Tòa án nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu

02/10/2022 05/2022/DS-ST về tranh chấp hợp đồng vay mua nhà ở

Ngày 10/02/2022, Tòa án nhân dân huyện XM sẽ xét xử sơ thẩm vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay mua nhà đất” ngày 15/12/2020 số 203/2020/tlst-ds theo QĐ ngày 22/12/2021 Số 46/2021/qdxxst-đs, Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2022/qdst-đs ngày 12/01/2022 Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2022/qdst-đs ngày 26/01/2022 cả các bên Giữa:

Nguyên đơn: Cô Trần, sinh năm 1974 (nay).

Địa chỉ: ấp pq, xã hh, huyện xm, tỉnh bà rịa – vũng tàu.

Bị cáo: Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1976 (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp pq, xã hh, huyện xm, tỉnh bà rịa – vũng tàu.

Bên có nghĩa vụ quyền liên quan:

Bà Bùi Thị Thanh n, sinh năm: 1984 (vắng mặt, có đơn vắng mặt). Địa chỉ: ấp pq, xã hh, huyện xm, tỉnh bà rịa – vũng tàu.

Nội dung trường hợp

Căn cứ đơn khởi kiện và thủ tục giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Trần Thị T:

Từ năm 2016 đến năm 2020, bà Chen đã nhiều lần cho ông Ruan Wen (tên thường gọi là Six) vay tiền, khoản vay không có giấy tờ, không có tài sản thế chấp, không thỏa thuận lãi suất khi vay. Ngày 20/5/2020, bà T và ông M ngồi lại để tính toán việc xử lý nợ. Tính đến ngày 20/5/2020, tổng số tiền ông m còn nợ bà m là 144.000.000 đồng.

“Chị Sáu Tuyết” “tổng cộng ngày 20/5/2020” “là 144.000.000 (144 triệu số chẵn)” “Chị Sáu nợ chị Tuyết 144.000.001,4 tỷ bảng Anh” có chữ ký của bà Trần và nguyễn văn quý nhân. Trong số đó, “Liujiexue” “tổng cộng ngày 20/5/2020” “là 144.000.000 (144 triệu số chẵn)” do anh T viết, và nội dung là “Liujie nợ Xuejie tổng cộng 144.000.000 144.000 Bốn triệu bảng Anh ” là do ông M viết. Khi bán đất ông có hứa miệng là sẽ trả tiền. Khi viết giấy này chỉ có bà T và ông M, không có ai làm chứng.

Sau khi viết giấy nhận nợ, mặc dù ông M đã bán đất, bà M nhiều lần yêu cầu ông trả nợ nhưng ông M cố tình không trả.

Nay chị yêu cầu anh phải trả hợp pháp số tiền vay và tiền lãi là 144.000.000 VND (144 triệu đồng) kể từ ngày 20/5/2020 cho đến khi ra tòa.

Do đang làm việc tại tòa án, ông M không chấp nhận chữ ký của mình trên giấy vay nợ ngày 20/5/2020 nên bà M làm đơn yêu cầu tòa án xem xét chữ ký, nét chữ của ông M.

Thủ tục giải quyết vụ án của bị đơn do ông nguyễn văn m trình bày:

Năm 2014, anh nguyễn văn m và cô trần thị t đã viết về quá trình viết tiêu đề do cô t làm chủ đề. 20.000.000. Năm 2017, anh M chơi hụi do chị T làm chủ. Chia làm 3 đợt, anh M nợ chị T 13 triệu đồng. Tiền nhà và tiền nợ của hai vợ chồng tổng cộng là 33.000.000 đồng. Việc ông M giở trò đồi bại với bà T không có bất kỳ thủ tục giấy tờ gì, cũng không có người chứng kiến. Hiện anh M xác nhận còn nợ chị M 33 triệu đồng nhưng do khó khăn nên không có tiền trả lại chị.

