Phân tích vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Phương ở Quảng Đông là một trong những đề tài hay thường gặp trong tìm hiểu nghị luận văn học. Các em hãy tham khảo hướng dẫn, dàn ý và các bài văn mẫu được tổ chức bởi đọc tài liệu để hoàn thành xuất sắc câu hỏi này nhé!
Đề: Phân tích vẻ đẹp của những người lính trong Quảng Đông Tây Ca.
Hướng dẫn phân tích vẻ đẹp của người lính miền tây
1. Phân tích chủ đề
– Yêu cầu đề bài: Phân tích vẻ đẹp nhân cách và tâm hồn của người lính Tây Tiến.
– Phạm vi tham khảo: “Tương Tây” Tương TâyNhững chi tiết, hình ảnh trong bài thơ đã nói lên vẻ đẹp của Tây quân
– Phương pháp lập luận chủ yếu: phân tích.
2. Khái niệm cơ bản về triển khai
– Luận điểm 1: Cố gắng vượt qua gian khổ của quân ngũ
– Luận điểm 2: Vẻ đẹp của người lính miền Tây
– Luận điểm 3: Vẻ đẹp bên trong của người lính Tây Tiến
– Luận điểm 4: Tinh thần hi sinh cao cả của những người lính ở miền Tây
Lập dàn ý phân tích vẻ đẹp của người lính Tây Tiến
Mở Phân tích người lính phương Tây
– Giới thiệu thi nhân Quảng Đông và thi ca phương Tây
– Hình ảnh người lính đi Tây được giới thiệu: hình ảnh chủ đạo xuyên suốt bài thơ Mạnh Tây.
Phân tích văn bản lính Tây tiến
*Vẻ đẹp tinh thần: cần cù, vượt khó
Một cuộc hành quân gian khổ:
+ Địa danh sai khồng, mường lam gợi sự xa xôi, hẻo lánh; từ ngữ thông tục tượng hình: “cong”, “sâu”, “ngọt”, ám chỉ “khe nghiêng” chỉ địa hình hiểm trở, khúc khuỷu, hiểm trở.
<3
+ Hình ảnh nhân hóa: “hổ vui”, “thác gầm” hàm ý sự man dại, man dại; thời gian: “chiều”, “tối”, các chiến binh thường xuyên đối mặt với hiểm nguy nơi rừng thiêng nước độc.
+ Hình ảnh “Văn Thiên Súng” cho thấy những ngọn núi cao mà người lính phải vượt qua, đồng thời cũng thể hiện sự dí dỏm của người lính không màng hiểm nguy.
+ Khung cảnh thiên nhiên có lúc êm dịu và tràn đầy sức sống: “Ai linh tinh…”, “Khói lên nương lúa”, “Mai Châu vào mùa em…”, giọng đọc truyền cảm. Cảm giác nhẹ nhàng, yên bình. Thở phào nhẹ nhõm sau chặng đường dài hành quân.
* Vẻ đẹp hình thể: dữ dội, hùng tráng, uy nghiêm
+ “Đội quân rụng tóc”: Hậu quả của căn bệnh sốt rét rừng khốc liệt. Phần nào thể hiện sự kiêu ngạo, bản lĩnh, ngang tàng của những người lính trẻ.
+“Xanh quân đội”: Là hình ảnh những cơn sốt rét rừng khiến da tái nhợt như màu lá (chắc là màu xanh của lá ngụy trang, có thể hiểu là màu áo lính). Còn là sự mất mát hy sinh thầm lặng (mất dần sức khỏe, thể lực).
+ “Đôi mắt”: Với ánh mắt dữ dằn, những người lính Tây Phương mang vẻ đẹp của những người anh hùng năm xưa, đồng thời cũng gợi hình ảnh khuôn mặt hốc hác vì điều kiện vật chất thiếu thốn.
+“Quân đội”: gợi hình ảnh một đoàn quân đông đảo, có đặc điểm chung của mọi người lính (đầu trọc, da xanh, mắt dữ)
– Nhận xét: Tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp của những người lính Tây tiến dũng mãnh, oai hùng.
*Vẻ đẹp bên trong: sự phong trần, yêu đời, lãng mạn của người lính trẻ
+ “Coi kìa anh ăn mặc…tạo nên hồn thơ”: ánh mắt ấm áp yêu thương của những người lính miền Tây đang hướng về phía trước trước vẻ đẹp duyên dáng của những con người Tây Bắc. Những người lính tràn đầy tâm hồn, đắm chìm trong không khí ấm áp của tình người.
+ “Gửi giấc mơ”, “Những đêm nằm mơ”: Lính Tây mộng mơ, người Hà Nội nên mang tâm hồn thơ mộng, lãng mạn ra chiến trường (so sánh người nông dân trong bài Đồng chí-Người lính).
+“Hà Nội” là khoảng trời của nỗi nhớ, là không gian khác với cuộc sống gian khổ nơi chiến trường, là nỗi nhớ quê hương da diết.
+ “Hương thơm” gợi hình ảnh thiếu nữ Hà Nội yêu kiều, kiêu sa, bóng dáng được lính Tây ưa chuộng. Đây chính là nguồn động lực để họ chiến đấu trên chiến trường cam go.
=>Trong hoàn cảnh chiến đấu gay gắt, họ vẫn giữ được vẻ hào hoa, lãng tử vốn có của tuổi trẻ trí thức Hà Nội.
*Vẻ đẹp cuộc sống: Tinh thần hy sinh cao cả
– Hình ảnh hào hùng của những người lính miền Tây “lăng xê” và “quên đời”: đó là sự yên nghỉ vĩnh viễn, cái chết tựa lông hồng.
– Sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân cho đất nước: “Trao mộ”, “Không tiếc tuổi thanh xuân”, “Người về quê hương”, ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.
– Cái chết được lí tưởng hoá trong hình tượng những người anh hùng thời xưa: “Chiếc áo bào”, “Hành khúc độc thân”; thiên nhiên cũng đau khổ chứ không phải đau khổ như họ phải đau khổ.
=>Những người lính phương Tây mang vẻ đẹp bi tráng, dáng hình của họ sánh ngang với những chiến binh thời xưa. Cảm hứng lãng mạn bất tử hình ảnh của họ.
Kết thúc bài phân tích lính tây
– Khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật:
<3
+ Nghệ thuật: Sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật: Tương phản, tương phản để gây ấn tượng; Sử dụng nhiều từ Hán Việt gợi sắc thái cổ kính; Phép tu từ nhân hóa, ẩn dụ… ngôn ngữ sử thi, lãng mạn, hào hùng; với chất thơ mang tính con dấu của một trí thức tiểu tư sản.
– Nêu ấn tượng của em về hình ảnh người lính Tây Tiến.
