Nhân vật Thị là một trong những thành công đặc sắc của Kim Đơn trong nghệ thuật phân tích tâm tư tình cảm của những người phụ nữ nghèo khổ trong nạn đói năm Ất Dậu 1945. Nhân vật “Vợ Nhặt” được miêu tả là hình ảnh vừa cay độc vừa đau khổ, có vai trò làm nổi bật tư tưởng nhân đạo của “Vợ Nhặt”. Hãy cùng download.vn theo dõi bài viết dưới đây để hiểu tâm trạng của vợ nhé.

Top 20 Bài Văn Phân Tích Người Vợ Bạn Tìm Thấy sẽ giúp bạn tự tin mà không cần lo lắng làm sao để viết được bài văn hay nhất, ấn tượng nhất. Các em hãy vận dụng linh hoạt các bài văn mẫu phân tích nhân vật dưới đây, đồng thời vận dụng các phương thức biểu đạt của mình để bài viết đầy đủ và sinh động hơn. Ngoài ra, các em có thể xem thêm các bài văn mẫu phân tích cặp đôi và phân tích tính cách tôi.

Sơ đồ tư duy phân tích bài kén vợ

Dàn ý phân tích nhân vật

I. Lễ khai trương

  • Giới thiệu sơ lược về tác giả Kim Lan: Là nhà văn giỏi viết truyện ngắn, am hiểu sâu sắc đời sống nông dân, thường quan tâm đến đời sống nông dân.
  • Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn đặc sắc về người nông dân của ông. Nhân vật đóng vai trò lớn trong tiểu phẩm này chính là người vợ nhặt.
  • Hai. Nội dung bài đăng

    1. Bối cảnh

    • Tình trạng vô gia cư: Xem Nạn đói lớn năm 1945, khiến nhiều người phải xa quê hương và gia đình của họ.
    • Lấy tên cũng không được nên dùng cái tên “nhặt vợ”: Thấy người ta ham của rẻ.
    • 2. Chân dung

      – Ngoại hình: Rách rưới, tơi tả, gầy gò, mặt xám xịt, chỉ còn hai con mắt.

      – Lần 1: Khi nghe tiếng hô hào của chị Trượng, chị có ích, đó là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.

      – Lần thứ hai:

      • Xiao Shi khinh miệt mắng cô, không chịu ăn trầu để ăn của quý. Khi được mời ăn, cô sà xuống ngay, mắt sáng lên và “ăn liền bốn bát bánh”.
      • Khi cô ấy nghe câu nói đùa “Anh sẽ về bên em”

        -Nhận xét: Cái đói không chỉ làm biến dạng hình dáng bên ngoài mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn dành sự cảm thông sâu sắc cho thị, bởi đó không phải là tự nhiên, đó là sự đói khát.

        3. Chất lượng

        – Có động lực mạnh mẽ để tồn tại:

        • Dù không biết nhưng cô vẫn quyết định về làm vợ và chấp nhận không sính lễ, vì cô không phải sống lang thang.
        • Về nhà, nhìn thấy cảnh nghèo khó của chính mình, trái ngược với những gì mẹ nói “nhịn cha”, chị “nhịn thở dài”, tủi thân nhưng đành nhẫn nhịn để có cơ hội sống.
        • – Cô ấy là một người ân cần và lịch sự:

          • Trên đường về, cô cũng ngại ngùng nấp sau hàng cột, khẽ cúi đầu, xấu hổ với vai trò vợ nhặt.
          • Vừa về đến nhà, mọi người bảo ngồi xuống, cô mới dám ngồi ở mép giường, hai tay ôm cái giỏ, điều này cho thấy địa vị của cô trong gia đình vẫn chưa được thiết lập.
          • Khi nhìn thấy mẹ chồng, ngoài chào hỏi, tôi chỉ biết cúi đầu “sờ gấu áo tả tơi” để bày tỏ sự xấu hổ.
          • Sáng sớm hôm sau, cô dậy dọn phòng, không còn vẻ “vui vẻ, luộm thuộm” mà dịu dàng, nhẹ nhàng.
          • Khi đang ăn cháo cám, thấy bà “mắt thâm quầng” nhưng bà vẫn bình tĩnh, tỏ ra cung kính, xét nét trước mặt mẹ chồng, coi thường mẹ chồng buồn.
          • <3<3

            – Nêu cảm nhận chung của em về hình ảnh người vợ nhặt sau khi phân tích.

            Ba. Kết thúc

            • Tổng kết về giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, xây dựng hình tượng nhân vật thành công, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên…
            • Tác phẩm chứa đựng giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc: người đọc thấu hiểu, đồng cảm với thân phận nghèo khổ, bị rẻ rúng của người lao động trong nạn đói, tố cáo bọn thực dân, phát xít, ca ngợi cảnh đói khát, khát vọng sống trong cảnh nghèo khổ.
            • ………

              Xem thêm: Phân Tích Dàn ý Truyện Đón Con Gái

              Phân tích thị trường cho Vợ nhặt – Ví dụ 1

              Kim Ran (sinh 1920-2007) là nhà văn chuyên viết truyện ngắn của nền văn học Việt Nam. Thế giới nghệ thuật của ông chủ yếu tập trung vào bối cảnh nông thôn và hình ảnh người nông dân. Có lẽ vì xuất thân khiêm tốn nên ông hiểu sâu sắc hoàn cảnh, tâm lý của những người nông dân nghèo khổ, nặng lòng với quê hương, với cách mạng. Trong kho tàng tác phẩm của ông, truyện ngắn Vợ nhặt là tác phẩm đặc sắc nhất và nhân vật gây ấn tượng mạnh với người đọc chính là thị.

              Nhân vật người vợ nhặt vật liệu xây dựng là một người phụ nữ không tên tuổi, không gia cảnh, không quê quán, không họ hàng thân thích. Tác giả sử dụng các đại từ “thị”, “a”, “người đàn bà” để gọi nhân vật này vừa cho thấy thân phận đáng thương của nhân vật này, nhưng đây cũng là cách tác giả gợi lên trong lòng người đọc hình ảnh tội nghiệp, đáng thương nào. người đàn bà. Chỉ trong vài từ miêu tả, khuôn mặt của Jin Wuni lộ rõ ​​​​vẻ thèm thuồng: “Quần áo rách nát như tổ đỉa, ngày càng gầy đi, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, chỉ còn lại đống đổ nát. Hai con mắt.” , nhưng ngay cả sự dịu dàng và nữ tính bẩm sinh của những người phụ nữ trong thị trấn cũng bị cái đói bóp méo. Táo bạo, táo bạo đến mức trơ trẽn, thậm chí đáng xấu hổ.

              Lần đầu tiên gặp chị, nghe chị nói: “Em muốn ăn cơm trắng mấy giờ/ Lại đây đẩy xe với chị”, chị đứng dậy đẩy chiếc xe chở ruột già. Lần gặp thứ hai, Bà mặt ủ rũ, mắng bà thất hứa, bà từ chối lời mời ăn trầu của ông Trùm để được ăn thứ quý giá hơn. Khi được mời ăn tối, mắt bà sáng lên và không ngại ngùng “ngồi xuống ăn một bát bốn bát bánh không nói chuyện”. Trong mắt chúng tôi, tại sao bạn lại vô ơn và vô liêm sỉ như vậy. Nhưng trời ơi, điều đó không có trong bản chất của cô, chính sự đói khát, đau đớn đã khiến cô hoàn toàn quên đi những dự định của mình và đánh mất đi sự e thẹn vốn có của người con gái trước một người đàn ông mới quen. Khi tôi nghe câu nói đùa: “Đùa thế này, có anh đi cùng thì ra xe lấy hàng rồi về”, nhưng “chị về thật”. Có thể thấy, cho dù kết hôn, cùng một người đàn ông về chung một nhà, chung sống cả đời cũng là quyết định theo bản năng, mặc cho ánh mắt và bàn tán của cư dân đều hướng về thị trấn nhỏ này. tủi nhục, bẽ bàng. Tuy nhiên, từ chi tiết này, ta cũng thấy được hình ảnh người con gái với khát vọng sống mãnh liệt. Cô hứa sẽ sống thuận theo dòng chảy, không phải loại đàn bà làm nũng. Cô ấy không cần mai mối, không cần lấy chồng, không cần một mâm đầy, về nhà với hy vọng có miếng ăn.

              Khi đến tịnh xá, thấy một ngôi nhà trống trơ ​​trọi trong khu vườn đầy cỏ dại, trong nhà xoong nồi, quần áo, giường chiếu, nền đất vương vãi khắp nơi, chị không khỏi hụt hẫng, thất vọng: “Nàng lật xem nhìn chung quanh trợn trắng mắt, gầy gò nhô lên ngực, cố nén một tiếng thở dài.” Vậy ra đó là gia cảnh của anh chàng vỗ túi khoe bố hồi trưa! Bạn vẫn biết làm thế nào để làm điều đó? Công việc hoàn thành! Thất vọng, buồn bã, cay đắng nên mặc cho những lời giễu cợt, cô chỉ cười nhạt. Xin ngồi xuống, bà chỉ “ngồi xuống mép giường, hai tay ôm cái giỏ, vẻ mặt khổ sở”.

