21 bài văn phân tích nhân vật nổi bật đầu tiên, có 3 dàn ý chi tiết kèm theo. Qua đó, các em học sinh lớp 9 có thể cảm nhận sâu sắc hơn tính cách thầy Sáu, một người cha yêu con, một người lính có tinh thần trách nhiệm cao.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” ra đời năm 1966, ca ngợi tình cha con, tình đồng chí giữa khói lửa chiến tranh. Đồng thời tác giả cũng muốn tố cáo chiến tranh đã tàn phá biết bao gia đình hạnh phúc. Vui lòng tải xuống miễn phí:
Phân tích tiểu sử nhân cách của ông Sáu
Đề cương 1
I. Lễ khai trương
- Giới thiệu tác giả: Nguyễn Lượng Sang (1932-2014), tham gia kháng chiến chống Nhật và giữ nhiều chức vụ quan trọng. Nhà văn đã trải qua nhiều năm tháng đấu tranh trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
- Giới thiệu tóm tắt: Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” viết năm 1966 ca ngợi tình cha con, tình đồng chí giữa chiến tranh. Đặc biệt nhân vật người con trai thứ sáu đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc.
- Khi anh đi bộ đội, con gái anh mới 1 tuổi, anh rất thương và nhớ con
- Khi về đến nhà, cô không nhận ra mình vì vết sẹo không giống người trong ảnh. Cô trốn chạy, trốn tránh, phủ nhận ông là bố của mình, thậm chí còn quậy phá, không nói được lời nào khiến ông buồn.
- Khi ăn cơm, anh ấy đã vội vàng, không kìm được mà đánh đứa trẻ, anh ấy cảm thấy rất hối hận, nhưng cũng chỉ vì anh ấy quá yêu con mà thôi.
- Mong ước lớn nhất của anh lúc này là được nghe con gái gọi mình là cha, chính tình phụ tử sâu nặng đã theo anh đến tận bây giờ
- Bé Thu đã làm anh và mọi người ngạc nhiên khi gọi anh 6 ăn 3 trước khi ra về. Anh ấy đã rất hạnh phúc.
- Ở chiến trường, ông rất nhớ con, muốn ôm hôn con. Ông dồn hết tình yêu thương để làm chiếc lược ngà cho con trai.
- Hình ảnh đời thường nhưng tình thương con vô hạn
- Hình ảnh người lính và người cha làm nổi bật tình cha con của một người đàn ông
- Tình yêu của ông Sáu dành cho con và gia đình luôn sâu đậm nhất
- Ông Sáu là một người lính oai hùng nơi chiến trường nhưng lại rất mực yêu thương các con.
- Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống truyện bất ngờ để bộc lộ nội tâm của họ.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật khéo léo khắc họa tâm lý sâu sắc, chân thực.
- Nhân vật ông Lưu để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
- Nhân vật ông Lưu – người cha nhân hậu, là hình ảnh tiêu biểu của người Việt Nam sẵn sàng hy sinh tất cả vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
- Nhà văn Nguyễn Quang Sinh đã khắc họa một cách sinh động và không kém phần hình ảnh người cha vĩ đại hết mực yêu thương con cái.
- Giới thiệu tác phẩm và nhân vật: “Chiếc lược ngà” là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Quang Sinh, kể về tình cha con sâu nặng và những năm tháng chinh chiến. Người con trai thứ sáu là một trong những nhân vật mà nhà văn đặt nhiều tâm tư, tình cảm.
- Ông Sáu là một người cha hết lòng yêu thương con cái.
- Ông đã anh dũng chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
- Bảy năm chiến trường để lại trong anh niềm khao khát được gặp lại vợ con, được nghe các con gọi “ba ơi”.
- Baby Thursday – Cô con gái út của anh tỏ ra xa cách và nghi ngờ anh đến mức không chịu được gọi là “Bố”.
- Trở về chiến trường, nhớ lời hứa với con, ngày nào ông cũng làm chiếc lược ngà thật đẹp cho con gái.