Sơ đồ tư duy
Bản đồ tư duy phân tích chi tiết hình ảnh người lính Tây Đô
>> Xem thêm: Phân Tích Vẻ Đẹp Bi Thương Của Người Lính Tây Tiến
// Các em vừa xem lại một số lưu ý về cách làm bài, lập dàn ý và sơ đồ tư duy cho bài Phân tích Vẻ đẹp của người lính Tây Đô. Để viết được một bài văn trong sáng và hay, các em cũng nên chú ý đến cách diễn đạt và mở rộng vốn từ bằng cách tham khảo một số bài văn mẫu hay được tổng hợp dưới đây:
Phân tích vẻ đẹp của người lính miền tây có đoạn văn tham khảo
Dùng bài mẫu số 1 để phân tích hình tượng người lính Tây Đô
Sự nghiệp sáng tác của Quảng Đông không nhiều màu sắc như nhiều nhà thơ khác nhưng mỗi tác phẩm của ông đều để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Trong sự nghiệp sáng tác của ông, tác phẩm nổi bật nhất làTây phương. Ông đã tái hiện thành công hình ảnh những người lính hành quân về phía Tây qua những vần thơ tinh tế và rất hiện thực.
Tây tiến ra đời năm 1948, tại lưu huỳnh, khi quang dũng xuất ngũ đi công tác khác. Dù đã rời quân ngũ nhưng nỗi nhớ và tình yêu quân ngũ trong ông vẫn còn mãnh liệt đã giúp ông kết tinh nên tác phẩm nghệ thuật này. Vì vậy, cảm xúc chủ đạo trong tác phẩm là nỗi nhớ da diết, da diết.
Ở phần đầu của tác phẩm, quang dũng tái hiện một thiên nhiên hoang sơ, huyền bí, nên thơ và tỏa sáng trong đó, ta còn thấy bóng dáng của Tây Quân: “Anh chẳng lười bước nữa / gục đầu súng , quên đời”. Bài thơ tái hiện chân thực cái chết của người lính khi hành quân nhưng cách nói về cái chết của Kwang-dong thật đặc biệt. Ông miêu tả cái chết bằng những hình ảnh “không còn bước đi”, “quên đời”, vừa là cách nói tránh để xoa dịu nỗi đau mất mát, mà quan trọng hơn là để tạo nên giọng thơ. Vụng về, mập mạp và trơ trẽn, những người chiến đấu không phải không nhìn thấy khó khăn, nhưng dám chấp nhận và đối mặt với thực tế. Vì vậy khắc họa gian khổ cũng là một cách tạo ra thử thách để ghi nhận những phẩm chất tốt đẹp trong quân ngũ.
Nếu hai phần đầu của bài thơ chỉ là một vài nét chân dung của người lính thì đến phần thứ ba, chân dung của họ được tái hiện chân thực, rõ nét.
Đội quân không mọc tóc
Đội quân xanh hùng mạnh
Hai câu đầu khắc họa nổi bật nét của những người lính Tây Phương. Bài thơ rất chân thật với người lính tóc rụng, người gầy xanh xao vì sốt rét rừng, cuộc sống còn nhiều thiếu thốn, khó khăn, gian khổ đã tạo nên vẻ khác thường của người lính. quang dũng không miêu tả hiện thực mà phản ánh hiện thực đúng như bản chất của nó. Nhưng điều ông muốn nhấn mạnh không phải là gian khổ, khó khăn mà là thấy được bản lĩnh, thử thách phi thường của những người lính Tây Tiến. Chính vì vậy, tác giả đã xây dựng một hình ảnh đối lập với những khó khăn đó, đó là hình ảnh “sợ hãi” – một hình ảnh oai phong, lẫm liệt và vô cùng hào hùng. Kết hợp với kiểu câu chủ động như “Đừng mọc tóc” tạo nên sự mạnh mẽ, hiên ngang, dũng cảm, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, hoạn nạn.
Đằng sau vẻ ngoài gai góc là một tâm hồn đầy mơ mộng, lãng mạn: “Ngắm sao đưa mộng qua biên giới/Đêm mộng Hà Nội Phương Hoa”. Câu đầu thể hiện tâm nguyện ngàn đời, đó là giết giặc lập công. Đôi mắt ấy chứa đầy lòng căm thù quân xâm lược nhưng cũng hừng hực khí thế chiến đấu, sẵn sàng xông pha đánh giặc. Nhưng với sự nhạy bén và nhạy bén của mình, Quảng Đông cũng phát hiện ra vẻ đẹp của chiều sâu, phía sau của Xi Bing, phần tư thứ hai có rất nhiều nhịp điệu, và nhịp điệu trở nên trầm và mềm mại. Từ “mơ” hàm chứa nhiều nghĩa, có thể là nỗi nhớ da diết, cũng có thể là ước mơ, khát vọng của những người lính miền Tây. Ngoài sứ mệnh cao cả là chiến đấu vì Tổ quốc, những người lính còn dành một góc nhỏ tâm hồn mình cho Tổ quốc, cho gia đình. Giấc mơ của người lính bộc lộ một thế giới tinh thần thơ mộng và lãng mạn. Họ không giống những người lính nông dân, nhớ những điều giản dị như: “Tôi làm bạn tôi cày ruộng/ Nhà cửa đừng để gió lay/ Hóa ra cũng nhớ lính” (đồng chí) – công lý ).Ước mơ của những người lính xuất thân là trí thức tiểu tư sản là “thơm sắc” – dáng người yêu kiều của một thiếu nữ thành thị. Chính nỗi nhớ này đã tiếp thêm động lực và hiệu quả chiến đấu cho họ.
Nhưng cái nổi bật và cao đẹp nhất là vẻ đẹp trong lý tưởng phấn đấu của họ:
Biên giới xa xôi
Sống xanh không tiếc chiến trường
Nối văn phong của phần đầu tác phẩm, ở đây tiếp tục miêu tả rất chân thực về cái chết của những người lính. Hình ảnh “San Biển” khắc họa một không gian biên cương xa xôi, nơi bao người lính đã hy sinh, bỏ xác nơi đất khách quê người. Có lẽ đây là dòng hiện thực rõ ràng nhất, đau đớn nhất, sâu sắc nhất trong toàn bộ tác phẩm của ông. Nhưng không vì thế mà bài thơ trở nên bi lụy, để rồi Người khẳng định rằng “không tiếc chiến trường, đời xanh”. Đời người chỉ có một màu “xanh”, chỉ có một tuổi trẻ tươi đẹp, nhưng họ không hề hối tiếc, sẵn sàng hy sinh vì một mục tiêu cao cả, bởi nếu “ai cũng tiếc thì đất nước còn lại gì” (thanh thảo) .
Hai câu thơ miêu tả bi tráng cái chết của người lính Tây Phương:
Áo thay đất
<3
Cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, khi anh em hy sinh, tang lễ dù đơn giản nhất cũng không được tổ chức mà đưa thi hài về cho gia đình bọc. quê hương. Với tất cả tình thương, lòng từ bi và sự tôn vinh, hãy biến nó thành chiếc áo cà sa làm cho cái chết thêm trang nghiêm. Một sự phong phú chữ Hán Việt nối tiếp, tạo nên một sắc thái trang trọng cổ kính biến cái chết hữu hạn của người lính Tây Phương thành một sự sống bất tử vô tận. Hai chữ “về đất” làm vơi đi nỗi sầu, cái chết trở nên nhẹ nhàng, thanh thản hơn. Cuối cùng, tiếng hát của Ma He đã đưa họ về với đất mẹ. Động từ “gầm” vừa diễn tả nỗi đau dữ dội lại vừa chứa đựng sự uất ức, ngột ngạt. Nhưng có buồn nhưng không có nhớ, bởi đây không phải là hoang vắng mà là khúc đơn ca tiễn đưa người lính về với đất mẹ thiên nhiên.