              Gặp lại bà già, mẹ gánh hát trở lại vẻ e thẹn, bẽn lẽn của cô con gái mới về nhà chồng. Nếu như hôm qua cái đói đã cướp đi vẻ nữ tính của nàng thì hôm nay, sau một bữa ăn ngon và một giấc ngủ ấm áp dưới mái nhà êm ấm, vẻ đẹp ấy đã trở lại với nàng. Cô bắt tay vào việc của chính mình: “Hôm nay em quét dọn nhà cửa, sân vườn sạch sẽ, ngăn nắp. Mấy cái giẻ rách như tổ đỉa cả chục năm nay bu đầy một góc nhà, em thấy mà mang ra”. Hai cái bể để khô dưới gốc cây ổi chứa đầy nước, và đống mùn vương vãi khắp lối đi sạch sẽ. Nó như một cơn gió mát lành thổi vào cuộc đời u ám của hai mẹ con, đem sự sống trở lại cho người và cảnh. Sự thay đổi này khiến cô bất ngờ: “Đại tràng hôm nay khác lắm, rõ ràng là người phụ nữ đoan chính, dịu dàng không còn háo thắng như những lần gặp nhau ngoài tỉnh nữa”. . Bà cụ “nhẹ nhõm, sảng khoái, khác hẳn người thường, gương mặt vốn ủ rũ bỗng bừng sáng”. Vẻ đẹp tiềm ẩn của người vợ kén chọn này còn thể hiện ở một chi tiết rất nhỏ, đó là lần đầu tiên ở nhà chồng dọn bát chè cám “đắng nghẹn cổ họng”. cả hai mắt tối sầm trong giây lát, nhưng ngay sau đó cô bình tĩnh lại và vào miệng. Đó là một chi tiết rất đắt giá thể hiện sự tinh tế trong nhận thức và sự khéo léo trong hành động ở một người phụ nữ tưởng chừng như táo bạo. Cô hiểu hoàn cảnh của hai mẹ con nhưng cô không muốn làm mất đi niềm vui của bà lão tội nghiệp. Cuối cùng, cô ấy nói với tôi rằng ở Bắc Giang Thái Nguyên, người dân không chịu nộp thuế mà còn đi phá kho thóc của Nhật, điều này đã bộc lộ tư duy mới và tầm nhìn mới của cô ấy, người phụ nữ này không chấp nhận cuộc sống chết đói, có thể một ngày nào đó cô ấy sẽ ra đi cùng chồng phá thóc, đi theo cách mạng để giải phóng cuộc đời và cùng nhau tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn.

              Nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ Nhặt của kim lan là nhân vật đại diện cho hàng triệu phụ nữ, đặc biệt là hàng triệu nông dân Việt Nam trong nạn đói 1945. Đây là một nhân chứng, với ý nghĩa lên án, lên án. Tội ác ghê tởm của Nhật, Pháp khi gây ra nạn đói khủng khiếp, làm nhân dân ta lầm than, không được sống một cuộc đời thực sự làm người. Cũng qua tác phẩm này, biên kịch Kim Yoni đã xây dựng hình tượng người vợ rất thành công. Tác giả tập trung miêu tả từng động tác, cử chỉ, nét mặt của nhân vật, giúp người đọc hiểu được tâm lý phụ nữ. Nhà văn chọn những chi tiết phù hợp nhất để bộc lộ vẻ đẹp của số phận và nhân vật. Qua đó nêu bật những phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam dù không xinh đẹp, khổ cực.

              Phân tích thị trường Tìm vợ – Mẫu 2

              Nhân vật thị là một trong những thành công đặc sắc của Kim Uni trong nghệ thuật phân tích cảm xúc của những người phụ nữ nghèo khổ trong nạn đói năm Ất Dậu 1945.

              Nhân vật người vợ được miêu tả lém lỉnh, đáng thương góp phần nhấn mạnh tư tưởng nhân đạo nhặt nhạnh nghề vợ.

              Nạn đói trầm trọng. Người đói như ngả rạ, quạ bay như mây đen. Hàng đoàn người đói khát chạy đến từ phía nam của Dinghe, và sau đó, trong hòa bình, chạy tán loạn như những bóng ma nhợt nhạt trên những chiếc lều của khu chợ. Mùi xác chết cũng đói và “ngồi ngoài” với các chị ở cửa kho. Không tên, không quê quán, không tuổi tác. Cha mẹ và anh chị em của bạn có chết đói không? Cái đói cướp đi tất cả, chị bị “bạn bè xô đẩy” ngay lần đầu nghe câu cửa miệng “muốn ăn cơm trắng hàng giờ…”. Anh “cười như điên” với khán giả: “Này cả nhà, nói thật hay khoác lác vậy?”. “Mắt cười” khiến anh chàng này “thích lắm”. Lần tiếp theo gặp phải ruột già của mình, cô ấy đã hoàn toàn khác. Quần áo của cô ấy tả tơi như một tổ đỉa, và cô ấy trở nên hốc hác. Khuôn mặt của lưỡi cày có màu xám và chỉ có thể nhìn thấy hai con mắt. Dưới chân thành phố là vực thẳm, đó là nạn đói! Thị trường “hờn dỗi” và buộc tội lĩnh vực này là “liều lĩnh”, “thư giãn nhưng mất mặt!”. Thấy cô ấy vỗ túi khoe “bố cưng” là mắt “sưng” sáng lên ngay. thị bị anh trai “bực bội”: “Ăn cho thiệt!”. Cô ăn trộm bốn bát bánh xốp một lúc, thở hồng hộc, liên tục khen: “Ha, ngon quá!”. Anh ấy cũng rất hay đùa, và giống như hầu hết các cô gái, anh ấy rất hay tán tỉnh, khi nói có một câu rất nịnh nọt: “Lỡ thì bỏ bố nó!”. Vở kịch chỉ có một câu “Ta không có vợ…”, nàng lập tức liền nói: “Nàng thật sự trở về.” Đứng trong căn phòng mẹ con “trống… chật”, chị đảo mắt nhìn quanh, thất vọng thấy “bộ ngực gầy nhô ra, nén tiếng thở dài”.

              Từ dáng điệu, đến cử chỉ, đến cách nói năng, đối đáp đều tròn trịa và thô lỗ. Cô đã nhịn ăn nhiều ngày và chết đói, phải ăn mới sống được. Cô ấy cần một nơi trú ẩn khỏi cái đói, vì bản chất tốt đẹp của các cô gái luôn bị đói khát, và thật tội nghiệp biết bao khi cái đói khủng khiếp cướp đi và bao trùm lấy họ! Cô ấy có gì khác với người ăn xin đó không?

              “Ai là ăn mày? Ăn mày là tôi! Tôi là ăn mày đói cơm rách!”

              (tiếng lóng)

              Con ngạ quỷ mà anh không biết tên đó có bản chất tốt. Cách Jinlan kể và mô tả rất tử tế, khoan dung và từ bi, và chúng tôi đã rất cảm động.

              Chỉ sau một ngày một đêm, sau khi trở thành vợ của Cologne và là “dâu mới” của bà già, ta thấy nhân vật này cũng như bao người phụ nữ khác, đều có những biểu cảm, tình cảm tốt đẹp. những phụ nữ khác. Dù sắp chết nhưng cô gái vẫn khao khát được hạnh phúc, được sống trong một gia đình như những người phụ nữ may mắn khác, một mái ấm yêu thương bên chồng và những đứa con thơ. Trước con mắt tò mò của hàng xóm, chị “ngượng chín mặt, chân giẫm nhẹ lên chân kia”. Nghe lũ trẻ gào lên “Anh ơi! Hài của vợ”, thị “cau mày” trước khi giơ tay định “lật áo lại”. Lão phu nhân chưa từng gặp qua, nàng rất bối rối, thực sự bị “khuôn mặt đáng thương” của mình làm cho bối rối. Đứng trước mặt mẹ chồng, trông cô rất đáng thương và ngạc nhiên: “Cúi đầu, hai tay ôm góc áo tả tơi”.

              Mới nghe bà cụ bảo: “Ngồi đây. Ngồi đây cho đỡ mỏi chân” thi “Hay ngồi xổm đứng tại chỗ”. Đó là tâm trạng của người con gái lấy chồng không trầu, không lá trầu, không lấy chồng. Xin lỗi vì tình huống này. Thật đáng tiếc khi số phận thật đáng thương!

              Thịnh cũng có nhiều biểu cảm “ngầu” rất nữ tính. “Nụ cười” đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Đánh đòn, yêu gọi: “đồ khốn”. Một câu trách móc nhẹ nhàng với chồng là: “…chuyện lớn, nóng ruột chờ đợi”. Một cái tát vào trán, rồi sau đó là câu yêu thương: “Chỉ có nhanh thôi. Bẩn thỉu!”. Sau bao ngày đói rét, lảng vảng góc phố, chết đói, cô cũng về làm vợ Colon, và dù gặp nhiều thử thách, lo toan, cuộc đời cô cũng sắp đổi thay. Niềm vui trong đêm tân hôn là biểu hiện cảm động về niềm khao khát hạnh phúc của người phụ nữ giữa đói rét và đau đớn. Hạnh phúc đến muộn, nhưng thật đáng quý! Những nét vẽ hóm hỉnh của Kim Uni cho thấy anh trân trọng hạnh phúc của cặp đôi về tính cách và những đổi thay trong cuộc sống như thế nào.

              Tính cách vợ tôi có nhiều thay đổi tốt, cô ấy dậy sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu dọn nhà cửa, cùng nhau xây dựng tổ ấm hạnh phúc. Tiếng chổi quét qua sân “lạch cạch”, lòng chị như rộn lên niềm vui, khi chị “lặng lẽ” vào bếp chuẩn bị bữa sáng, chị cảm thấy vợ thật đáng yêu. Khi một bà già có vợ, có “cô dâu”. Có nhiều người ở, nhiều món ăn, và nhiều người. Cô đưa cuộc sống vào cuộc sống, với thông tin mới của thời đại, cho mẹ con cô, cô cũng nghe thấy tiếng trống thuế, khi cô nói với mẹ chồng và chồng: “Ở Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không còn đóng thuế nữa. Tôi đem tất cả thức ăn ở Nhật cho người đói.” Từ đó, ta cảm nhận được nhân vật người vợ là “cô dâu mới” và là phái viên của cách mạng.