- Ông Sáu cũng là một nhân vật đại diện cho nhiều thế hệ cha ông thời bấy giờ. Vì tình yêu Tổ quốc, họ sẽ lên đường bảo vệ đất nước
- Câu chuyện này cũng là một bản cáo trạng mạnh mẽ về tội ác chiến tranh đối với biết bao người dân vô tội.
- “Chiếc lược ngà” là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Quang Sinh, kể về tình cha con và những năm tháng chiến tranh ác liệt. Người con trai thứ sáu là một trong những nhân vật mà nhà văn đặt nhiều tâm tư, tình cảm.
- Truyện “Chiếc lược ngà” và hình ảnh người ông gợi lên trong lòng chúng ta ý nghĩa về sự hy sinh xương máu và hạnh phúc của ông cha từ đời này sang đời khác. Và bài học “uống nước nhớ nguồn” càng thấm thía.
- Giới thiệu tác phẩm, nhân vật ông Lưu.
- Tham gia Phong trào Kháng chiến khi chưa đầy một tuổi.
- 7, 8 năm xa cách, không được gặp con. Khi được về thăm con tại nhà riêng, cháu bé không biết mặt bố.
- Bé Thu bướng bỉnh không chịu nhận mình lên ba, không chịu để ý đến việc mình đã lên sáu.
- Đập vỡ trứng cá muối trong bát khi anh ấy gắp cho mình.
- Nêu cảm nhận của em về tác phẩm và các nhân vật trong đó.
Hai. Nội dung bài đăng
* Phân tích hình ảnh Lục công chúa chải lược ngà:
1. Tâm trạng của anh sáu
=>Ông Lưu là một người cha rất rất tuyệt vời, ông ấy yêu con hết mực.
2. Cảm nghĩ về nhân vật ông Sáu
3. Nghệ thuật
Ba. Kết thúc
Đề cương 2
I. Giới thiệu:
Hai. Văn bản:
Ba. Kết luận:
Đề cương 3
1. Giới thiệu:
2. Văn bản:
Một. Hoàn cảnh nhân vật:
b. Tình con sâu nặng và sự từ chối bi thảm:
– Đi vội, mong gặp em.
– Quá xúc động, nhớ em, giọng run run và khuôn mặt với vết sẹo đỏ tươi rung lên theo từng cảm xúc.
– Phản ứng của bé: “bắt đầu mở to mắt”, “bối rối, kỳ lạ”, tái nhợt, sợ hãi hét lên “Mẹ ơi!!” và bỏ chạy.
→ Nó khiến anh đau khổ, cay đắng, “mặt mũi đen sạm, hai tay buông thõng như đứt lìa”, sự bất lực, hụt hẫng đến tột cùng của một người cha bị chối bỏ một cách phũ phàng, đau đớn.
– Khi anh ấy đi nghỉ, anh ấy luôn cố gắng đến gần cô ấy, “cả ngày không đi xa, chỉ vỗ về cô ấy bên cạnh”:
– Hối hận và day dứt vì đã đánh con trong lúc nóng giận.
c.Bi kịch một lần nữa bị chia cắt và nỗi ân hận cả đời:
– Ngày lên đường trở về căn cứ, anh chỉ lặng lẽ nhìn chị “bằng ánh mắt trìu mến, bùi ngùi” và nói lời chia tay “Em về nghe anh!”.
—— “Cạch…cạch…cạch…cạch!” Âm thanh như xé toạc không gian, xé nát trái tim mọi người, đứa bé chạy đến, nhào vào lòng anh, ôm chặt lấy anh. cái cổ. Ông nội vừa khóc vừa nói: “Bố ơi! Bố đừng cho con đi! Bố ở nhà với con nhé!”.
=>Hạnh phúc đã mỉm cười với anh, anh lén lau nước mắt, hôn lên tóc em một cách trân trọng và âu yếm.