Bằng ngôn từ tinh tế và tràn đầy cảm xúc, Kuang Yong đã tái hiện chân thực vẻ đẹp của những người lính ở phía tây. Họ xuất hiện trong những bức tranh chân thực, lãng mạn và rực rỡ. Nhưng nổi bật nhất là tinh thần yêu nước, dũng cảm hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Vẻ đẹp của người lính miền Tây cũng là vẻ đẹp chung của những người lính trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vẻ vang và anh dũng.
Dùng bài mẫu số 2 để phân tích hình ảnh người lính Tây Đô
Mỗi khi nhắc đến quang dũng, mọi thế hệ bạn đọc yêu thơ đều nghĩ đến một hồn thơ tự do, lãng mạn và tài hoa. “Tây Du Ký” là tác phẩm của nhà thơ Quang Dũng với phong cách thơ độc đáo. Qua tác phẩm này, tác giả đã xây dựng thành công hình ảnh người lính Tây Tiến oai hùng một thời.
“Quân đội phương Tây không mọc tóc
Đội quân xanh hùng mạnh
Mắt sáng gửi ước mơ qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội nét đẹp thanh xuân
Biên giới xa xôi
Sống xanh không tiếc chiến trường
Áo thay đất
Ma He hót vang”
Đại đoàn Tây tiến được thành lập đầu năm 1947. Nhiệm vụ của đoàn là phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, diệt quân Pháp ở Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam. Nam. Cánh quân phía tây đóng quân và chiến đấu trên địa bàn rất rộng, bao gồm tỉnh Sán La, tỉnh Lai Châu, tỉnh Hòa Bình, tỉnh Tây Thanh Hóa và tỉnh Sán Nử (Lào). Lính Tây hầu hết là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều em là sinh viên, môi trường chiến đấu rất khắc nghiệt, vật chất khan hiếm, sốt rét hoành hành.
Những người lính phương Tây xuất hiện trong một diện mạo đặc biệt và lạ lùng khiến người đọc không khỏi ngậm ngùi:
“Quân đội phương Tây không mọc tóc
Đội quân xanh hùng mạnh”
quang dũng miêu tả chân thực cuộc sống chiến đấu gian khổ của người lính miền Tây vừa thiếu ăn vừa phải chống chọi với những cơn sốt rét rừng. Điều này làm cho ngoại hình của hai anh em “không mọc tóc” và “da xanh” khác nhau, với dòng “không mọc tóc” của tác giả Quảng Đông, chúng ta có thể hiểu từ hai khía cạnh. Đánh nhau cũng có thể hiểu là hậu quả của những cơn sốt rét rừng đang hành hạ họ. Những chiếc lá ngụy trang hay làn da nhợt nhạt ốm yếu của những người lính. Dù sao đi nữa, điều mà tác giả muốn gửi gắm chính là những khó khăn, gian khổ mà đồng đội đã trải qua:
“Bạn và tôi đều biết cái lạnh
Sốt, đổ mồ hôi trán”
Nhà thơ Quảng Đông vẫn là dáng người tóc xanh nhưng thơ còn gợi lên giọng điệu phóng khoáng, khí thế của kẻ sĩ. Nghệ thuật đảo lộn từ láy tóc, thể hiện nét kiêu kỳ của trai Tây. Cách nói “dữ” tạo cho người chiến sĩ khí thế của một con hổ dữ để chiến thắng sự khắc nghiệt của thiên nhiên, môi trường.
“Mắt đẹp gửi mộng qua biên giới
Một đêm Hà Nội mộng đẹp và thơm
Phần đầu nói về lý tưởng sinh tồn và lý tưởng chiến đấu của những người lính miền Tây. Lý tưởng đó được gửi gắm qua cái “lườm nguýt” cuồng nộ, để cho kẻ thù giết chết hoài bão của mình, muốn lập công giết giặc. Cùng với lòng căm thù là nỗi nhớ quê hương, họ hàng, người thân, đặc biệt là nỗi nhớ “mỹ nhân”. Dáng người thơm là ai? Có lẽ hình bóng Hà Nội trong ký ức quân nhân: vàng son, sang trọng, vương giả. Nó cũng có thể được hiểu là một cô gái thanh lịch và đáng yêu. Vẻ đẹp thơm gợi lên cơ thể và hương thơm của thiếu nữ.
Bốn dòng cuối bài thơ bộc lộ hiện thực phũ phàng của chiến tranh. Nhưng tác giả đã tái hiện cái chết với bi kịch một cách độc đáo, khác thường bằng cảm hứng lãng mạn và nét bi tráng:
“Rải rác bên bờ mộ xa
Sống xanh không tiếc chiến trường”
Trong cuộc hành quân, những người lính gặp bên đường những nấm mồ của bao đồng đội, nằm đó một mình cô đơn, lạnh lẽo. Điều đặc biệt ở đây là những vần thơ Quảng Đông không làm người ta buồn mà để lại cho người đọc cảm giác bi tráng và hào hùng. Tác giả sử dụng hàng loạt các phương ngữ Hán Việt như “biên giới, xa cách” tạo nên vẻ trang nghiêm, thiêng liêng làm thăng hoa cái chết của người chiến sĩ. Sức mạnh tinh thần giúp người lính hiên ngang bước đi trên đường hành quân là cái nhìn lý tưởng về nhân sinh tử. Họ luôn tin tưởng rằng “Chiến trường không tiếc đời xanh”. “Đời xanh” là hình ảnh ẩn dụ về tuổi thanh xuân. Họ đã cống hiến cả tuổi thanh xuân của mình cho Tổ quốc.
Lần đầu vào chiến trường, sống chết không rõ:
“Chiếc áo phản chiếu anh về với đất
Ma He hót vang”
Một sự thật đau lòng hiện ra khi những người lính nằm trên chiếu và xác không còn nữa. Với biểu hiện của tình yêu và sự tôn trọng, Kuang Yong đã quấn cho đồng đội của mình những chiếc áo sơ mi có hoa văn sang trọng. Họ “trở về với cát bụi,” về với cát bụi. Mẹ Trái đất mở rộng vòng tay chào đón bạn vào thế giới vĩnh cửu của Cha bạn. Vùng đất thanh bình chào đón những người lính, và Mahe hùng vĩ chơi bản nhạc hùng vĩ để đưa bạn vào thế giới vĩnh cửu.