              Vai người vợ trong truyện “Vợ nhặt” là nhân chứng tố cáo, lên án Nhật, Pháp gây ra nạn đói năm 1945 khiến hơn hai triệu đồng bào Trung Quốc chết đói. Chết đi..nạn đói khủng khiếp mà chúng gây ra, cũng đã hạ thấp phẩm giá con người, tước bỏ mọi giá trị, biến những người đàn ông con gái thành những món hời có thể “nhặt được”!

              Vợ gầy đói, về làm dâu thì quần áo rách như tổ đỉa, bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng là cháo cám-hình ảnh đó, đó cốt truyện thật đáng thương. Đó cũng là nỗi đau, nỗi tủi hổ của nhân dân ta trước ách nô lệ đau khổ.

              Nhân vật người con dâu trong truyện “Rước dâu” cũng bộc lộ một sự thật ở đời. Trong nghèo khó, gian khổ, lúc sinh tử, khi lớn lên, chúng ta vẫn khao khát một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Người nghèo biết nương tựa vào nhau, sẻ chia vật chất, thương yêu nhau, với niềm tin và sự thấu hiểu “ai giàu ai nghèo” đã vượt qua khó khăn thử thách, tiến tới ấm no, hạnh phúc, đổi đời. . “Mấy thế hệ”…và các nhân vật bà cụ, ông lão, người vợ có vai trò thể hiện tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm “Vợ nhặt”.

              Phân tích thị trường Tìm vợ – Mẫu 3

              Trong nền văn học hiện thực Việt Nam những năm trước cách mạng và những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, Kim Ranh là một trong những cái tên nổi tiếng nhất khi viết về đề tài giai cấp nông dân xã hội. Tuy số lượng tác phẩm ít ỏi nhưng hầu như tác phẩm nào của Cam Ranh đều hay và có giá trị, là cơ sở để xếp nhà văn này vào 1 trong 9 nhà văn tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Điểm sáng nhất, bắt mắt nhất trong các tác phẩm của Kim Lan chính là giọng văn nhẹ nhàng, gợi cảm, chủ yếu tập trung vào việc làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn con người và hướng đến lối thoát nhân văn cho kiếp người khốn khổ, hơn là tập trung nhấn mạnh vào tính hiện thực. của xã hội cũ khắc nghiệt và đau thương. Vợ nhặt được là một trong những tác phẩm nổi tiếng và hay nhất của kim lân, lấy bối cảnh trong ngày đau thương nhất của đất nước – nạn đói năm 1945. Nhân vật người vợ Trang là một trong những kiếp người đau khổ nhất. Cô ấy thối rữa, teo tóp và xấu xí trong mắt mọi người, nhưng khi tìm hiểu sâu hơn về nhân vật, chúng tôi thấy rằng cô ấy cũng có những phẩm chất tốt đẹp, đáng quý.

              Nhân vật của cô là một người phụ nữ không tên, không tuổi, không quê quán, không xuất thân, không gia đình, không ai biết cô đến từ đâu, cả cuộc đời trước khi gặp cô dường như chẳng có gì, chỉ là hồi ức. Cảnh ngộ phố nhỏ, cảnh ngộ chung của nhiều nông dân trong nạn đói năm 1945, khi tính mạng con người bị coi rẻ như cọng rơm nhặt ngoài đường. Cô ấy không chỉ nghèo, không xuất thân, không danh vọng mà còn mang trong mình tất cả những bất hạnh của một người phụ nữ, cô ấy không có nhan sắc, cái nghèo lại càng khiến nhan sắc của cô ấy xấu xí hơn. Đáng thương hơn là trong “quần áo tả tơi như tổ đỉa”, “gầy gò”, “trên chiếc lưỡi cày xám xịt chỉ thấy hai con mắt”, rồi “bộ ngực gầy nhô ra”, “hai con mắt trũng sâu”. để thấy rằng bản thân cô cũng như bao người khác phải chịu số phận bi thảm trong Nạn đói lớn đang bước những bước cuối cùng đến nghĩa địa của cuộc đời.

              Cô ấy không có ngoại hình xinh đẹp nhưng cách ăn nói và hành vi của cô ấy cũng rất phản cảm. Nghe anh đọc vài câu chuyện tiếu lâm để an ủi tôi, tôi thấy có ý châm chọc, rồi ngập ngừng tiến lại chụp cái xe hàng, rồi nói câu “nhìn mà cười”. Tuy nhiên, sau khi đẩy xe đẩy xong, cháu không ăn được, gặp lại chợ rau, cháu chỉ thẳng mặt chửi: “Bố, đồ đồi bại”. Nghe hắn ăn “hai con mắt trũng chợ sáng ra”, tư thế thay đổi hẳn, thái độ cũng thay đổi hẳn. Sau đó cô cúi đầu ăn 4 bát bánh cuốn không nói một lời, ăn xong cô lấy đũa quệt miệng rồi “ừ” một tiếng. Quả thật, tôi chưa từng thấy một người phụ nữ nào có thể thoải mái, thậm chí vô ơn, hỗn láo, chiều chuộng trước một người đàn ông xa lạ mà tôi chỉ mới gặp hai lần. . Nạn đói làm cho tâm hồn và nhân cách con người trở nên rẻ rúng và thiểu não. Nhưng khi quan sát kỹ và nhìn hành vi của các nhân vật một cách nhân bản hơn, chúng ta nhận ra rằng trong thực tế, khi đối mặt với chết chóc, đói khát và viễn cảnh hàng triệu người chết, rất khó ai có thể bình tĩnh được. xuống và cư xử bình thường trước mặt họ. Không ai sợ chết, nàng cũng sợ chết, giờ phút này đối mặt với lưỡi hái tử thần nắm lấy cọng rơm, khát vọng sống sót của nàng lại hừng hực. Nàng liều mạng muốn có cơm ăn, cả đời vứt bỏ toàn bộ liêm sỉ, nhân cách, quyết không từ bỏ sinh mệnh nhỏ bé của mình. Cô ấy không chỉ có khát vọng sống sót mãnh liệt mà còn có khát vọng được hạnh phúc, có một gia đình và có một người chồng mà mình có thể dựa vào những lúc khó khăn như vậy. Thế là cô nửa đùa nửa thật nói: “Đùa đấy. Anh về với em chỉ việc lấy hàng rồi lên xe về luôn”, nhưng cô chấp nhận không chút do dự và trở nên chảnh chọe. và người vợ ruột gan dũng cảm. Với cô giờ đây, bàn tiệc, diễu hành không còn quan trọng, chỉ cần có nơi ở, có nhà, còn chống chọi với cái đói thì mọi chuyện có thể kết thúc. Thế là cô lại có hi vọng mới có thể thành vợ thành chồng, cô hy vọng người trước mắt vui vẻ, đãi cô bốn bát bánh, sau khi chung sống, anh sẽ đối xử tốt với cô, vậy là đủ. Ngoài ý nghĩa nhân văn, cuốn sách còn phản ánh một thực tế nhức nhối trong xã hội lúc bấy giờ: giá trị con người dường như đã tụt xuống mức tiêu cực, đến cả rơm rạ cũng không có, để dân làng mặc cảm. đó là “một loại bất hạnh” khi họ nhìn thấy chuỗi Mân Côi và đưa vợ về nhà.

              Tôi cứ nghĩ cô ấy sinh ra đã hung dữ, mập mạp và u ám, nhưng khi tôi nhìn thấy diện mạo của cô ấy sau khi làm vợ, tôi mới biết bản chất xấu xí và đáng sợ của cô ấy chỉ là vỏ bọc. Trên thực tế, để bảo vệ nạn đói, cô ấy cũng là một phụ nữ, với nhiều phẩm chất tuyệt vời ẩn giấu bên dưới vẻ ngoài đáng thương, tuyệt vọng. Trên đường lần tràng hạt về nhà, chị bỗng trở nên “rụt rè, rụt rè”, đầu cúi gằm, chiếc nón nghiêng che nửa khuôn mặt bẽn lẽn, như một cô dâu mới về nhà chồng. Khi bắt gặp những lời trêu chọc của lũ trẻ và ánh mắt ái ngại của dân làng, cô cảm thấy khó chịu và tủi thân cho số phận lấy chồng nên càng tủi thân “Xin lỗi chân nọ, bước lên chân kia”. trông vô cùng đau đớn. Khi đến nhà nguyện, khung cảnh nơi ăn chốn ở tạm bợ dột nát, không có bàn tay phụ nữ chăm sóc khiến chị không khỏi thất vọng và xót xa, bởi có lẽ chị đã từng hy vọng vào một ngôi nhà khang trang, đủ đầy hơn, để sau này lập nghiệp. sẽ không quá đau khổ. Chỉ là khung cảnh trước mắt khác xa so với những gì cô tưởng tượng, nhưng cô không hề than phiền vì thất vọng, mà cô bỗng trở thành một người phụ nữ nhẫn nhịn và tế nhị “ngậm thở khi ngực gầy”. nhô ra”. Cô ấy giữ tất cả những thất vọng và buồn bã trong lòng, không cho thế giới biết, cô ấy quyết tâm lập gia đình với người chồng mới, và làm việc chăm chỉ để vượt qua nghèo đói và khó khăn. Khi tôi giới thiệu mẹ chồng, tôi đã chào hỏi bà già rất lễ phép, khi bà nghĩ rằng bà sẽ không bao giờ nghe thấy tiếng chào của bà nữa, dáng điệu của bà e thẹn và xấu hổ, và bà thực sự biến thành một nàng dâu dịu dàng, khỏe mạnh và nhút nhát là khác nhau hình ảnh người phụ nữ.

