác chiếm nhiều thời gian, trước hết cần chọn được đề tài, hàm ý, nội dung sâu sắc, màu sắc hài hòa, bố cục chặt chẽ, có giá trị nghệ thuật cao. Khi tạo hoa văn, người thợ thường dùng bút lông và mực nho vẽ trên giấy dó mỏng, phẳng, để thợ khắc, đục lỗ trên tấm gỗ theo mẫu. Việc tạo ra các mẫu tranh không chỉ là công việc của người nghệ sĩ, mà thường là kết quả của nhiều thế hệ cùng nhau làm nên làng tranh. Vì vậy, trong tranh của Donghao, đôi khi có nhiều phiên bản khác nhau của một họa tiết, hoặc một họa tiết tranh có hai hoặc ba cách phân bố màu khác nhau. Vì vậy, có nhiều mẫu tranh cổ chúng tôi chưa xác định được tác giả.
Có hai loại bảng tranh: bảng in và bảng in màu. Bảng in thường được làm bằng gỗ hoặc dây mực. Vân gỗ đa chiều, kết cấu mềm, dễ chạm khắc, dai nên khi khắc ván in người thợ sẽ cho ra những tác phẩm gọn, nhỏ, đường nét tinh tế, ván in mềm mại. .Dụng cụ khắc gỗ là một cái đục, còn được gọi là bộ đục, được làm bằng thép cứng. Có khoảng 30-40 tick mỗi bộ.
Nguyên liệu và dụng cụ để in tranh gồm có: giấy dó, các loại màu, khuôn in, ván gỗ, bìa cứng, chổi chít (chổi làm từ lá thông). Phương pháp in tranh như sau: Trước khi in tranh phải chuẩn bị giấy in, đóng thành cuộn (khoảng 100 đến 200 tờ trước mặt bạn). Khi in, người ta nhúng lá thông vào chậu màu để nhuộm màu, rồi quét đều lên bìa. Phương pháp lấy mực trong tranh dân gian Đông Hà là gấp tấm gỗ, tức là giữ tấm in “thông thường”, in tấm ván trở lại bề mặt cần vẽ, để màu thấm đều trên tấm ván, và sau đó đặt bảng in lên trên bảng sao cho cân đối và chính xác, trên giấy cần in ấn mạnh bản in xuống giấy để có độ tiếp xúc nhất định, sau đó lật ngược bản in và hình lên trên. giấy dán vào, dùng xơ mướp chà mặt sau của tờ giấy để màu lên bảng Tiếp tục thấm đều lên giấy. Tiếp theo, lấy hình ảnh ra khỏi bản in và đặt nó trong bóng râm để làm khô. Sau khi tranh khô, tiếp tục in các màu khác theo trình tự. Các nét đen luôn được in sau cùng.
Trước đây, chỉ những nghệ nhân Làng Hồ mới vẽ được hoa văn. Các công đoạn khác của sản xuất tranh dân gian Đông Hồ đều sử dụng bản in. Ngày nay, người ta còn vẽ theo các cách khác (ngoài in), đó là tô màu, chơi màu trên tranh in sẵn (theo cách kẻ các dòng trống), vẽ trên giấy trắng hoặc giấy màu. .Khi người họa sĩ vẽ tranh trên giấy in, chỉ cần sự phân bố màu sắc hài hòa, hợp lý là có thể thể hiện rõ nội dung bức tranh mà không làm mất đi giá trị thẩm mỹ.
Về giá trị nghệ thuật, so với các dòng tranh khác, tranh dân gian Đông Hà mang tính tượng trưng, trang trí nhưng vẫn giữ được nét giản dị, dễ hiểu, gần gũi với đời sống của người dân đồng bằng. Miền Bắc Việt Nam, độc đáo trong cách sử dụng đường nét đơn giản và màu trơn, là màu sắc tự nhiên của cây và hoa, tỏa sáng trên nền giấy dó óng ánh. Ở góc độ nội dung, tranh dân gian Đông Hà phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, vật chất của con người và xã hội dưới góc độ thẩm mỹ dân gian của người dân nơi đây. Những hình ảnh ấy vẽ nên ước mơ của những người lao động thế hệ trẻ về một cuộc sống gia đình hòa thuận, ấm no, hạnh phúc, về một xã hội công bằng và tốt đẹp hơn. Tranh dân gian Đông Hà đã có những đóng góp to lớn trong việc bảo vệ vốn văn hóa truyền thống của dân tộc và làm phong phú thêm đời sống tinh thần của người dân Việt Nam.
Hiện nay, do tác động của nền kinh tế thị trường, nhu cầu thẩm mỹ của con người đã thay đổi, tranh dân gian Đông Hồ đang đứng trước nguy cơ mai một, việc “xuất khẩu” tranh gặp nhiều khó khăn. Người dân trong làng giờ chủ yếu sản xuất hàng hóa. Ngoài ra, theo một số họa sĩ, tranh Đông Hà không còn hồn nhiên, giản dị, “thuần Việt” như xưa mà dần bị thương mại hóa, không còn màu trầm của tranh xưa. Lượng sò nhiều, khiến giấy mất đi độ óng ánh. Đồng thời, màu sắc sử dụng cũng được đổi sang màu công nghiệp cho rẻ và tiện lợi, hình in mới thường thô và sơ sài, không tinh tế như bản cũ. Đặc biệt, một số bản in đục khoét những chữ Hán chiếm một phần của bức tranh khiến bức tranh mất đi tính nguyên vẹn.
Nghề tranh Đông Hà ngày nay “yếu ớt” chỉ còn một số gia đình duy trì. Theo thống kê gần đây, làng nghề chỉ còn 3 thợ, khoảng 20 lao động và chỉ còn 2 thợ còn dạy học được (ông Nguyễn Hữu Sâm và ông Nguyễn Đăng Chế) đã cao tuổi. Đứng trước nguy cơ này, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Ninh đã có nhiều chủ trương, giải pháp nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể nghề làm tranh dân gian Đông Hà, như ban hành nghị quyết phát triển làng nghề tranh dân gian Đông Hà. , trong đó có Tranh dân gian Đông Hồ; ban hành quyết định về việc xây dựng và phát triển khu công nghiệp tập trung và khu công nghiệp làng nghề trên địa bàn tỉnh; giao Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh thực hiện đề án “Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Đông Hồ”. làng Đông Hòa”; Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân kiến nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức khảo sát, đánh giá hiện trạng, tổ chức hội thảo khoa học về tranh dân gian. Đơn đăng ký của Donghe Space and Production để được UNESCO ghi vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.
Đặc sản tranh dân gian Đông Hà có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học cao, đã được đệ trình lên UNESCO với sự chấp thuận của chính phủ và Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đệ trình. Được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (Đợt I) ), nghề truyền thống vào tháng 12/2012.
kim dung (theo hồ sơ di sản văn hóa, tài liệu của cục di sản văn hóa)