– Hóa ra sau khi biết vết sẹo trên mặt là nguyên nhân của trận đòn, Thu đã hiểu ra và quay lại đón ba.
– Vào chiến trường, ông đã dùng tình yêu thương, gắn bó với các con để làm nên chiếc lược ngà.
– Trước khi hy sinh, nhờ đồng chí đưa cho chị chiếc lược.
3. Kết luận:
Phân tích nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà
Phân tích tính cách ông Sáu – Mẫu 1
“Emily, lớn lên con hãy theo cha, con biết đường, đừng lạc…”
– Anh đi đâu đấy?
– đến bờ sông Potomac
– Nhìn gì vậy?
Không có em bé, chỉ có Lầu Năm Góc. Ôi chàng trai của tôi mắt tôi tròn Ôi chàng trai tóc vàng của tôi đừng hỏi tôi quá nhiều câu hỏi! Bố đưa con đi, đêm con về với mẹ…”
(có thể)
Người đàn ông Morrison đi thẳng đến Lầu Năm Góc với cô con gái nhỏ trên tay, với vẻ mặt trầm ngâm. Đứa bé ngây thơ không biết rằng điều mà người cha dũng cảm của mình kịch liệt phản đối chính là cuộc chiến tranh xâm lược ác liệt đang diễn ra ở Việt Nam. Người cha đã có thể hôn lên má cô con gái nhỏ lần cuối trước khi tự thiêu, nhưng ông không bao giờ được Ruan Guangsheng ôm trong “chiếc lược ngà” và ôm đứa bé vào lòng. Tác giả là một trong những cây bút sáng tác nhiều truyện ngắn có giá trị trong những năm chiến tranh, là cây đại thụ của văn học miền Nam với những truyện ngắn xuất sắc như “Con chim vàng”, “Người nhà quê”, “Chiếc lược ngà”,… .. sự hấp dẫn bi tráng, kịch tính và thơ mộng của nhiều câu chuyện anh hùng tạo nên nét đặc sắc và vẻ đẹp của Những Trang Sáng. Nhân vật của anh đã ăn khách và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Tám năm dài đằng đẵng, vì lý tưởng “tử quốc đền ơn sống” mà anh đã phải bỏ lại hạnh phúc phía sau. Baby Thứ Năm – Con gái của anh ấy thật kỳ lạ và không nhận ra đó là bố của mình. Là một người cha, anh luôn quan tâm đến cảm xúc của con cái và luôn muốn hòa giải như trước. Một người đàn ông mạnh mẽ, bản lĩnh sẽ luôn yếu đuối trước mặt vợ con, nhưng nay tình cảm sâu nặng, nếu không có chiến tranh, có lẽ anh sẽ ở bên cạnh mỗi ngày, nuôi nấng, chăm sóc. . .
Giống như bao người khác, ông nghe theo tiếng gọi của tổ quốc và ra trận, bỏ lại người vợ yêu dấu và những đứa con thơ của mình. Khoảng cách xa cách khiến anh càng nhớ đứa con gái chưa đầy một tuổi khi anh ra đi. Sau tám năm xa cách, nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, ước mơ cháy bỏng trong lòng anh. Vì vậy, mỗi lần vợ lên thăm, anh đều hỏi: “Sao anh không cho cô ấy đi cùng?”. Nếu không được gặp con, ông chỉ có thể nhìn thấy con qua những bức ảnh… Dù những bức ảnh đã rách nát và rất cũ nhưng ông luôn cất giữ chúng rất cẩn thận và coi chúng như báu vật. Còn con gái của bạn thì sao? Từ nhỏ cho đến năm 8 tuổi, anh chỉ biết cha mình qua những bức ảnh và những câu chuyện về bà và mẹ. Dù được sống trong tình yêu thương của mọi người nhưng có lẽ bé Thu cũng cảm thấy thiếu vắng tình thương, sự đùm bọc của cha. Tôi chắc rằng cô ấy đang thu thập những thứ luôn chờ đợi cha mình, phải không? Và tám năm đằng đẵng ấy cũng đã cộng thêm sáu nỗi nhớ mong trong lòng hai cha con, người muốn gặp con, người con muốn gặp cha.