Những vần thơ của nhà thơ Quảng Đông đã khắc họa phần nào cuộc sống nghèo khổ của Tây quân. Đối với họ, cái chết không có gì ghê gớm, và cống hiến tuổi trẻ cho Tổ quốc là một niềm hạnh phúc. Tác giả đã cố gắng tạo ra một lần và mãi mãi một bức tượng hoành tráng của người lính.
Tham khảo từ các bài báo văn học khác:
- Phân tích, so sánh hình ảnh đất nước trong hai bài thơ cùng tên
- Phân tích hình ảnh đất nước đất nước trong hai bài thơ cùng tên
- Mô Tả Bố Cục Đi Về Miền Tây (quang dũng)
- quang dũng phân tích thơ tây (bài văn mẫu)
Phân tích hình ảnh người lính tây tiến vào mẫu thẻ số 3
Trong nền văn học dân tộc, thơ ca cách mạng Việt Nam luôn được coi là kho tàng quý giá của đất nước bởi chúng phản ánh lịch sử đấu tranh hào hùng của đất nước và dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ. .Đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến chống Nhật, những vần thơ khơi nguồn cảm hứng yêu nước đã thực sự hình thành nên tượng đài anh hùng, chiến sĩ – “viên đá của thế kỷ 20”. Hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ đã trở thành hình ảnh đẹp đẽ, đáng tự hào nhất trong các bài thơ thời chống Pháp. Họ là những người có lý tưởng, sẵn sàng vẽ nên lá cờ Tổ quốc bằng máu của mình, đồng thời cũng đầy tâm hồn lãng mạn và hào hoa. Qua tìm hiểu hình tượng người lính trong thơ Tây Du Ký, đặc biệt là bài thơ Quảng Đông tiêu biểu nhất trong thơ ca chống Pháp nói chung, chúng ta có thể thấy rõ điều đó. Hướng Tây p>
Tây Tiến là tên gọi của một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947 trong thời kỳ chống thực dân Pháp vô cùng khó khăn, gian khổ của những ngày đầu kháng chiến. Lính Tây hầu hết là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều sinh viên và trí thức trẻ. Lực lượng này hoạt động chủ yếu ở vùng rừng núi từ Tây Bắc Lào đến Thượng Lào, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt – Lào và phối hợp với quân đội Lào tiêu diệt quân Pháp. Cuộc sống cơ cực, khó khăn nhưng khí chất hào hùng của những người lính Tây Tiến vẫn được bộc lộ. Bài thơ này viết vào cuối năm 1948, khi Quảng Đông vừa ra quân. Tên ban đầu của bài thơ là “Mei Tai Tian”, sau đổi thành “Tây Dương”. Bài thơ thể hiện lòng ngưỡng mộ các nghĩa sĩ chống Pháp qua nỗi nhớ về cảnh vật và con người miền Tây, ca ngợi một thời kỳ hào hùng và gian khổ trong lịch sử dân tộc. Nỗi nhớ này xuyên suốt cả ba khổ thơ và bốn dòng cuối của bài thơ.
Trước hết, ở khổ thơ đầu của cả bài thơ, Quảng Dũng đã bộc lộ nỗi nhớ Tây quân. Qua nỗi nhớ ấy ta thấy được bức tranh bi tráng toát lên vẻ đẹp của những người anh hùng Tây tiến:
Mahe ở xa và về phía tây!
Nhớ sông nhớ chơi với nhau
Sai muốn sung quân
Nở hoa về đêm
Nỗi nhớ ấy bắt đầu từ tiếng gọi “Miền Tây”. Tiếng gọi ấy nghe thật tha thiết, như vang vọng trong không gian Ma Heo, trở về miền kí ức xưa. Một thời, bom đạn ấy để lại nỗi ám ảnh khôn nguôi đối với những người trực tiếp tham chiến. Cách mỗi dòng kết thúc bằng vần càng khiến cho dòng đó vang xa hơn trong đêm: “Ồ vâng, một chút”. Như hơi thở mệt nhọc của người lính Tây Phương sau một ngày hành quân. Hai địa danh Sài khao và Mường Lát dường như khắc sâu trong nỗi nhớ của tác giả. Hai địa danh này gắn liền với hành trình tiến quân của các đoàn quân. “Đêm hơi nước” gợi cho người đọc bao điều tuyệt vời, đêm hơi nước có thể là đêm sương khói, đêm hơi nước vẫn là đêm hơi se lạnh nơi rừng sâu, nhưng cũng có thể là một hành động nhẹ nhàng. Ánh đèn của binh đoàn Tây Tiến và sương mù trong đêm xung trận đều thể hiện sự gian khổ, vất vả của đoàn quân. Những gian khổ của cuộc trở về Tây quân trở nên đẹp và nên thơ trong thơ Quảng Đông. Đó là những gian truân mà người lính phải trải qua, và chính những gian truân đó đã làm toát lên vẻ đẹp bi tráng của họ… Đoạn đường thoạt nhìn đã thấy xấu hổ, bài thơ với chữ “sâu” càng làm cho đoạn đường thêm quyến rũ sự nguy hiểm. Chưa dừng lại ở đó, hình ảnh vụng về đầu súng của những người lính đùa với mây:
Dựa vào một khúc cua dốc
Con heo nhả khói mây, súng ngửi trời
Nghìn thước lên, ngàn thước xuống
Ai đang mưa ở phương xa
Chi tiết, hình tượng thơ của tác giả thật ấn tượng. Sương mù dày đặc phủ kín cả đoàn quân, mưa lớn trút xuống, nhà cửa lênh đênh giữa biển khơi… Nhiều câu thơ sử dụng hàng loạt các hiệp tiết: “xiên”, “quanh co”, “sâu”… thể hiện sự gập ghềnh, những khoảng trống, và Ngoằn ngoèo và hiểm trở. Những độ cao và độ sâu này được đo bằng hàng nghìn mét, nhấn mạnh những khó khăn gian khổ mà quân đội phải vượt qua. Thứ hai, từ ngữ rất táo bạo, đặc biệt là những từ “súng ngửi trời” khiến người ta lóa mắt.