              Sau đêm tân hôn, cô biến thành một bà nội trợ đảm đang, tháo vát, gánh vác trách nhiệm nặng nề từ việc nhà, bê quần áo rách ra sân, gánh nước, quét sân, thu gom rác vứt đi, bưng bê cơm nước, … Không khí gia đình trở nên hòa thuận, vui vẻ và nhiều hy vọng hơn cả. Nhất là khi đối diện với nồi cháo cám đắng nghét nghẹn nơi cổ họng bà cụ “mắt thâm quầng” nhưng bà vẫn “bình thản ngậm trong miệng”, không nói, không tỏ thái độ gì. Phong thái tế nhị bộc lộ một nét tính cách khác của chị, đó là sự thấu hiểu, cảm thông với người mẹ già thương con, hiểu rằng vì quá nghèo nên không có gì đãi con cháu trong ngày cưới. Thế là bà lão tội nghiệp mang đến một nồi cháo cám. Và cô không muốn phá tan bầu không khí gia đình vui vẻ đó, để bà cụ phải bối rối. Cuối cùng, cô ấy nói rằng ở Thái Nguyên và Bắc Giang, người ta không nộp thuế mà đi phá kho thóc của Nhật, điều đó cho thấy cô ấy có tư tưởng và quan điểm mới, người phụ nữ này không chấp nhận cuộc sống nghèo khổ. , Biết đâu một ngày nào đó chị sẽ cùng chồng đi phá kho thóc, đi theo cách mạng để giải phóng cuộc đời, cùng nhau mưu đồ cho một tương lai tốt đẹp hơn.

              Trong truyện ngắn Thị, vợ nhặt của Kim Lân là nhân vật tiêu biểu cho cuộc sống của hàng triệu người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Tuy sống trong hoàn cảnh nghèo khó, bôn ba nhưng cô vẫn giữ cho mình được cuộc sống. Vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, tiêu biểu nhất là khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, niềm hi vọng về một tương lai mới tốt đẹp hơn. Nó bộc lộ rõ ​​tư tưởng nhân văn, nhân đạo mà tác giả muốn gửi gắm trong các tác phẩm của mình.

              Phân tích tính cách người vợ nhặt – văn mẫu 4

              Trong ký ức của mỗi người Việt Nam, nạn đói năm Đinh Dậu vẫn là cơn ác mộng không thể nào quên. Từ đó, một hạt gạo vươn lên từ nỗi đau hiện thực và trở thành đề tài sáng tác của nhà văn. Thân phận con người đã trở nên tầm thường, đến cả hạnh phúc vợ chồng cũng là thứ rẻ rúng. Tất cả những điều đó được ghi lại bằng ngòi bút của kim lân thông qua nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên.

              Đầu tiên, chúng ta thấy cô ấy là nạn nhân của nạn đói, sống một cuộc sống thất thường. Là một nhân vật vô danh, người vợ nhặt là đại diện chung cho số phận của những người phụ nữ bất hạnh, bất hạnh khi sinh ra. Người phụ nữ đó không tên, không tuổi, không quê quán, không quá khứ. Từ đầu đến cuối, Kim Lan chỉ đặt cho nhân vật “cô”, “thị”, “nữ nhân”, “tân nương”, “nhà tôi” và những cái tên rất thông thường khác. Cô ấy xuất hiện một cách táo bạo và đáng thương trong hai lần gặp gỡ. Chợ “ngồi ngoài trời” và giữa những cô gái chờ nhặt thóc rơi. Thị ton-sur-ton chạy đến đẩy xe hàng với hy vọng “kiếm chác”, nhưng bất thành. Vừa chào xong, liền cười liếc nàng một cái, quay người lại sụt cân, thấy nàng đói đến hốc hác, “Hôm nay nàng tơi tả, quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy nhom, nằm ở trên giường. … mặt lưỡi cày xám xịt Vâng, chỉ còn thấy hai con mắt, tràng hình như không nhận ra thị giác Cùng với sự thay đổi về hình hài, cái đói đã xóa đi sự hồn nhiên vui tươi khi gặp chồng và trở thành một “tay chơi” “, người phụ nữ táo bạo. Cô ấy đói ngay lập tức Sau khi ăn bốn bát bánh thầu dầu,” cô ấy ăn liền bốn bát bánh mà không nói lời nào. Ăn xong, cô dùng đũa gắp lên miệng. “Kim Yoni đã khắc họa một người phụ nữ đáng thương! Từ ngoại hình đến tư thế, hành động, thị phi, tất cả đều hiện lên trang giấy với những cử chỉ khắc khổ, luộm thuộm, bi thương. Cái đói không chỉ hủy hoại ngoại hình mà còn tước đi nhân cách, phẩm giá của cô. Vì đói, cô trở nên “vui vẻ”, “lông bông” và “dừ”. Cái đói khiến cô quên giữ phẩm giá và lòng tự trọng của một đứa con gái. Đáng thương hơn, cái đói buộc cô phải nửa đùa nửa thật rằng “Đùa thôi, nhưng nếu Nó về với tôi, chất đồ lên xe và về”. Thế là xong, một câu chuyện tình yêu, một cuộc hôn nhân! Lãng mạn chỉ là một điều không tưởng. Sống hay chết, cô ấy có quyền lựa chọn nào? Ở cô ấy tâm, tràng như chiếc phao cứu sinh thoát khỏi cái đói thế kỷ, cái đói đã khiến thị trấn và bao người trở nên rẻ rúng lúc bấy giờ. Có tại Hạnh phúc bình dị ấy thật quý giá biết bao khi “người chết như ngả rạ”, “không khí ẩm thấp, rác rưởi thối rữa, xác người hôi thối”.

              Ngoài ra, cô còn là một người phụ nữ có khát vọng sinh tồn mãnh liệt. Cô đồng ý theo đại tá vì muốn sống chứ không phải tán tỉnh. Khát vọng sống mãnh liệt đã thôi thúc cô bé tìm cách thoát khỏi hoàn cảnh đáng thương này. Lạc quan yêu đời là một phẩm chất đáng quý, có thể nói là một con kỳ lân vàng: “Những người viết về năm đói thường nghĩ đến những người chỉ muốn chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với một ý nghĩa khác. Vào thời khắc nguy cấp, dù cận kề cái chết nhưng những con người này không hề nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng về sự sống, vẫn còn hy vọng và niềm tin vào tương lai. Vì thế, cô không giấu nổi sự khâm phục “nhà hoang vườn chật, cỏ dại mọc um tùm” vừa thầm thất vọng trước hoàn cảnh gia đình bi đát, cô đảo mắt nhìn quanh, khuôn ngực gầy phập phồng, nín thở trên đường về. Về nhà chồng, trước sự bàn tán, chỉ trỏ của người dân, người vợ cảm thấy “Dậm chân tại chỗ”, xấu hổ vô cùng, khi về đến nhà chồng, nhìn căn nhà dột nát, cô rất thất vọng. đã cố gắng hết sức để giữ tất cả những điều này trong lòng.Với tiếng thở dài ấy, Vừa có sự mất mát, lo lắng, vừa có ý thức trách nhiệm, sứ mệnh xây dựng cuộc sống gia đình tương lai.

              Phẩm chất tuyệt vời của nhân vật cũng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Sau khi vào phòng, nàng ngại ngùng “ngồi” cạnh giường và ngượng nghịu chào bạn. Không giống như vẻ ngoài nhọn hoắt, tròn trịa và tròn trịa ban đầu, cô ấy giờ đây là một cô dâu mới được chú ý, ngưỡng mộ và cân đối. Chính sự yêu thương, quan tâm, chia sẻ trong lúc hoạn nạn đã khiến con người ta sống tốt hơn, có ý thức và trách nhiệm sâu sắc hơn với chính mình. Sáng sớm hôm sau, cô dậy sớm dọn dẹp cùng mẹ chồng. Ngay cả thượng tá cũng ngạc nhiên nói: “Thượng tá hôm nay khác lắm. Rõ là các chị dịu dàng đoan trang, không còn vẻ tự mãn như mấy lần tôi thấy ngoài tỉnh nữa”. Bữa cơm cho dâu, bữa cơm đắng cho kẻ đói, bát cháo cám đắng cay bà mừng lắm. Thị trường là một làn sóng mới trong nhà. Trước thực tế phũ phàng, bà thở dài “con dâu bưng bát đưa lên mắt tối đi” nhưng bà vẫn “bình thản, ngậm trong miệng”. Trong hoàn cảnh đó, ai cũng phải nén nỗi buồn trong lòng để vui tươi, hân hoan. Lời nói của bà cụ đầy lạc quan: “Cám ơn anh bạn. Ngon lắm, ăn thử đi. Nhà mình cám cũng không có”. Bên cạnh đó, người vợ nhặt cũng là một người phụ nữ thông minh và chu đáo. ” Khi nghe tiếng trống khai thuế, chị tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi mẹ chồng: “Ở đây còn phải đóng thuế à?”. Câu nói của chị làm đầu óc anh hơi rối bời “anh đang nghĩ đến những kẻ phá kho thóc hàng ngày”, “hình ảnh những người nghèo khổ lầm lũi đi trên bờ đê chợt hiện lên trong đầu anh. Phía trước là một lá cờ đỏ to tướng”…

              Điểm sáng nghệ thuật của “Vợ tôi tìm được” nằm ở việc khắc họa nhân vật nhà văn lân vàng. Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống “lạ lùng”, “lầm lì”; bằng hệ thống ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, bằng những quan sát tỉ mỉ, tinh tế, các sự kiện để miêu tả diễn biến tâm lí.