Nay chị yêu cầu anh phải trả 144.000.000.000 đồng và tiền lãi theo quy định của pháp luật từ ngày 20/5/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm. Ông M không đồng ý và chỉ đồng ý trả cho bà T 33.000.000 đồng. Ông m cho rằng chữ ký và chữ viết tay trên giấy vay tiền ngày 20/5/2020 không phải của mình. Theo yêu cầu của bà T, ông M đã đồng ý để tòa án xem xét chữ ký. Nếu đúng là chữ ký, chữ viết tay của ông M thì ông M hoàn toàn chịu mọi chi phí thẩm định và đồng ý trả cho bà số tiền gốc và lãi là 144.000.000 đồng theo quy định của pháp luật.

Sau khi nhận được kết quả giám định từ cơ quan có thẩm quyền, tòa án đã thông báo kết quả giám định cho ông M và mời ông tham gia hòa giải nhưng ông M vắng mặt không lý do và không phát biểu ý kiến. Văn bản trình bày trước tòa.

Lời giới thiệu của bà Pei Shiqing, người có nghĩa vụ đối với các quyền liên quan:

Bà Bùi Thị Thanh là vợ của ông Nguyễn Văn M. Làm thế nào anh ta vay tiền của bà Chen, cô ấy không biết. Bà N chỉ biết ông T vay tiền bà T để mua vé số, bà không biết ông vay tiền bà, đến năm 2014 ông có vay bà T và bà T trả hết nợ thay. .m Một lần, lần sau vay tiền chị T không rõ mục đích, anh ta không nói cho chị biết việc vay. Nay bà T và ông M có tranh chấp về việc vay mượn tài sản, bà N không đòi và không liên quan gì.

Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu số 78/klgĐ-pc09-tl ngày 04/6/2021:

– Dòng chữ “Sáu nợ chị Xue 144 triệu 144 triệu Không” dòng 5 và 6; dòng 7 chữ “Sáu” trên mẫu cần kiểm tra xem ký hiệu a có đối chiếu với chữ viết của nguyễn văn m trên mẫu viết bởi cùng một người Ký hiệu cho m1 đến m3.

-Chữ ký, tên viết tay của Nguyễn Văn Mi trên mẫu cần giám định, ký hiệu a và đối chiếu chữ ký, so sánh chữ viết của tên Nguyễn Văn Mi trên mẫu Các ký hiệu từ m1 đến m3 đều do cùng một người ký, viết.

Tuyên bố quan điểm của công tố viên:

Các thẩm phán, nhóm xét xử và thư ký tuân thủ luật tố tụng trong quá trình kết thúc, phù hợp với Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, bị đơn không tham gia phiên hòa giải, xét xử là không đúng quy định của pháp luật. Việc xét xử vụ án này đã quá hạn mà chưa có quyết định gia hạn phiên tòa, có những thiếu sót nhưng vấn đề này không ảnh hưởng đến nội dung của vụ án, rất đáng để phiên tòa tham khảo.

Về nội dung, đề nghị tòa chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải trả số tiền đã vay 144.000.000 đồng và lãi suất theo quy định của pháp luật kể từ ngày vay đến ngày mở phiên tòa. dùng thử.

Quyết định của tòa án

Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, đoàn xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Quan hệ pháp lý của tranh chấp: Vụ án này là vụ việc đòi nợ theo hợp đồng vay mua nhà đất giữa một bà nào đó, và tranh chấp là “tranh chấp hợp đồng vay mua nhà đất”.

Về thẩm quyền giải quyết của tòa án: Bị đơn là ông Nguyễn Văn M, cư trú tại Huyện Xiêm, Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Vì vậy, theo quy định tại Điều 26, Điều 35 Khoản 1 và Điều 39 Khoản 1 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện XM – Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa.

[2] Về sự vắng mặt của bị đơn và người có nghĩa vụ liên quan: HĐXX cấp đoàn cho rằng tòa án đã thực hiện việc tống đạt giấy tờ theo đúng quy định của pháp luật tố tụng. Khởi kiện dân sự đối với bị đơn là ông nguyễn văn m Tuy nhiên ông m vẫn vắng mặt không lý do. Trong quá trình tham gia vụ kiện, bà Pei Shiqing, người có quyền lợi liên quan, đã làm đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, việc xét xử vắng mặt vợ chồng n là phù hợp với quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Luật tố tụng dân sự.