Hai câu sau có sự hài hòa rất độc đáo. Điệp từ “Nghìn thước” là một thủ pháp nghệ thuật ước lệ, miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, chênh vênh, đến ngỡ ngàng của núi rừng miền Tây. Phép đối tương đồng của “nghìn thước” trong câu và tính chất tương phản của động từ “lên và xuống” tạo nên cảm giác gấp khúc đột ngột, mạnh mẽ trong bài thơ, đồng thời cũng là một cách diễn đạt để nhà thơ miêu tả độ cao của dốc và vực sâu: ở đây, đường lên núi dốc nhọn, từ bên kia vách đá rơi xuống thì nguy hiểm. Cả hai bài thơ đều đặc biệt phong phú về hình thức và cách diễn đạt, đều trực tiếp hoặc gián tiếp miêu tả Xipo, nhưng đều đồng thời miêu tả sự nguy hiểm và vẻ đẹp hùng vĩ. Qua những bức tranh về thiên nhiên ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến: họ lạc quan, mạnh mẽ, coi thường mọi khó khăn trở ngại, những thử thách của thiên nhiên càng làm cho ý chí, sức mạnh, tâm hồn tươi trẻ và bản lĩnh nghệ thuật của họ thêm rõ nét. Sau câu thơ nói về sự nguy hiểm của sườn đồi, câu thơ tả cơn mưa không ngớt trong bảy thanh rơi xuống, kèm theo nhiều âm tiết mở đầu. Đoạn thơ gợi tả không gian mênh mông, trải rộng, mờ ảo trong mưa nơi “ngôi nhà xa hòa cùng mưa”. Đường nét rộng mở vô biên, lời thơ như bay. Tôi có thể hình dung một người lính leo lên cồn cát và một ngày dừng lại bên bờ để nhìn ra xa. Những người lính xa xứ nhìn ngôi nhà trôi bằng đôi mắt mờ ảo, ẩn hiện trong màn mưa hư ảo… Những khác biệt tinh tế chỉ làm cho cụm từ “nhà ai” trở nên mờ ảo, xa vời. Sắc thái đáng ngờ làm tăng mối quan tâm. Cả bài thơ chỉ có tiếng “quê”, mang âm hưởng huyền bí, như một khoảnh khắc tĩnh lặng, suy tư, mọi âm thanh đều chơi vơi không chút hoài niệm. Trong mưa rừng giá lạnh, trong núi rừng bát ngát, ở những địa danh như sài khao, mường lát, mường hịch, pha Luông… thật lạ lùng và càng làm tăng thêm ấn tượng về sự hoang sơ, kỳ vĩ, bí mật, chốn rừng thiêng. hình ảnh ngôi nhà gợi lên một cảm giác ấm áp và hoài niệm dễ làm xao xuyến lòng người xa quê. Chúng không chỉ kể về những vùng đất bộ đội đã đi qua, mà còn kể về những lúc “đọc đã mỏi chân” (Trần Lê Văn).
Núi rừng miền Tây tiếp tục vẽ nên một bức tranh ấn tượng:
“Tiếng thác đổ ầm ầm trong chiều
Đêm hổ trêu người”
“Thác hú” và “Hổ vồ” là hai hình ảnh nhân hóa, thể hiện vẻ hoang sơ kỳ bí, hoang sơ của núi rừng miền Tây. Lối đối lập của cảm hứng lãng mạn được sử dụng bằng phép đối thể hiện rất tinh tế trong hai câu thơ này. Nếu câu trên có các thanh điệu “thác đổ” và “gào thét” thì câu sau có các thanh điệu “húp” và “hổ”, cũng có các thanh điệu tam giác nhưng cùng thuộc một phạm vi. ngắn ngủi. Dấu sắc ở câu trước có thể thấy như gợi tiếng thác dữ dội trong vòm sâu, dấu nặng liên tiếp ở câu thơ sau như tiếng bước chân nặng nề của thú dữ, gợi sự đe dọa u tối, bí hiểm nơi núi rừng u tối. . “Chiều” và “đêm đêm” là những trạng ngữ chỉ thời gian lặp đi lặp lại, trường tồn, vĩnh cửu. Sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên ngự trị núi rừng miền Tây không phải một chiều, không phải một đêm, mà là “chiều đêm đêm”-mãi mãi! Nhưng nó cũng làm cho chân dung của những người lính phương Tây trở nên anh hùng và mạnh mẽ hơn: họ hành quân qua những vùng đất hoang vu, hung dữ, không có người ở, tưởng chừng chẳng khác gì những vương quốc. Lợn mình hút mây trời, rừng thiêng nước độc, mảnh đất ấy giờ in dấu chân của những người lính dũng cảm, ngoan cường của đoàn quân viễn chinh Tây Phương.
Những gian khổ, gian khổ và vẻ đẹp của những người lính hành quân về phía Tây ít nhiều được thể hiện trong những bài thơ tả cảnh thiên nhiên miền Tây và Tây Du Ký, bên cạnh đó cũng có những bài thơ miêu tả trực tiếp hình ảnh, kỉ niệm của người lính. những người lính đang hành quân. Đầu tiên, Quang Brave bị ấn tượng bởi hình ảnh Tây quân hành quân:
“Bạn không thể đi được nữa
Một phát giết!
nhớ ơi cơm miền tây nghi ngút khói
Mai Châu mùa đượm hương nếp”
Từ “khô dầu” trần trụi đã thể hiện đầy đủ những gian nan, vất vả của anh em trong cuộc viễn chinh về phía tây, vượt qua núi non, vực thẳm, sông suối, vượt qua bao chông gai gai góc. Nắng, mưa, sương và gió ở phía Tây… Hai dòng thơ ấy như một nét phác họa đầy ấn tượng về người lính ở phía Tây. Sự hồn nhiên của người lính thể hiện ở giây phút kiệt sức, ngủ quên trên ba lô, bỏ lại sau lưng bao gian khổ, nguy hiểm của cuộc trường kỳ kháng chiến. Hình ảnh người lính tựa súng, đầu đội nón mỡ, không còn bước đi là một hình ảnh đẹp. Câu này là để giảm bớt cái chết và sự hy sinh của những người lính đó. Đây là vẻ đẹp bi tráng, hy sinh khác là mảnh cẩm thạch, nhưng ở mảnh cẩm thạch ấy ta thấy vẻ đẹp tráng lệ vô hạn. Họ có thể hy sinh, nhưng trong trạng thái rất thảnh thơi, ký ức về sự ở lại mòn mỏi “quên đời”, ký ức về những chiều đêm cùng tiếng thú gầm, nhớ về đêm mùa nếp nương Mai Châu.
Ở những câu thơ tiếp theo, người lính mang dáng vẻ hồn nhiên, ngây thơ và đời sống tinh thần của anh cũng vô cùng tươi vui, lạc quan, những hình ảnh lễ hội trong cuộc sống hàng ngày, cũng như cô chăn cừu xinh đẹp, duyên dáng mang một tình cảm quân nhân thân thiện, thật đẹp . Những chiến binh bất chấp gian khổ và xuất hiện với vẻ đẹp oai phong và hút hồn.