              Vì vậy, nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Người vợ nhặt” của Kim Nhân là hình tượng điển hình của người phụ nữ chuyên nghiệp nghèo khổ. Nhưng dù hoàn cảnh éo le, cô bé vẫn tỏa sáng khát vọng sống, phẩm chất tốt đẹp và niềm tin vào tương lai.

              Phân tích tính cách người vợ nhặt – mẫu 5

              Kim Ranh là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam thời Cách mạng Tháng Tám. Một trong những kiệt tác của Kim Lân sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là truyện ngắn Vợ nhặt, nằm trong tập truyện Con chó xấu xí. Đây là tác phẩm của Kim Lân tái hiện thành công khung cảnh đen tối và hãi hùng của nạn đói đầu năm (1945) ở nước ta. Trong bối cảnh đen tối đau thương ấy, tác giả đã đưa hình tượng nhân vật người vợ: nghèo khổ, bất hạnh nhưng có khát vọng sống mãnh liệt. Hóa ra vào một ngày chết đói, cô ấy sẽ không chấp nhận bất kỳ người đàn ông nào làm vợ.

              Về hoàn cảnh éo le, hiện ra ở chỗ làm, người vợ nhặt chỉ là một con số trống rỗng: không họ tên, không quê quán, không gia đình, không nghề nghiệp… Từ đầu đến cuối chỉ nhận được chữ “thị” – một sự luộm thuộm. Kêu gọi chị và tất cả những người phụ nữ có hoàn cảnh và số phận éo le như chị. Không chỉ vậy, chân dung người phụ nữ hiện ra ngay từ đầu cũng không được đẹp lắm: hình ảnh người phụ nữ gầy gò, ngực lép, mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo rách rưới như tổ đỉa, chờ đợi trong vô vọng để chúc may mắn.

              Trước khi trở thành vợ, cô ấy là một người phụ nữ hùng hồn và táo bạo. Lần đầu gặp mặt, thị đã chủ động làm quen đẩy xe bò cho đại tá và “nhìn nhau cười” với bà. Ở lần gặp thứ hai, cô “chạy”, “nói kiêu”, và vẫn đứng “chặt chém” trước khán giả. Ngoài ra, thị còn ngỏ lời xin ăn. Khi được mời ăn banchong, cô ấy đã cúi đầu và ăn bốn bát banchong. Ăn xong, cô đưa đũa đưa lên miệng, hết lời khen ngợi… Trong cơn đói khát tột cùng, cô gần như đánh mất nhân cách và sự tế nhị của con người.

              Về đến nhà, nhìn đống bừa bộn trong nhà, cô không khỏi thở dài, đành chấp nhận cuộc sống tràng giang đại hải. Thở dài thất vọng, vì cái tràng cũng chẳng khá hơn là bao. Không chỉ nghèo, chị còn có mẹ già, phải lo liệu có kham nổi không, nếu không cuộc sống của chị càng thêm khốn khó. Đứng trước bà lão giả vờ khép nép, tay mân mê góc áo, thật tội nghiệp. Trong sâu thẳm, người này vẫn khao khát một mái ấm thực sự nên quyết định ở bên và trở thành một phần của gia đình đó, bất chấp ngày mai có ra sao.

              Có thể nói rằng những màn trình diễn nêu trên của thị trường đều là do đói trong phân tích cuối cùng. Cái đói đôi khi có thể bóp méo tính cách của một người. Nói đến đây, hẳn tác giả thực sự thấy thương cảm, đồng cảm với cảnh nghèo khổ của người lao động. Sau khi làm vợ, cô trở lại đúng phẩm chất của một người phụ nữ dịu dàng, kín đáo, lễ phép và có trách nhiệm. Điều đó được minh chứng qua dáng vẻ thảm hại và bẽn lẽn của cô trong bữa tiệc lúc chạng vạng tối. thị bẽn lẽn lùi lại ba bốn bước, mũ che bên hông, “rợn người, e lệ, ngượng ngùng,” chân này lên chân kia”… lúc này, trông thật thảm hại, cảnh cô dâu mới theo chồng về nhà chồng : một khung cảnh đám cưới không hoa, không pháo hoa đám cưới, chỉ có những gương mặt hốc hác đen tối của những người hàng xóm và tiếng quạ kêu dở khóc dở cười… Hành trình hạnh phúc của cô là cả cuộc đời tăm tối và những nỗi sợ hãi khôn tả.

              Nhưng một điều gì đó mới đã thay đổi người phụ nữ. Làm vợ được một ngày, cô dậy sớm, quét dọn, lau chùi. Đó là hình ảnh của một người phụ nữ hiền thục, một người vợ biết lo toan cho cuộc sống gia đình, không sồ sề, không sỗ sàng, một nàng dâu thảo mai. Có một sự phấn khích không thể giải thích được trong cuộc sống.

              Trong tiệc cưới đói meo, bà lão dành tất cả tình yêu thương cho cô con dâu mới. Khi người ta đi phá kho thóc của Nhật, nàng kể chuyện Bắc Giang cho mẹ chồng nghe, chứng tỏ nàng là người biết tin. Chính cô đã cho mẹ và chồng hy vọng đổi đời trong tương lai.

              Thông qua hình ảnh nhặt được vợ, tác giả lên án mạnh mẽ tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp, đồng thời bày tỏ sự cảm thông, đồng cảm với hoàn cảnh của những người lao động nghèo khổ; khát khao hạnh phúc giản dị của người dân lao động, dù gian khó họ vẫn yêu thương đùm bọc lẫn nhau, cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua thử thách khắc nghiệt.

              Tóm lại, người đàn bà không tên, không danh, không người đi cùng đã thực sự đổi đời bằng tấm lòng giàu lòng nhân ái của mình. Những bóng người trình diễn không lộng lẫy nhưng lại gợi lên sự đầm ấm của cuộc sống gia đình. Phải chăng cô đã mang đến luồng gió mới cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo đang hấp hối…

              Phân tích tính cách người vợ nhặt——Văn mẫu 6

              Cim Ranh là một nhân vật tầm cỡ hiện tượng trong làng văn học Việt Nam thế kỷ 20. Tác phẩm của ông không nhiều nhưng tác phẩm nào cũng rất hay. Người đọc tìm thấy ở những trang viết của ông tinh thần nhân văn lạc quan với khát vọng mãnh liệt về cuộc sống tốt đẹp trong mọi hoàn cảnh, kể cả khi chết đói, đói khát. Những tác phẩm về nông thôn trước cách mạng của Kim Lan thu hút người đọc bởi tính nhân văn của chúng. Ngay cả khi con người phải sống trong hoàn cảnh khốn khổ nhất đói khát, sinh tử, tác giả vẫn tìm thấy ở họ niềm tin yêu cuộc sống và khát vọng sống. Sức sống ấy được thể hiện đầy đủ qua nhân vật “chọn vợ” trong các tác phẩm của ông.

              Trong ngòi bút của Jin Wuni, người vợ mà anh ta nhặt được là một người phụ nữ không tên, không tuổi, không quê hương hay quá khứ. Không phải nhà văn kém ngôn ngữ để đặt tên cho cô ấy, mà bởi vì cô ấy là một con bèo, một người phụ nữ vô danh. Từ đầu đến cuối, nhân vật này chỉ được gọi là “cô”, “thị”, “nữ nhân”, “dâu mới”, “con nhà người ta”. Nhưng nhân vật này đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

              Lần đầu tiên cô xuất hiện là: ngồi giữa đống hạt dưa vương vãi ở cổng các tỉnh, thành phố. Khi nghe câu hô cho đỡ buồn “muốn ăn cơm giờ/ Lại đây đẩy xe bò với anh”, thị “Tôn chạy lại đẩy xe bò cho cả đám… cười tít mắt”. Cô vừa đẩy xe vừa ăn nên rất nhiệt tình không quan tâm.

              Lần thứ hai, cô xuất hiện trong một bộ dạng không mấy hấp dẫn: một người phụ nữ gầy gò, “quần áo tả tơi như tổ đỉa”, “mặt xám xịt”, với đôi mắt trũng sâu của “hai đứa trẻ”. Có thể nói, cái đói đã làm cô thêm xơ xác, tội nghiệp và khốn khổ hơn. Cái đói không chỉ hủy hoại khuôn mặt mà cả nhân cách và phẩm giá của cô.

              Vì đói mà cô trở nên “vui vẻ”, “luộm thuộm” và “chua ngoa”. Thể hiện sự “cong” và “u ám” khi giao tiếp.

              Cái đói khiến cô quên đi việc duy trì sự tỉnh táo và lòng tự trọng của thời con gái. Chỉ cần tiếp tục yêu cầu thực phẩm. Sau khi ăn no, cô định “ăn liền một mạch bốn bát bánh ngọt mà không nói lời nào”. Cô ấy đặt sự tồn tại của bản thân, thức ăn của mình lên trên nhân cách của mình.