Rồi điều ước thành hiện thực. anh ấy đang đi nghỉ. Khi về thăm con, trên thuyền, ông say khướt. Anh đang nghĩ về con trai mình, nghĩ về giây phút hai cha con gặp nhau. Những điều này trở nên quá sức đối với anh ấy đến nỗi anh ấy không còn biết mình đang ở trên thuyền với bạn bè nữa. Thuyền vừa chạm bờ, anh đã rón rén nhảy vào bờ. Người bạn đồng hành của ông cũng rất hiểu ông nên không trách ông, bởi đó là giây phút vô cùng thiêng liêng và quan trọng đối với ông, và người cha đang mong chờ giây phút con trai chạy đến ôm ông, lùi lại một bước. . Đi rồi… anh đã “xuống xuồng, chạy nước kiệu rồi dừng lại kêu: Thứ! Cậu”. Anh vừa bước vào, cúi xuống chờ con…anh không kìm được cảm xúc…. Nhưng trái ngược hoàn toàn với tình yêu rực lửa của anh, cô gái nhỏ lại trở nên lạnh lùng, sợ hãi và bỏ chạy. Thu không biết anh, tim anh như bị đâm, anh lắp bắp gọi con, vết sẹo trên má đỏ ửng, cô bỏ chạy, anh đau đớn “Tay rơi như đứt lìa”. trông thật tội nghiệp. Có lẽ anh cũng có thể hiểu được phần nào phản ứng của đứa trẻ đối với mình, nhưng là một người cha, làm sao anh không cảm thấy đau lòng và thương hại.
Mấy ngày ở nhà, anh không dám đi đâu xa, luôn vỗ về con trai, mong được nghe cô gọi “ba ơi”, nhưng chẳng được gì. Đứa con sáu tuổi càng gần gũi với cô, cô càng lạnh nhạt. Khi mẹ bảo cô ấy mời bố vào ăn tối, cô ấy nói: “Vào ăn đi con!”. Câu nói của cô như đánh trúng tâm can anh, nhưng anh vẫn ngồi yên, vờ như không nghe, chờ cô gọi “Ba về ăn cơm.” Tuy nhiên, Thư vẫn ngoan cố không chịu gọi ba, còn bực bội nói vài câu “Con bữa ăn đã sẵn sàng!” và “Tôi đã khóc, nhưng mọi người không nghe”. Anh tuyệt đối không gọi anh là “bố”, không để anh húp cạn nồi cơm đang sôi, lúc này lòng anh đau lắm, thương con không nỡ mắng, chỉ có thể “nhìn con lắc đầu cười nhẹ nhàng”. Nụ cười lúc này không phải không phải là vui sướng, mà có lẽ là bởi vì trong lòng đau đến không thể khóc, cho nên mới phải cười như vậy. Dường như chính sự thờ ơ và bướng bỉnh của Sese đã làm tổn thương những cảm xúc nồng nàn và căng tràn nhất trong trái tim anh. Vì quá thương con nên anh không kiềm chế được cảm xúc. Khi nó đang ăn, nó cầm cái trứng lên nhặt, nó bất ngờ ném quả trứng ra khỏi bát cơm. Bực mình, anh vung tay mắng nó. Có lẽ đánh cô là nhiều hơn anh muốn. Tất cả chỉ vì anh quá yêu em. Bạn có thể nghĩ rằng việc em bé thu thập tất cả các quả trứng từ cốc là tác nhân kích hoạt cảm xúc bị kìm nén và tích trữ từ lâu của em.