Những ngọn đuốc được thắp sáng trong doanh trại
Này, bạn mặc cái áo đó từ khi nào vậy
Chạy giai điệu của cô gái nhút nhát
Về âm nhạc của mục đồng định hình tâm hồn
“Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây quân, đồng thời cũng là nơi diễn ra các lễ hội văn hóa đậm đà tình quân dân. Đồng bào các dân tộc tập trung về đây để góp phần cổ vũ tinh thần cho Tây quân. Từ “thịnh vượng” gợi cảm giác ấm áp, niềm vui lây lan. Một đêm trong rừng trở thành một đêm lễ hội. Đuốc tre, đuốc chà bông trở thành “đuốc hoa” (“đuốc hoa” là hoa mừng – nến thắp trong phòng tân hôn đêm tân hôn). Ở đây, “đuốc hoa” mang ý nghĩa gợi không khí ấm áp, gợi niềm vui, niềm hạnh phúc trong lòng người chiến binh. “Ngọn lửa” có nghĩa là ánh sáng đuốc hoa, lửa trại rực rỡ, còn có nghĩa là tưng bừng tiếng kèn, tiếng ca, tiếng cười nói. Có thể hình dung cái đêm mà Kwang Yong viết ở trên là một đám cưới tập thể. Từ “nhìn” ở vế thứ hai diễn tả sự ngạc nhiên, ngưỡng mộ của những người lính miền Tây trước vẻ đẹp của một cô gái vùng cao “ăn mặc lộng lẫy” và “trầm lặng”. Quang dũng thấy cô gái này xinh đẹp, vừa yêu vừa ghen tị. Yêu tất cả mọi thứ từ cơ thể đến quần áo. Chính những bộ trang phục truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa của những cô gái Tây Bắc càng làm nổi bật vẻ đẹp của họ. Quang dũng không khỏi ngẩn ngơ trước vẻ đẹp đó. Bạn trở thành cốt lõi của bức tranh với vẻ đẹp kỳ lạ. Những cô gái Mơn, Thái, Lào xinh đẹp, duyên dáng xuất hiện trong những bộ trang phục lộng lẫy. Cũng có thể hiểu là anh bộ đội hóa trang thành một cô gái trong bộ quốc phục rất độc đáo để tạo tiếng cười cho đêm văn nghệ.
Điều ngạc nhiên hơn nữa là tiếng còi của “tiếng người”. Tần là một loại nhạc cụ của các dân tộc thiểu số ở vùng núi Tây Bắc Trung Quốc, và “man điệu” là một loại nhạc “dị” đặc trưng trong văn hóa dân tộc nơi đây. Kèm theo giọng ca say sưa ấy còn có điệu múa Lin Wang duyên dáng của những cô gái Lào đã “xây hồn thơ” trong lòng những người lính trẻ. Chính sự lạ lùng ấy đã hớp hồn chàng trai Tây hào hoa đến từ Hà Nội. Chính trong không khí ca múa ấy, tâm hồn của những người lính miền Tây như được chắp cánh, thăng hoa, mọi mệt mỏi dường như bị đẩy lùi, chỉ còn lại lòng yêu đời, yêu nước. Thế là mọi mệt mỏi, mọi đau khổ đều tan biến. Ngược lại, sự lạc quan, yêu đời càng khiến họ mạnh mẽ hơn trên con đường “xây hồn thơ mục tử”. Từ đó ta thấy được rằng ngay cả trong những giờ phút vui vẻ, thoải mái nhất của những người lính ta, tâm hồn họ vẫn luôn hướng về lý tưởng cách mạng cao đẹp.
Bốn câu sau là cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc, vừa thực vừa mộng, hoang vắng, vắng lặng mà đượm hương thơ, như tranh. Bốn câu đều là phong cảnh Tây Bắc đẹp mê hồn :
Người đến Châu Mộc chiều sương mù ấy
Bạn có thể thấy linh hồn đang làm sạch bờ biển
Nhớ số trên cột
Nước chảy lay hoa
So với bốn câu thơ trên là không khí đêm hội, ánh đèn rực rỡ và hình ảnh tâm hồn trẻ trung, yêu đời của những người lính Tây Tiến, thì bốn câu thơ tiếp theo, người đọc quang dung đến hình ảnh buổi chiều mù sương , những dáng người và những ngọn núi Tây Bắc… liên tiếp hiện ra những không gian sương khói thơ mộng. Tây Bắc tự nhiên xuất hiện theo hướng sét. Sự dữ dội, hung dữ được đẩy lùi, thay vào đó là những hình ảnh dịu dàng, thơ mộng. Đầu tiên là hình ảnh giọt sương buổi chiều thể hiện nét phong trần vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương ở đây không phải là sự bao bọc, bao bọc, sương mù mà là một thứ “người đi rừng chiều chiều”. Nó gợi lên một bảng màu, khói và nỗi buồn man mác. Đại từ “ấy” làm rõ nghĩa của từ chiều sương, nhấn mạnh đây là một buổi chiều sương rất đặc biệt, và buổi chiều sương trong nỗi nhớ đã trở thành kỉ niệm, nên tình trong thế cũng hoang vắng. giữ lấy!
Không gian thơ mộng làm nền cho sự xuất hiện của nhà thơ: trong khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc sinh động, thơ mộng, hình ảnh con người nơi đây hiện lên trong vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên trung: ‘ ‘ Nhớ số ” trên một cây duy nhất. Câu nói “có thấy – có nhớ” gợi như khắc ghi một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng trong lòng người. Hầm tránh bom là một loại xuồng được làm từ thân của một cây gỗ to, dài. Hình người chống gậy ở đây có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của cô gái Thái và con mèo cõng bộ đội qua sông. Cũng có thể hiểu đó là dáng vẻ kiêu hãnh của những người lính miền Tây chèo thuyền vượt sông, vượt thác, dũng mãnh tiến lên. Tất cả những hình ảnh đó đã để lại ấn tượng khó phai trong lòng người Quảng Đông… Thiên nhiên vùng Tây Bắc Trung Quốc nổi tiếng với dòng sông Mã chứa đựng biết bao hung bạo. Tuy nhiên, ở đây, dòng sông mã hiện ra nhẹ nhàng lạ thường. Những cánh hoa rừng không “lấp ló” mà “trôi theo dòng hoa”. Chữ “đu” thật xúc động: cánh hoa rừng cũng quyến luyến người. Những cánh hoa dại như vẫy gọi chiến sĩ, đưa họ qua sông giết giặc.
Sự bền bỉ của họ làm cho ý chí, quyết tâm của người lính không bao giờ phai nhạt dù gian khổ, gian khổ bộ đội có tác động tiêu cực đến thân thể của bộ đội nhưng chính tinh thần của bộ đội miền Tây thì không hề phai nhạt.
“Quân đội phương Tây không mọc tóc
Đội quân xanh hùng mạnh
Mắt sáng gửi ước mơ qua biên giới
Một đêm Hà Nội mộng đẹp và thơm
Không chỉ những khó khăn trên chiến trường mà cả những câu chuyện về bệnh tật, thời tiết xấu cũng được Quang Dũng đưa vào thơ. Không còn bí bách, thiếu thốn hay bệnh tật như sốt rét. Người chính trực trong bài thơ “Đồng chí” tả trực diện căn bệnh:
“Bạn và tôi đều biết cái lạnh
Sốt, đổ mồ hôi trán”
Căn bệnh khủng khiếp khiến cả quân đội rụng hết tóc được các chiến binh miền Tây thật thà sử dụng, dù muôn vàn khó khăn nhưng tinh thần chiến đấu của họ vẫn không hề suy giảm. Hình ảnh Quân xanh gầy gò nhưng không yếu ớt mà vẫn dữ dằn. Đôi mắt sắc lẹm gợi cho ta nhớ đến lòng căm thù giặc của các anh hùng phương Tây. Trong mắt có tia hy vọng và tinh thần chiến đấu anh dũng, không chút khuất phục số phận, có thể đó là sự trằn trọc không ngủ được vì nỗi lo nơi biên cương hay bóng hình hải ngoại. .Đó là sự hy sinh của những người lính ấy, phần lớn là những người trí thức, ngày đêm nghĩ về quê hương, với một bóng hồng không bao giờ phai trong tim. Đó là cẩm thạch của vẻ đẹp quân sự. Nhưng nó rất đẹp, vì người ta chết cho lý tưởng cao cả, và đó là cái chết đẹp. Sự ra đi của bạn không phải là điềm báo trước mà được ví như sự ra đi của một người được kính trọng và biết ơn. Những chiếc áo trấn thủ được thay bằng đệm, thể hiện sự giản dị của những người lính. Chiến trường tàn khốc khiến anh ra đi chỉ với một chiếc chiếu. Tổ quốc là nơi con sinh ra, cũng là nơi con trở về, Tổ quốc sẽ luôn canh giữ con trong giấc ngủ vĩnh hằng. Hình ảnh Mã He lại hiện lên, gầm rống hành khúc, như tiễn đưa hồn bạn, đây không phải là chơi mà là rống, càng tạo thêm chất riêng cho thơ.