              Khi ông già đùa giỡn, ông nói đùa: “Về nhà với anh, lên xe trước rồi chúng ta về”. Sau đó, người phụ nữ kia giữ im lặng (thường có nghĩa là im lặng là đồng ý). Tôi đồng ý, không chần chừ, không do dự. Trong khi đó, Colon là ai, tốt xấu như thế nào? Nguồn gốc là gì? Thị trường nào hoặc ai biết. Chỉ cần vài bát bánh thầu dầu là có thể ăn không kịp. Chợ, tràng chỉ dành cho dân sành ăn? Quá đơn giản, quá hời hợt? Trên thực tế, hành động theo dòng của cô ấy là từ sự kiên trì và mong muốn cho cuộc sống. Rủi ro thị trường Mọi thứ đều được ăn, và chỉ bằng cách ăn chúng ta mới có thể tồn tại. Chấp thị dựa vào đạo tràng. Đó là ý thức gắn bó với cuộc sống.

              Cận kề cái chết, người phụ nữ không bao giờ từ bỏ cuộc sống. Thay vào đó, cô ấy vẫn vượt qua sự ảm đạm của mình và bắt đầu một gia đình. Sự lạc quan và niềm say mê cuộc sống của thành phố là những phẩm chất rất quý giá. Jin Qilin cho biết: “Vào thời điểm quan trọng, mặc dù cái chết đang đến gần nhưng những người này không nghĩ đến cái chết mà hướng đến cuộc sống, tràn đầy hy vọng và niềm tin vào tương lai.”

              Trên đường về, tâm trạng của người chồng thay đổi rõ rệt. Nếu một người đàn ông hạnh phúc, tự hào, với khuôn mặt tự mãn, một người phụ nữ cảm thấy xấu hổ. Trước những con mắt tò mò, trước những lời giễu cợt, trêu chọc của cư dân. Xấu hổ và thiếu tự tin, cô “giậm một chân… chiếc nón rách che nửa khuôn mặt”.

              Ở nhà chồng, chị “thở dài” khi nhìn thấy “ngôi nhà trống, nằm co ro trong mảnh vườn cỏ dại um tùm”. Đây là một tiếng thở dài bất lực, một sự thất vọng và một sự chấp nhận. Ai ngờ chiếc phao cô vừa nắm chặt lại bị đứt. Trong tiếng thở dài ấy không chỉ có những lo lắng về tương lai ngày mai mà còn có cả những trăn trở, trách nhiệm với gia đình chồng. Chẳng lẽ cô biết mình cùng chồng chung tay gánh vác trách nhiệm xây dựng gia đình? Tấm lòng của cô thật đáng quý biết bao.

              Vào phòng, nàng bẽn lẽn “ngồi” vào mép giường (“ngồi” ở tư thế bấp bênh, chông chênh nhưng ân cần). Thể hiện ý nghĩa, sự kính trọng, lễ phép chào bà cụ (chào hai lần). Đây là hình ảnh đẹp về một cô con dâu rất nề nếp, hòa thuận với mẹ chồng. Khi nói chuyện với mẹ, cô chỉ biết “đứng sờ soạng với chiếc áo rách”.

              Sau đêm tân hôn, tâm trạng và tính cách của người phụ nữ thay đổi rõ rệt. Cô dậy sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa. Người đọc cũng dễ dàng nhận ra sự thay đổi này: nếu thị trường hôm qua chua ngoa, dữ dội, èo uột thì thị trường hôm nay thật nhẹ nhàng. Cô cảm nhận được sự thay đổi kỳ diệu hơn ai hết: “Cologne ngày nay khác lắm. Rõ là một người phụ nữ dịu dàng và thanh lịch, không còn kiêu kỳ, lẳng lơ như thời chúng tôi biết. Ngoại tỉnh rồi”. Câu này ghi lại cảm xúc thật của Dachang trước việc vợ anh chủ động thay đổi. Liệu tình yêu đích thực và phép màu nhiệm có sức lay động thương trường.

              Bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, tuy chỉ là “nồi cháo loãng, người hai bát ăn hết”, phải ăn cháo cám nhưng chị vẫn thấy vui và hài lòng. Thị trường đã mang lại sức sống và thông tin thời đại mới cho mẹ và bé. Khi nghe tiếng trống khai thuế, cô nói với mẹ chồng: “Ở Tây Nguyên phía Bắc người ta không nộp thuế, còn phá kho thóc của Nhật chia cho dân đói. ” Cách hiểu này dường như cho anh ta hiểu rõ về con đường phía trước mà anh ta đã chọn, “Trong tâm trí tôi, tôi vẫn thấy một đoàn người đói khát đi trên bờ kè với lá cờ đỏ lớn phía trước.” Qua đó, ta thấy được nhân vật người vợ, vừa là sứ thần của cách mạng, vừa là “cô dâu mới”.

              Jin Lan đã viết về những thay đổi trong tâm trí của cô ấy, bày tỏ sự tôn trọng và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của những người lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn được thể hiện trọn vẹn ở đây. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhân vật do người vợ lựa chọn được tạo ra, tác giả đặt nhân vật vào một tình huống truyện độc đáo, diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tế nhị, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị phù hợp với nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, giàu kịch tính…

              Tóm lại, “gái ế” là sáng tạo ban đầu của Kim Uni. Thông qua nhân vật này, nhà văn thể hiện ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Người Việt Nam tuy sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng họ luôn hướng tới tương lai với niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống.

              Phân tích đặc điểm nhân vật Vợ nhặt——Văn mẫu 7

              Thực ra, vợ nhặt, vợ nhặt ở chỗ làm không bị bóc lột nhiều. Nhưng thông qua nhân vật này, kim uni còn mang đến một thông điệp ý nghĩa và nhân văn, thể hiện tấm lòng nhân văn sâu sắc của tác giả.

              Người vợ thợ xây là một người phụ nữ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn. Nàng không có gia sản, ngay cả danh phận cũng không có, chỉ là phổ thông gọi là kén vợ mà thôi. Cô ấy không nhà cửa, tôi gặp cô ấy hai lần, chỉ thấy cô ấy lang thang ở góc đường, góc chợ. Cô không người thân, không nghề nghiệp. Cùng toàn dân Việt chống đói, bà không còn gì nương tựa, sống trong dòng nước lũ chết chóc, từng ngày, từng giờ, cái đói xanh mặt. Xanh xao, gầy gò, gò má cao, thiếu sức sống.

              Chính tình thế dồn ép đến đường cùng đã khiến cô đánh mất lòng tự trọng. Nỗi ám ảnh về cái đói, cái chết không chỉ bóp chết cuộc sống của người đàn bà đáng thương này mà còn bào mòn nhân cách, phẩm giá của bà, được thể hiện rõ nét nhất trong hai lần chạm trán với ruột già. Lần đầu tiên gặp em chưa quen, vì ngẫu hứng một câu niệm chú, em chạy ra, mỉm cười âu yếm rồi đẩy xe bò đến chỗ ruột già. Sức mạnh của bữa ăn quá lớn, và nó khiến cô ấy mất đi sự nhút nhát và nhút nhát tự nhiên.

              Lần thứ hai tôi gặp con người vô liêm sỉ, vô ơn, tự trọng đó. Sau lần gặp đầu tiên, không có sự thống nhất nào, nhưng khi gặp lại, họ lao đến và đứng trước mặt họ và nói: “Chà! Diao. Thật là một người”. Cô không quan tâm đến điều đó cho đến khi được mời đi ăn tối, cô ngồi xuống và ăn một lúc bốn bát bánh. Câu văn ngắn tả hành vi ăn uống thô tục nơi chợ búa. Nỗi ám ảnh về cơn đói đã khiến cô hành động táo bạo. Tính cách và lòng tự trọng là quý giá nhất đối với một người bị bán rẻ trong thực phẩm. Một thực tế đáng buồn là không chỉ có vợ nhặt, rất nhiều người Việt rơi vào hoàn cảnh này. Và liều lĩnh nhất chỉ là một câu chuyện đùa trong truyện, cô theo anh về làm vợ. Trong trường hợp không còn nơi nương tựa, thì dù là vợ nhặt được, cô ấy cũng sẽ nhận để tránh sự truy sát của tử thần.

              Cũng giống như nhân vật này, sau khi kết hôn, cô vợ đón sân bay cũng có những thay đổi vô cùng lớn. Đầu tiên là sự thay đổi về tâm tính và tính cách, trên đường về nhà, trước ánh mắt bao ánh nhìn của mọi người, Zhenzhen bước đi rụt rè và bẽn lẽn bên chiếc đàn tràng với chiếc giỏ nhỏ. Vẻ mặt trong tư thế ấy thể hiện tâm lý xấu hổ, ngượng ngùng của nàng. Đây cũng là biểu hiện đầu tiên của sự trở lại của nữ tính, sự công khai và gợi cảm đã không còn nữa. Nỗi lo về tương lai cũng nảy sinh trong lòng những người vợ nhặt. Về đến nhà, nhìn thấy căn nhà dột nát, xung quanh cỏ dại mọc um tùm, khuôn ngực phẳng lì của cô nhô ra, cô cố nén tiếng thở dài. Về đến nhà, cô ngồi ở mép giường, tay cầm cái giỏ.

              Trước mặt mẹ chồng, cô lễ phép chào bà rồi lấy hai tay mân mê chiếc áo rách. Phong thái của cô thể hiện tâm trạng dễ hiểu, sự ngại ngùng khi lần đầu đối mặt với mẹ chồng. Tuy nhiên, trong cách giao tiếp với người lớn tuổi cũng thể hiện phần nào sự lịch sự, dịu dàng. Những cách thể hiện này một lần nữa cho thấy thể xác chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh, nhưng tận cùng bản chất của nó vẫn là tâm hồn người phụ nữ.