Ngày chia tay, thấy con đứng trong góc phòng, ông muốn ôm hôn con nhưng “sợ con vùng vẫy rồi trốn mất”, “chỉ biết đứng nhìn”, “vừa thương vừa buồn”. mắt… cho đến khi Gọi điện cho bố, anh xúc động bật khóc: “Mẹ không muốn con khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay lấy khăn lau nước mắt cho con, hôn lên tóc con”. . Bao công sức của anh đã được đền đáp Nước mắt của anh Giọt nước mắt của niềm vui và hạnh phúc Anh không muốn em khóc anh một tay ôm em , rút khăn lau nước mắt cho em , hôn lên tóc em … thế là em gọi ông là bố. Trên chiến trường, những người lính đã quen với sự sống và cái chết, nhưng tình cảm cha con vô cùng mềm yếu, sau bao năm chờ đợi và đau khổ, ông đã có được niềm vui vô hạn, giờ đây ông có thể thanh thản ra đi. Có người con gái yêu luôn ở nhà chờ anh, chờ anh về từng phút.
Khi tự tay mình làm chiếc lược gia đình cho con gái, tình cảm của ông dành cho thu càng mạnh mẽ, cao quý, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết. “Bố đã về! Bố mua cho con chiếc lược!”. Đây là mong ước giản dị của cô bé trong khoảnh khắc bố chia tay. Xa bạn, anh ấy luôn nhớ bạn da diết, tiếc vì đã vô tình đụng phải bạn nên mọi tình cảm đều dồn hết vào việc làm chiếc lược ngà, mong một ngày sẽ tặng bạn. Tặng bạn món quà này. Khi nhặt được một chiếc ngà voi, anh mừng rỡ như đứa trẻ được quà: “Từ con đường xuyên rừng sâu, anh vội chạy lại giơ chiếc ngà lên cho tôi xem, mặt anh hớn hở như đứa trẻ nhận được một món quà Rồi ông làm chiếc lược bằng cả tấm lòng: “Ông quan sát từng chiếc răng lược một cách cẩn thận, tỉ mỉ, cần mẫn như một người thợ bạc.” Trên lưng chiếc lược, ông còng lưng tỉ mẩn khắc từng nét chữ: “Của tôi em ơi, nhớ Góp tiền đi đón bố con”. Anh gửi gắm tất cả tình cảm, tâm tư. Nhớ em “ Anh lấy chiếc lược ra ngắm nghía, rồi chuốt lại cho chiếc lược thêm óng ả, mượt mà”. Anh không Không muốn để con đau khi chải chiếc lược Thương con, ông yêu từng sợi tóc của con Chiếc lược trở thành vật kỷ niệm của ông, nó làm dịu đi nỗi tiếc nuối, nó chất chứa biết bao tình thương, tâm tư, suy nghĩ của người cha dành cho đứa con đã mất chiếc lược ngà là kết tinh của đức phụ quyền thiêng liêng, trớ trêu thay không chờ được ngày con về, ông đã hy sinh trong cuộc chiến tranh giữa Mỹ và ngụy khi chưa kịp trao chiếc lược cho con gái. một giờ qua, không đủ. Xem ra chỉ có hai cha con là không thể chết”, sức lực cuối cùng còn lại của anh là “cho tay vào túi, móc lược”” và đưa cho một người bạn để đánh . Đó là một di vật không lời, nhưng còn thiêng liêng hơn cả một di chúc. Đó là niềm tin, là tâm nguyện cuối cùng, là tâm nguyện của người cha. Kể từ lúc đó, chiếc lược làm cha đã biến người đồng đội Số Sáu của anh trở thành người cha thứ hai của đứa trẻ.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” thật sâu sắc và cảm động, cái làm rung động lòng người là tình cha con sâu nặng, cao đẹp giữa hai cha con giữa khói lửa chiến tranh. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà có lý, có lý. Cốt truyện được xây dựng khá chặt chẽ, có sự lựa chọn nhân vật kể chuyện phù hợp. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất, thêm đồng đội và nhân chứng Ba Thục vào truyện. Đối với người trần thuật này, người trần thuật lồng vào đó những nhận xét, suy nghĩ, sự đồng cảm, và quan trọng nhất là sự chia sẻ với nhân vật của mình. Mỗi lời cảm thán chân thành, mỗi lời thổ lộ đều như một nhát dao cứa vào vết thương rỉ máu. Tình cảm gia đình thiêng liêng, tình cha con không bao giờ có thể bù đắp được. Khi chiến tranh đi qua để lại những mất mát khôn tả, cướp đi những người vợ, người chồng, người cha, người con và những người lính của đất nước.