“Tây Du Ký” được đánh giá là một bài thơ xuất sắc, gần như đạt đến sự hoàn mỹ của nghệ thuật. Lối viết hiện thực kết hợp lãng mạn, nhân vật kịch tính, có nhiều sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu. Hình ảnh thơ sáng tạo giàu sắc thái thẩm mỹ. Ngôn ngữ thơ đa sắc thái, phong cách; (trang trọng, cổ kính; sinh động, gợi…), với những tổ hợp điệp ngữ độc đáo (nhớ chơi, Mai Châu mùa em về…), địa danh vừa cụ thể, vừa chân thực, vừa gợi cảm giác kỳ lạ. . Bao trùm cả bài thơ là giọng điệu bồi hồi nghiêm trang, vui tươi hồn nhiên, tang tóc, trang trọng, trầm lắng… Cả bài thơ là niềm mong nhớ của nhà thơ đối với đoàn quân Tây tiến: nhớ con đường ấy Những gian khổ, thiếu thốn, hi sinh còn những mất mát nhưng còn đọng lại bao kỉ niệm đẹp đẽ, thú vị, ấm áp, nhớ về những đồng đội anh dũng ở miền Tây… Nhờ đó, tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh những anh hùng, chiến sĩ anh dũng ở miền Tây và hình ảnh đất nước miền Tây hùng vĩ. vẻ đẹp nên thơ. Từ đó, toát lên vẻ lãng mạn bi tráng và vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ vinh quang.
Trong các tác phẩm của Quảng Đông Hào, hình ảnh người lính phương Tây vừa thân thiện vừa giản dị, nghe rất vui tai. Qua đây ta còn thấy được vẻ đẹp bi tráng trong cuộc viễn chinh về phía tây của các chiến sĩ, cảm nhận được tình yêu đất nước, con người. Bài thơ xứng đáng là một tượng đài ngôn ngữ làm bất tử chủ nghĩa anh hùng của người cựu chiến binh này trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà vui vẻ:
“Pháo hoa Tây tiến sát biên giới”
Quân đội đi rừng học lớp
Và người đó, bài thơ đó
Sông núi vẫn bất tử.
Xem thêm:
Phân tích hình ảnh mô hình người lính Xitian số 4
Hình ảnh người lính nói chung, đặc biệt trong thời kỳ chống Pháp đã đi vào văn học như một nguồn thơ. Những người lính được nhà thơ miêu tả đầy kiêu hãnh và tự hào. Trong số nhiều tác phẩm đó, Về miền Tây là một bài thơ có vị thế đặc biệt. Tây Tiến là một trong những bài thơ sớm nhất viết về người lính cách mạng, ra đời trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Nhật cứu nước, sau năm 1945 trở thành kiệt tác của thơ ca Việt Nam với hình ảnh những người lính hành quân về phía Tây.
tay tien
là một đơn vị bộ đội được thành lập đầu năm 1947 phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh thắng quân Pháp ở Thượng Lào và phía Tây. Bắc Việt Nam. Quân miền Tây đóng quân và chiến đấu trên một địa bàn rất rộng, bao gồm tỉnh Sơn La, tỉnh Lai Châu, tỉnh Hòa Bình, tỉnh miền Tây Thanh Hóa và cả tỉnh Sán Nú (Lào).
Xét về lý lịch, hầu hết Tây quân là thanh niên Hà Nội, nhiều người trong số họ là sinh viên. Mặc dù điều kiện chiến đấu gian khổ, thiếu thốn, sốt rét hoành hành nhưng các chiến sĩ miền tây vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Có thể nói, những người lính Thủ đô tham gia Kháng chiến đã mang đến cho người dân Hà Nội những giấc mơ, sự lãng mạn và những dịp trọng đại. Bài thơ này được viết từ một nỗi nhớ da diết, hoài niệm về đồng đội và cuộc sống, những kỉ niệm khó quên của tác giả về đoàn quân miền Tây gắn liền với sự hùng vĩ, hiểm trở và mộng mơ của mảnh đất miền Tây. Nỗi nhớ ấy đánh thức tất cả những ấn tượng và kỉ niệm đóng băng trong chân dung người lính Tây Tiến.
Bằng nét lãng mạn mà không trốn tránh hiện thực, bài thơ đã khắc họa nên hình tượng người chiến sĩ bất tử trường tồn với thời gian và không gian. Đầu tiên là vẻ ngoài mạnh mẽ và dị hợm của lính Tây:
Đội quân không mọc tóc
Đội quân xanh hùng mạnh
Xưa ta thấy “đội xe không kính” hóm hỉnh trong thơ Phạm Tiên Đô, nay lại thấy “đội quân không tóc” trong thơ Quảng Dung. Nhưng nét cường tráng, dị hợm của lính Tây bắt nguồn từ thực tế đến từng chi tiết. Tóc không dài thì mắc bệnh sốt rét rừng khủng khiếp, rừng thiêng nước độc không thuốc thang nên quân hàm xanh cũng là một sự thật hiển nhiên. Ngay trong những bức chân dung Vệ quốc đoàn trong bài viết về cá nước, ông cũng không khỏi nhắc đến tác hại khủng khiếp của căn bệnh quái ác đó:
Đổ mồ hôi
Anh ấy có nghệ tây trên má
Nhưng ẩn sau vẻ bề ngoài là sức mạnh bên trong, đó là tâm hồn và bản lĩnh của những người lính miền Tây:
Mắt sáng gửi ước mơ qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội nét đẹp thanh xuân
Nếu từ “mộng” được nhấn mạnh ở khổ thơ đầu thì từ “mộng” được nhấn mạnh ở khổ thơ thứ hai. Bài thơ này không chỉ mang theo ước nguyện suốt đời của những người lính ở phía tây, mà còn mang theo đích đến cuối cùng. Từ “slam” được sử dụng rất tốt. Người đọc có cảm giác rằng tất cả những ước mơ và khát khao chân thành đang trào dâng và lấp đầy đôi mắt của người quân nhân. Câu thơ đó làm tôi liên tưởng đến một bức tranh thơ quen thuộc:
Đêm dài hành quân nóng bỏng
Chợt xao xuyến trong mắt người tình.