              Sự thay đổi rõ ràng nhất trong tính cách diễn ra vào buổi sáng đầu tiên trong cuộc hôn nhân của cô. Qua con mắt của nhân vật, thị hôm nay được khắc họa trọn vẹn, rõ nét một người phụ nữ dịu dàng, không còn là người phụ nữ nói nhiều, lém lỉnh mà cô đã gặp trong nhiều dịp đi ngoại tỉnh. Sự thay đổi cảm giác của ruột già bắt nguồn từ một số việc rất đơn giản mà ý nghĩa vợ tôi làm: dậy sớm, cùng mẹ quét dọn, lau nhà, v.v. mang lại màu sắc tươi sáng cho căn phòng tối tăm lạnh lẽo. Đại tràng. Tất cả những việc làm đó đều thể hiện sự dũng cảm, hóm hỉnh, tình yêu chân thành, kính trọng quê hương, khát vọng mãnh liệt về hạnh phúc gia đình.

              Đó không chỉ là sự thay đổi về tính cách mà còn là sự thay đổi về khái niệm. Hạnh phúc của người vợ hái quả không hề dễ dàng bởi sự kết hợp giữa đói khát và chết chóc. Đêm tân hôn của cặp đôi cũng phải diễn ra giữa tiếng khóc của gia đình người đã khuất. Bữa ăn đầu tiên của cô dâu là một nồi cháo cám mặn, canh là nước lã. Nhưng lúc đó cô vẫn có niềm tin vững chắc vào tương lai.

              Không phải ngẫu nhiên mà trong ba vai, Kim Uni chọn thị chứ không phải hai vai còn lại, nói về cuộc nổi dậy và phá vỡ vựa lúa mì của Nhật Bản. Có lẽ vì người đàn ông dám đánh đổi tất cả, thậm chí để trở thành người vợ tốt nhất nên khát vọng sống và hạnh phúc của họ là không thể phá vỡ. Tuy không nói rõ tương lai nhưng ở một người khao khát sống, có tinh thần lành lặn như vợ nhặt, Jin-in thể hiện tinh thần nhiệt thành nhất định sẽ đi theo cách mạng.

              Nhân vật người vợ nhặt được con kỳ lân vàng được đặt trong một tình huống rất độc đáo, từ đó thấy được tâm trạng và cách ứng xử của nhân vật. Nhân vật tập trung miêu tả cử chỉ, động tác làm nổi bật vẻ đẹp của người vợ Nhật Bản.

              Với niềm tin và sự kính trọng, Jin Yi đã dựng lên một bức chân dung văn chương bất hủ. Người vợ nhặt là nạn nhân điển hình nhất của nạn đói năm 1945, nó làm lu mờ nhân cách và lòng tự trọng của nhân vật. Nhưng trong tâm hồn người đàn ông ấy vẫn là một người phụ nữ dịu dàng, nữ tính, vun vén và khát khao hạnh phúc mãnh liệt, một người đàn ông có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.

              Phân Tích Tính Cách Vợ Nhặt – Văn mẫu 8

              Ai đó đã từng nói: “Hãy quay mặt về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngả về phía sau bạn”. Bởi vì, như nhà văn Ruan Kai đã nói, “Sự sống đến từ cái chết, và hạnh phúc đến từ gian khổ và hy sinh. Cuộc sống không có kết thúc, chỉ có ranh giới. Bạn phải có đủ sức mạnh để vượt qua ranh giới đó.” So với sự thật này, chúng ta không thể’ Không khỏi xót xa cho những mảnh đời bất hạnh Xót xa cho hoàn cảnh, vui cho niềm tin của con người vào một tương lai mới và bật khóc cho hơi ấm của tình cảm gia đình. Cách thể hiện điều đó qua hình tượng nhân vật?

              Tác phẩm Cô gái nhặt được của nhà văn Kim Lân được viết trong bối cảnh nạn đói năm 1945. Trang, nhân vật trong tác phẩm Kim Nhân, có ngoại hình xù xì, xấu xí, xuất thân từ nghề làm thêm, nhà nghèo. Ở chợ, cô gái bất hạnh đang chống chọi với cơn đói. Hai người gặp nhau vỏn vẹn hai lần rồi thành vợ thành chồng chỉ vì một bát bánh và vài câu bông đùa. Cô khiến tất cả cư dân bất ngờ khi dẫn về nhà dưới nắng trưa. Bà lão nhìn cô con dâu mới, lo lắng không biết khi nghèo khó các con có biết chăm sóc nhau không, có sướng khổ vì đói rét hay không, nhưng điều này không ngăn cản được cặp đôi nên duyên phận. . Họ cùng nhau xây dựng những cánh cửa của ngôi nhà và chia sẻ từng bữa ăn. Trong niềm hân hoan đó, câu chuyện kết thúc bằng hình ảnh những người dân phá kho thóc của Nhật và cờ đỏ sao vàng tung bay trong đầu.

              Nhân vật có đầy đủ những nét tiêu biểu của người dân lao động nghèo trong nạn đói khủng khiếp. Dưới ngòi bút của Jin Qilin, bức chân dung biến thành một con ma đói với bộ quần áo luộm thuộm và “mặt lưỡi cày xám ngực gầy” được vẽ trên khuôn mặt, không có tên, chỉ có chữ “shi”. Cô gái đói bụng muốn thu dọn đồ vương vãi, nghe ba hô hoán liền vội vàng đẩy xe. Nàng gặp tràng nhưng không ăn trầu, mà ăn một miếng bánh, sau đó dùng đũa quẹt qua miệng, “Ngon lắm.” Tất cả những gì chúng tôi thấy là những bức chân dung chi chít, nhầy nhụa. Tuy nhiên, dưới ngòi bút tuyệt vời của tác giả, người vợ hiện lên cong queo, cong lắm chứ không phải răng nanh, một nhân vật sinh ra từ ngu dốt, nghèo đói, đen tối nhưng nhất định không được sinh ra. Ác, ác. Khi cuộc hôn nhân của một đời người chỉ vì vài lời nói tầm thường, thì tính cách của anh ta càng cay nghiệt hơn, khiến người phụ nữ quên hết phẩm giá, phẩm hạnh, phẩm hạnh của mình để ăn bánh trôi làm vợ mà không tìm hiểu rõ ngọn nguồn. của dòng sông. Chính cái đói đã làm cho thân phận con người trở nên hèn hạ và rẻ rúng.

              Khi gặp chồng, cô ấy dữ dội và dễ bị tổn thương, nhưng khi về làm dâu, cô ấy là một người vợ tốt và một đứa con gái. Đi theo dòng suối, như thể bạn đã đến một nơi mà bạn có thể trốn tránh cơn đói rình rập. Trên đường trở lại chùa, nàng Thi hung dữ bỗng trở nên dịu dàng, rụt rè và nhút nhát. Lần đầu đến nhà mới, những ánh mắt trầm ngâm, dáng điệu khép nép, cách chào hỏi ngượng nghịu… tất cả khiến cô có cảm giác mình như một cô dâu mới cưới. Từ khi làm vợ, cô ấy là người đảm đang và dịu dàng nhất, sửa cửa, quét vườn, cùng mẹ ăn bữa cơm đắng nhẹ. Truyện kể về những tên cướp kho thóc Nhật Bản dưới hình ảnh những lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới. Nó thắp lên ánh sáng hy vọng về một tương lai mới, mở ra con đường từ đấu tranh đến cách mạng. Rõ ràng, cô đã dần có được cảm xúc trọn vẹn và ý thức trách nhiệm từ chữ “yêu”. Đúng là dù trong cảnh nghèo cùng cực, tình thương vẫn quý hơn cơm ăn áo mặc, bởi nó giúp con người ta được sống là chính mình, được làm người.

              Truyện ngắn Vợ nhặt là bản cáo trạng đanh thép đối với thực dân Pháp, phát xít Nhật và bọn phong kiến ​​tay sai đã đẩy nhân dân vào cảnh khốn cùng đói rét, mạng người như rác. Không chỉ vậy, Vợ nhặt còn có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, dù đau khổ đến đâu, dù có chết đi nữa thì con người vẫn yêu thương nhau, tôn trọng nhau, quan tâm nhau, vẫn khao khát hạnh phúc, muốn được sống như một con người và sống như một con người.

              Tào Nam từng nói “đàn bà khi yêu thì xấu, nhìn cũng liếc mắt đưa tình”, điều này đúng với vợ của anh. Tôi nghĩ đó là sự yêu thích của cô gái để nhìn chằm chằm, không chỉ xấu xí, mà còn rách rưới và đói khát. Nhưng có thể khi dời mắt, nhắm mắt, nhắm mắt, họ đã quên mất sự sống trong thế giới vật chất đang bên bờ vực thẳm, và cõi chết dường như giao hòa với thế giới vật chất, chỉ còn nhớ đến tình yêu. Hãy trân trọng và ngưỡng mộ những niềm vui bình dị đời thường!

              Phân tích tâm lý nhân vật Vợ nhặt – Văn mẫu 9

              Thầy giáo trần minh từng có một nhận xét rất tinh tế: “Nhà văn dùng đòn bẩy tình yêu vợ nhặt để đề cao con người. Truyện vợ nhặt đầy bóng tối nhưng cũng phảng phất ánh sáng ấm áp”. Và những “nỗi lòng” Phải chăng là “ánh sáng soi” tình yêu, sức sống mãnh liệt của một nhân vật bị dồn vào ngõ cụt và buộc phải đối mặt với cái chết nhưng biết cách tỏa sáng? Bằng óc quan sát tinh tế và sự đồng cảm sâu sắc với số phận của loài người, Kim Lan đã thành công xây dựng nhân vật và thể hiện sinh động số phận của người phụ nữ, thực sự khiến người đọc xúc động.