[3]Giới thiệu nội dung:

Việc vay tài sản giữa nguyên đơn và bị đơn xác lập sau ngày 01 tháng 01 năm 2017 được giải quyết bằng việc áp dụng Bộ luật Dân sự 2015 và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn chi tiết việc áp dụng Bộ luật Dân sự 2015.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các bên chứng minh:

[3.1] Về thời hạn vay và số tiền vay:

Bà Trần Thị T cho biết: Từ năm 2016 đến năm 2020, bà đã nhiều lần cho ông này vay tiền, ngày 20/5/2020 hai bên ngồi lại giải quyết hóa đơn, trên cơ sở này hai bên đã viết biên bản. Viết tay ngày 20/05/2020 Nội dung:

“Chị Sáu Tuyết” “tổng cộng ngày 20/5/2020” “là 144.000.000 (144 triệu số chẵn)” “Chị Sáu nợ chị Tuyết 144.000.001,14 tỷ bảng” có chữ ký của bà T và ông m.

Ông cho rằng giữa ông m và bà t không có quan hệ vay mượn nhưng ông đã ghi nhận quyền tài sản thuộc sở hữu của bà t vào năm 2014. Qua hồ sơ, ông còn nợ bà T 20.000.000 đồng. Năm 2017, anh nợ ba người phụ nữ 13.000.000 đồng. Ông M còn nợ bà T tổng cộng 33.000.000 đồng nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh. Ông m không chấp nhận chữ ký trên giấy nhận nợ ngày 20/5/2020. Trong quá trình giải quyết vụ việc, bà t đã yêu cầu giám định chữ ký, chữ viết của ông m trên giấy biên nhận ngày 20/5/2020 và kết quả như sau:

Kết luận giám định số 78/klgĐ-pc09-tl của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu ngày 04/6/2021:

– Dòng chữ “Sáu nợ chị Xue 144 triệu 144 triệu Không” dòng 5 và 6; dòng 7 chữ “Sáu” trên mẫu cần kiểm tra xem ký hiệu a có đối chiếu với chữ viết của nguyễn văn m trên mẫu viết bởi cùng một người Ký hiệu cho m1 đến m3.

-Chữ ký, tên viết tay của Nguyễn Văn Mi trên mẫu cần giám định, ký hiệu a và đối chiếu chữ ký, so sánh chữ viết của tên Nguyễn Văn Mi trên mẫu Các ký hiệu từ m1 đến m3 đều do cùng một người ký, viết.

Vì vậy, căn cứ vào giấy nhận nợ ngày 20/5/2020, có cơ sở xác định ông nguyễn văn m vay bà trần thị t số tiền 144.000.000 đồng. Bà Trần Thị T đã nhiều lần yêu cầu ông M trả nợ nhưng ông M không chịu trả nợ là vi phạm nghĩa vụ trả nợ quy định tại Điều 280 và Điều 466 của Bộ luật dân sự. nguyên đơn bà trần thị t, cần buộc bị đơn nguyễn văn m trả cho bà số tiền 144.000.000 đồng (144 triệu đồng).

[3.2] Về sở thích:

Theo giới thiệu của chị T, tại thời điểm vay tiền không thỏa thuận lãi suất và thỏa thuận miệng là ông M bán đất trả nợ cho chị T. Giấy vay nợ ngày 20/5/2020 không thể hiện lãi suất, cũng như không thể hiện thời gian trả nợ. Ông M không thừa nhận việc vay tiền nên không đề cập việc vay có lãi suất và thời hạn trả nợ hay không. Vì vậy, có cơ sở cho rằng hợp đồng vay bất động sản giữa chị t và anh M là hợp đồng vay không có quyền đòi và không tính lãi.

Về thời hạn đòi tiền lãi: Hội đồng xét xử buộc ông Nguyễn Văn M phải trả tiền lãi cho bà Trần Thị T theo thời hạn nợ là ngày 20/5/2020 cho đến khi xét xử. Xem xét lần đầu (ngày 10 tháng 2 năm 2022).