(Quê – nguyễn đình thi)
Vốn dĩ, đích đến cuối cùng của người lính bao giờ cũng là hạnh phúc. Nỗi nhớ của họ còn là nỗi nhớ về “thân thơm mỹ nhân” tức là những dáng người yểu điệu, thướt tha, trang nhã của một số mỹ nhân ngoài đời. Họ chiến đấu vì tự do, độc lập, nhưng trên hết là vì cuộc sống tương lai hạnh phúc mà họ hằng mong ước. Vì vậy, “Xiangmeiren” trở thành điểm tựa, hy vọng tiếp thêm sức mạnh để họ chiến đấu và giành chiến thắng.
Những người lính Tây phương sống anh dũng và chết anh dũng. Quang dũng cảm không trốn tránh hiện thực khắc nghiệt nhất, đau đớn nhất, tàn khốc nhất của chiến tranh, đó là sự hy sinh:
Bạn không thể đi được nữa
Một phát là chết;
…
Biên giới xa xôi
Xanh đời không tiếc chiến trường;
Áo thay đất
<3
Nhân vật chính ba lần nhắc đến hy sinh, nhưng lần nào cũng là ẩn dụ, tránh dùng từ “chết”. Dường như khi Xi Bing ngã xuống, đó chỉ là một khoảnh khắc nghỉ ngơi trong cuộc đời anh. Chết không có nghĩa là ngừng chiến đấu vì linh hồn, vì khát vọng của anh ta bất tử theo thời gian. Anh đã ngã xuống, nhưng anh vẫn truyền ngọn lửa tuổi trẻ cho đồng đội, để họ bước tiếp trên con đường cách mạng vẻ vang. Sự hy sinh của các anh khiến người đọc nghẹn ngào: “Rải rác trên những bờ cõi những mồ mả”. Đảo ngữ ở đầu câu nhấn mạnh sự hiu quạnh, lạnh lẽo, hoang vắng và gợi cảm giác đau thương, xót xa; lí tưởng xả thân vì nước có đôi cánh “ra trận không để lại tiếc xanh” cuộc sống”. Xoa dịu nỗi đau của người lính, điểm Nó soi sáng vẻ đẹp của trái tim người lính.
Có lẽ hình ảnh người lính Tây Tiến đã trở thành bất tử. Quỹ đạo của lịch sử có thể thay đổi nhưng thế hệ nào cũng nhớ đến các anh như một hình ảnh đẹp đẽ nhất. Qua hồi tưởng về Quảng Đông, những người lính ở phía tây luôn lạc quan và yêu đời trước những khó khăn, gian khổ và hy sinh. Giọng thơ có lúc thiết tha, có lúc nồng nàn, có lúc réo rắt, có lúc trầm lắng, dẫn người đọc về với quá khứ xa xưa và chia sẻ nỗi nhớ Quảng Đông sâu sắc.
Mở rộng kiến thức
* Khái quát về bài thơ
– Tay tien: Là tên một đội quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ cùng bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, tiêu hao sinh lực giặc Pháp.
– Từ một người lính Tây: Hầu hết là người Hà Nội, trong đó có nhiều sinh viên.
– Cảm hứng thơ: Quang Dũng sau khi đánh Tây quân đã làm bài thơ bày tỏ nỗi nhớ Tây quân.
* Một số bài phê bình thơ Tây hay mà bạn có thể áp dụng vào tác phẩm của mình
– “…miền Tây là sự tiếp nối của dòng thơ lãng mạn, nhưng được tác giả thổi vào hồn thơ rất trẻ trung, mới mẻ, khác hẳn thơ u sầu. Nó cũng vươn lên từ một giai đoạn gian khổ mà huy hoàng trong lịch sử đất nước Nhưng công cuộc tây tiến được thể hiện một cách đặc sắc qua ngòi bút của Quang Dũng, với một tâm trạng nào đó – nỗi nhớ đồng đội trong đoàn quân tây chinh.Đó là tình cảm chân thành sâu nặng của tác giả đối với đồng đội của mình Nhiều thế hệ người đọc đã vô cùng xúc động trước niềm tự hào của bài thơ, đó cũng là chủ đạo của bài thơ này.
(vũ thu hương, vẻ đẹp văn học cách mạng)
– “…về phía tây…người từ phía tây đến từ phía tây, quân từ núi đi về phía tây, vượt ra khỏi giác quan ban đầu Và hùng vĩ. Hành trình về phía tây tuyệt vời không chỉ bỏ lỡ dấu chân người lính… tất cả đều gợi lên một ấn tượng “lạ”, một vẻ đẹp bí ẩn khó tả…
(Ding Mingxing, Vẻ đẹp văn học cách mạng)
– “…Bài thơ này tôi viết vội. Đọc đi, đọc trước đại hội, được mọi người đón nhận nồng nhiệt. Lúc đó, tâm tư tình cảm của tôi viết ra sao. Tôi không sao cả. bài thơ……”.
(Quảng Đông)
-“Đọc sách Tây, sướng trong miệng”.
(mùa xuân kỳ diệu)
– “Cảm xúc bao trùm toàn bài thơ là nỗi nhớ: nhớ núi rừng, nhớ chơi vơi… Qua nỗi nhớ ấy, hiện lên hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội. Tôi như một bức tranh bất hủ, và trong bài viết, Tác giả không che giấu những gian khổ, hy sinh của những người lính Tây Phương mà thể hiện chúng bằng ngòi bút lãng mạn qua con mắt thi nhân, bi kịch bỗng trở thành anh hùng (bi kịch)” .
(gs. nguyễn đăng cường & pts. trần đăng xuyên)
– “Ở phương Tây có câu “về” rất hay: Huagui, Legui, Digui, đặc biệt là câu cuối: Soulgui slam, một đi không trở lại.” Dù là trạng từ hay động từ, nó cũng gợi một sự hướng về một nơi chấp nhận, bao dung, lưu giữ, nghĩa là nơi mà nhà thơ nợ mình phần đời còn lại để nhớ suốt đời… Vì thế, thoạt đầu, bài thơ này có một ý nghĩa hiển nhiên tên “Tây”, chắc nhà thơ viết thế để vợ cho “kỷ niệm” như vậy. Tôi không biết liệu nó có giúp được gì không, chỉ cảm ơn vì sự bỏ lỡ vô tận. Ở đó, nhà thơ đã để lại một bài thơ tuyệt vời. “
(lời nói, bình luận)
-/-
// Mong rằng dàn ý chi tiết và bài tham khảo Phân tích vẻ đẹp của người lính Tây Đô trên đây có thể giúp bạn hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách hoàn hảo và có lợi nhất. Ngoài ra, các em cũng có thể tham khảo thêm nhiều bài ví dụ 12 khác trên doctalieu.com được cập nhật thường xuyên. Chúc các bạn luôn chăm chỉ học tập và đạt điểm cao!