              Vợ tôi nhận thấy tác giả Kim Lan lấy hiện thực xã hội nạn đói lớn năm 1945 làm chủ đề, tác phẩm nào của bà cũng miêu tả hiện thực đó một cách chi tiết, sinh động và có giá trị lớn.

              Tác phẩm này đã được đăng trong Tuyển tập những chú chó xấu xí, và nó đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả sau khi xuất bản, đặc biệt là những tình tiết khó hiểu nhưng cảm động của câu chuyện. Thực tế xã hội nảy sinh khi con người sẵn sàng từ bỏ phẩm giá và địa vị của mình để có được miếng ăn vì đói. Và nhân vật người vợ đặc biệt nổi bật. Nhưng có ý nghĩa và giá trị mà tác giả muốn gửi gắm.

              Trong ngòi bút của Jin Wuni, người vợ mà anh ta nhặt được là một người phụ nữ không tên, không tuổi, không quê hương hay quá khứ. Không phải nhà văn kém ngôn ngữ để đặt tên cho cô ấy, mà bởi vì cô ấy là một con bèo, một người phụ nữ vô danh. Từ đầu đến cuối, nhân vật này chỉ được gọi là “cô”, “thị”, “nữ nhân”, “dâu mới”, “con nhà người ta”. Nhưng nhân vật này đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

              Cả về ngoại hình lẫn tính cách, anh ta đều là một kẻ ham ăn:

              Lần đầu tiên cô xuất hiện là: ngồi giữa đống hạt dưa vương vãi ở cổng các tỉnh, thành phố. Khi nghe câu hô cho đỡ buồn “muốn ăn cơm giờ/ Lại đây đẩy xe bò với anh”, thị “Tôn chạy lại đẩy xe bò cho cả đám… cười tít mắt”. Cô vừa đẩy xe vừa ăn nên rất nhiệt tình không quan tâm.

              Lần thứ hai, cô xuất hiện trong một bộ dạng không mấy hấp dẫn: một người phụ nữ gầy gò, “quần áo tả tơi như tổ đỉa”, “mặt xám xịt”, với đôi mắt trũng sâu của “hai đứa trẻ”. Có thể nói, cái đói đã làm cô thêm xơ xác, tội nghiệp và khốn khổ hơn. Cái đói không chỉ hủy hoại khuôn mặt mà cả nhân cách và phẩm giá của cô. Vì đói mà cô trở nên “vui vẻ”, “luộm thuộm”, “chua ngoa”. Có biểu hiện “cong” và “dừ” khi giao tiếp, nói năng. Cái đói khiến cô quên mất việc giữ gìn sự tỉnh táo và lòng tự trọng. Chỉ cần tiếp tục yêu cầu thực phẩm. Sau khi ăn no, cô định “ăn liền một mạch bốn bát bánh ngọt mà không nói lời nào”. Cô ấy đặt sự tồn tại của bản thân, thức ăn của mình lên trên nhân cách của mình.

              Khi ông già đùa giỡn, ông nói đùa: “Về nhà với anh, lên xe trước rồi chúng ta về”. Sau đó, người phụ nữ kia giữ im lặng (thường có nghĩa là im lặng là đồng ý). Tôi đồng ý, không chần chừ, không do dự. Trong khi đó, Colon là ai, tốt xấu như thế nào? Nguồn gốc là gì? Thị trường nào hoặc ai biết. Chỉ cần vài bát bánh thầu dầu là có thể ăn không kịp. Có thể theo xu hướng cho người sành ăn?

              Dễ bán trên bề mặt? Trên thực tế, hành động theo dòng của cô ấy là từ sự kiên trì và mong muốn cho cuộc sống. Rủi ro thị trường Mọi thứ đều được ăn, và chỉ bằng cách ăn chúng ta mới có thể tồn tại. chấp nhận trực tràng.

              Thứ bám vào sự sống là ý thức. Bên bờ vực của cái chết, một người phụ nữ không bao giờ từ bỏ cuộc sống. Thay vào đó, cô ấy vẫn vượt qua sự ảm đạm của mình và bắt đầu một gia đình. Sự lạc quan yêu đời của thành phố là một phẩm chất vô giá.

              Ông nói như một con kỳ lân vàng: “Vào thời điểm quan trọng, mặc dù cái chết đang đến gần, nhưng những người này không nghĩ đến cái chết mà hướng đến sự sống, tràn đầy hy vọng và niềm tin vào tương lai”.

              Trên đường về, tâm trạng của người chồng thay đổi rõ rệt. Nếu một người đàn ông hạnh phúc, tự hào và có khuôn mặt tự mãn, một người phụ nữ sẽ cảm thấy xấu hổ.

              Trước những con mắt tò mò, trước những lời giễu cợt, trêu chọc của cư dân. Xấu hổ và thiếu tự tin, cô “giậm một chân… chiếc nón rách che nửa khuôn mặt”.

              Ở nhà chồng, chị “thở dài” khi nhìn thấy “ngôi nhà trống, nằm co ro trong mảnh vườn cỏ dại um tùm”. Đó là một sự thất vọng, một sự thất vọng và một tiếng thở dài chấp nhận.

              Người ta nghi ngờ rằng chiếc phao mà cô ấy đang cầm đã bị hỏng. Trong tiếng thở dài ấy không chỉ có những lo lắng về tương lai ngày mai mà còn có cả những trăn trở, trách nhiệm với gia đình chồng. Chẳng lẽ cô biết mình cùng chồng chung tay gánh vác trách nhiệm xây dựng gia đình? Tấm lòng của cô thật đáng quý biết bao.

              Vào phòng, nàng bẽn lẽn “ngồi” vào mép giường (“ngồi” ở tư thế bấp bênh, chông chênh nhưng ân cần). Thể hiện ý nghĩa, sự kính trọng, lễ phép chào bà cụ (chào hai lần). Đây là hình ảnh đẹp về một cô con dâu rất nề nếp, hòa thuận với mẹ chồng. Khi nói chuyện với mẹ, cô chỉ biết “đứng sờ soạng với chiếc áo rách”.

              Sau đêm tân hôn, tâm trạng và tính cách của người phụ nữ thay đổi rõ rệt. Cô dậy sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa. Người đọc cũng dễ dàng nhận ra sự thay đổi này: nếu thị trường hôm qua chua ngoa, đanh đá và lầm lì thì thị trường hôm nay thật mềm mại.

              <3 cuộc gặp gỡ ngoại tỉnh.

              Câu này ghi lại cảm xúc thật của Đại Xương trước việc vợ chủ động thay đổi. Liệu tình yêu đích thực và phép màu nhiệm có sức lay động thương trường.

              Bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, tuy chỉ là “nồi cháo loãng, người hai bát ăn hết”, phải ăn cháo cám nhưng chị vẫn thấy vui và hài lòng. Thị trường đã mang lại sức sống và thông tin thời đại mới cho mẹ và bé.

              Nghe tiếng trống thúc thuế, cô nói với mẹ chồng: “Ở Thái Nguyên và Bắc Giang, người ta không đóng thuế nữa, thậm chí còn phá kho thóc của Nhật để cứu đói.”

              Hiểu được chị, dường như chị có chút ánh sáng trên con đường anh chọn để đi tiếp “Trong đầu tôi vẫn thấy đoàn người đói khổ đi trên bờ kè với lá cờ đỏ to tướng phía trước”.Qua đó, chúng ta xem nhân vật người vợ vừa là sứ giả của cách mạng, vừa là “cô dâu mới”.

              Jin Lan đã viết về những thay đổi trong tâm trí của cô ấy, bày tỏ sự tôn trọng và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của những người lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của tác giả được thể hiện ở đây.

              Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, tác giả đã đặt nhân vật này vào một tình huống truyện độc đáo, diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, giàu kịch tính…

              Tóm lại, “Picking Girls” là sáng tạo của kim uni. Thông qua nhân vật này, nhà văn thể hiện ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Dù sống trong cảnh khốn khó nhưng người dân Việt Nam luôn hướng về tương lai với niềm tin yêu cuộc sống.

              Sắc đẹp cứu người” (dons-i-ep-ki). Đúng vậy, “Cô gái nhặt nhạnh” của Kim Lan đã thể hiện rõ ràng sức mạnh kỳ diệu đó. Ánh sáng của lòng nhân ái, ánh sáng của niềm tin, tình yêu cuộc sống, là để giúp Nguồn cho những tác phẩm đã hoàn thành của Kim Youni. Ông đã đóng góp cho toàn bộ nền văn học Việt Nam, đặc biệt là về đề tài cái đói, một quan niệm mới về lòng người và bản chất con người. Sau khi đọc truyện cổ tích, dấu ấn mạnh mẽ nhất trong tâm trí người đọc là vẻ đẹp của con người , ở đây là nhân vật hình ảnh . Dù là nạn nhân của nạn đói nhưng thị trấn này vẫn có đầy đủ phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam . Đây là niềm trân trọng và vinh dự của chính tác giả.

              ………………………………………….. .

              Tải file tài liệu để xem thêm các bài viết phân tích đặc điểm thị trường

Kiểm tra tiếng Anh trực tuyến

Bạn đã biết trình độ tiếng Anh hiện tại của mình chưa?
Bắt đầu làm bài kiểm tra

Nhận tư vấn lộ trình từ ACET

Hãy để lại thông tin, tư vấn viên của ACET sẽ liên lạc với bạn trong thời gian sớm nhất.