Nguyễn Quang Sáng là một trong những cây đại thụ viết nhiều truyện ngắn đáng giá trong những năm tháng chiến tranh. Ông có cho mình một kho quà mang đậm dấu ấn Nam Bộ. Qua nhân vật ông Líp trong tác phẩm Chiếc lược ngà, người đọc không chỉ cảm nhận được tình yêu thương chân thành, sâu sắc của người cha quân nhân mà còn thấu hiểu nỗi đau mất mát của người con và gia đình. Tình thương của ông dành cho con như một lời khẳng định: Bom đạn của kẻ thù chỉ có thể hủy diệt sinh mạng con người, nhưng tình cảm gia đình của con người – tình cha con thiêng liêng thì không một loại bom đạn nào có thể hủy diệt và giết chết được. Sự ăn mòn tàn nhẫn của thời gian không thể xóa nhòa “cuộn phim tua lại” mang tên “Chiếc lược ngà”. Ở đó, ta luôn cảm nhận được hơi ấm từ trái tim và tình cảm thiêng liêng. Không chỉ vậy, những đau thương mất mát trong chiến tranh còn khiến chúng ta biết ơn và thôi thúc chúng ta chiến đấu vì tương lai của Tổ quốc, không quên rằng họ đã “đổ máu” để đổi lấy nền hòa bình này.
Phân tích tính cách ông Sáu – Mẫu 2
Câu chuyện về tình cha con trong tác phẩm chiếc lược ngà đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Mối quan hệ cha con này được thử thách trong hoàn cảnh chiến tranh, vì vậy còn nhiều điều hơn thế nữa. Sự tàn khốc của chiến tranh và thời gian không xóa nhòa được cảm giác đó. Quan trọng nhất, khi những người trong câu chuyện nhận ra tình yêu thương, tình cảm và tầm quan trọng của tình cảm gia đình thì nó càng trở nên thiêng liêng hơn.
Trong tác phẩm, nhân vật chính là thứ năm, nhưng có một nhân vật trung tâm, một nhân vật có ý tưởng rất lớn đối với tác phẩm, đó là ông Chiến thì đúng là một điều kinh khủng. Chỉ vì chiến tranh mà gia đình ba người của anh khó đoàn tụ. Anh là người lính cả đời vì nước, vì dân, dù biết phải gánh trách nhiệm vì sự sơ suất của mình nhưng anh hiểu và luôn đau lòng vì không bù đắp được. .rất yêu vợ con. Anh ấy nghĩ rất nhiều, đặc biệt là về đứa con gái út của mình, lần cuối cùng anh ấy gặp cô ấy khi cô ấy còn là một cô bé, 8 năm trước. Trong lòng anh càng nhớ con, mong ngóng được về thăm con từng ngày. Bao nhiêu năm không được gặp con, không được cận kề chăm sóc, che chở, bảo vệ là nỗi day dứt lớn nhất trong lòng ông. Ở chiến trường, không ngày nào anh không nhớ. , về vợ, về cô con gái nhỏ thân yêu của anh. Anh đã từng mơ mộng về người con gái của mình bây giờ trông như thế nào, cô ấy cao bao nhiêu, liệu cô ấy có luôn ghi nhớ điều đó trong trái tim anh hay không, đó là niềm khao khát, mong nhớ của anh. Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra, bao nhiêu suy tư được bày tỏ. Năm sáu tuổi, anh không thể hạnh phúc hơn khi một ngày được về quê thăm người thân. Được gặp lại con và được nghe con gái gọi “bố” là ước mơ lớn nhất của anh lúc này.