Về việc áp dụng lãi: nguyên đơn yêu cầu tính lãi, theo quy định tại Điều 466 Khoản 4 và Điều 468 Khoản 2 BLDS 2015 thì bị đơn phải có nghĩa vụ trả tiền lãi cho gốc của khoản nợ, tương ứng với thời gian nguyên đơn quá hạn Trả nợ, lãi suất là 10%/1 năm (tương đương 0,83%/tháng). Do đó, tiền lãi được tính như sau:

Từ ngày 20/05/2020 đến ngày 10/02/2022 là ngày 21/08/2022 tương ứng với: 144.000.000 VNĐ x 10%/2001 x 0,83%/01 tháng x 21/08/2001 = Lãi 24.798.000 VNĐ (làm tròn).

[4] Từ nhận định trên, nguyên đơn là bà Trần Thị T chấp nhận buộc bị đơn là ông Nguyễn Văn M phải trả số tiền 144.000.000 đồng (một trăm linh bốn) cho bà t . 40-4 triệu đồng) tiền vay và 24.798.000 đồng (24.798.800 đồng) tiền lãi. Tổng số tiền là 168.798.000 VNĐ (168.798.000 VNĐ).

[5] Về phí thủ tục: phí kiểm tra chữ viết và chữ ký của ông Ruan Wenming có đúng không. Căn cứ mục 103 khoản 3 Bộ luật tố tụng dân sự. Buộc ông nguyễn văn m phải chịu 3.100.000 đồng (Ba triệu một trăm nghìn đồng) phí giám định mà bà trần thị t đã nộp. Do đó, ông nguyễn văn m có nghĩa vụ trả lại số tiền 3.100.000 đồng cho bà trần thị t.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí với số tiền đã trả cho nguyên đơn là: 168.798.000 đồng x 5% = 8.440.000 đồng (làm tròn).

[7] Về quyền kháng cáo: Các bên có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì những lý do trên;

quyết định

Căn cứ Điều 26 Khoản 1 Khoản 35 Khoản 1 Khoản 39 Khoản 227 Khoản 228 của Luật tố tụng dân sự 2015.

Căn cứ Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/ubtvqh14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, mức thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án .

Câu:

1.Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Trần Thị kiện ông Nguyễn Văn M về việc “tranh chấp hợp đồng vay mua nhà đất”.

2. Buộc ông Nguyễn Văn M phải trả cho bà Trần Thị số tiền vay 144.000.000.000 đồng (144 triệu đồng) và tiền lãi 24.798.000 đồng (24,798 triệu đồng). Tổng số tiền là 168.798.000 VNĐ (168.798.000 VNĐ).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định cưỡng chế) hoặc ngày có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án ( đối với số tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi Bản án được thi hành xong thì người phải thi hành án còn phải chịu lãi đối với số tiền phải thi hành án còn lại theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015. mã số.

3. Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyễn Văn M phải nộp án phí dân sự sơ thẩm trị giá 8.440.000 đồng (tám triệu bốn trăm bốn mươi bốn triệu đồng).

Hoàn trả cho bà Trần Thị T số tiền tạm ứng án phí 3.600.000 đồng (Ba triệu sáu trăm nghìn đồng) căn cứ vào Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008997 ngày 15/12/2020. Thi hành án dân sự huyện XM, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

4.Về án phí: Buộc ông Nguyễn Văn M phải trả lại cho bà Trần Thị 3.100.000 (Ba trăm nghìn đồng) phí giám định chữ ký, chữ viết.

5. Về quyền khiếu nại:

Các bên có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày chính thức tống đạt bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, yêu cầu thi hành án , tự nguyện thi hành án hoặc thi hành bản án theo quy định tại Điều 6 Luật Thi hành án dân sự, Điều 7, Khoản 1 Khoản 7, Khoản 2 Khoản 7 và Điều 9 bị cưỡng chế thi hành; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Kiểm tra tiếng Anh trực tuyến

Bạn đã biết trình độ tiếng Anh hiện tại của mình chưa?
Bắt đầu làm bài kiểm tra

Nhận tư vấn lộ trình từ ACET

Hãy để lại thông tin, tư vấn viên của ACET sẽ liên lạc với bạn trong thời gian sớm nhất.