Rồi một ngày, điều ước ấy cũng thành hiện thực, tuy nhiên, mọi chuyện lại không như ý muốn của anh. Anh mệt mỏi, khát khao được gặp con gái đến tột cùng, khao khát được ôm con vào lòng hôn lên tóc con… Nhưng cuối cùng, anh lại bị đứa con gái bướng bỉnh xa lánh. Cô gái nhỏ chạy trốn khỏi anh, anh càng đến gần, cô càng lùi ra xa, từ chối mọi sự gần gũi, vuốt ve, vuốt ve, vuốt ve của anh. Và điều khiến anh đau lòng nhất là từ chối gọi anh là “Bố”, phản đối tất cả những gì anh đã cho cô và làm cho cô.
Ông càng đến gần tôi, tôi càng đẩy ông ra, ông thấy thương tôi. Điều ước không trọn vẹn, và đây là điều khiến anh ấy phiền lòng. Nhưng phải ra đi mà không được một lần ôm con gái vào lòng, không thể cảm nhận trọn vẹn, đồng thời ông lại sợ lần gặp gỡ này cũng là lần cuối cùng bởi nguy cơ chiến tranh là lớn nhất. Ông bất lực nhìn con gái, đau đớn và tuyệt vọng, nghĩ người đàn ông mạnh mẽ và bản lĩnh này nên khóc.
Không thể trách cô ấy lấy con gái anh, bởi vì cô ấy có tình cảm đặc biệt với cha mình. Đối với Thứ Năm, cô ấy chỉ có một người cha, người mà cô ấy rất yêu quý. Hiểu và quan tâm đến những khó khăn vất vả của cha. Đó là lý do tại sao tình yêu của anh ấy chỉ dành cho người cha thực sự của mình. Chỉ có thế và không ai khác. 8 năm không phải là dài nhưng cũng không phải là ngắn. 8 năm là thời gian để những đứa trẻ lớn lên, cũng là lúc đàn ông già đi. Hình ảnh của cha và mẹ cô hoàn toàn khác nhau, và người đàn ông trước mặt cô cũng rất khác, cô có rất nhiều lo lắng và nghi ngờ.
bé Thu – con gái ông, không chịu nhận ông là cha, nhất là với thái độ rất cương quyết và công minh. Ông Sáu buồn nhưng không trách con, quan trọng nhất là sự thiếu vắng tình thương của người cha khiến ông càng thương con hơn. Một đoạn cha con gặp nhau khiến người đọc rất xúc động. Tràn đầy sức mạnh của tình cha. Con gái ôm chặt bố, hôn má bố, thậm chí còn hôn cả vết sẹo dài trên má – bảo sao bố không nhận ra. Đau đớn, xót xa nhưng cũng tràn đầy hạnh phúc. Đối với anh, khoảnh khắc đó khiến anh mãn nguyện trong suốt quãng đời còn lại. Để nỗi nhớ con da diết hơn khi ra chiến trường, ông đã làm một chiếc lược kỷ niệm cho cô con gái nhỏ thân yêu của mình.
Chiến tranh rất tàn khốc và tàn khốc, nó đã cướp đi quá nhiều hạnh phúc của con người. Trong tác phẩm của Ivory Combs, chiến tranh đã cướp đi hạnh phúc gia đình của ông, chia cắt vợ với chồng, con với cha, dẫn đến một cuộc gặp gỡ đau đớn, đớn đau nhưng cũng thật cảm động và ấm áp.
Phân tích tính cách ông Sáu – Mẫu 3
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là truyện ngắn kể về tình cha con thắm thiết sau 6 năm chiến tranh. Đây là một câu chuyện ngắn đơn giản nhưng đáng ngạc nhiên. Sách giáo khoa Ngữ văn 9 cho thấy một khoảnh khắc nhỏ trong đó có sự cao cả thiêng liêng của Chúa Cha.
Khi tự tay làm chiếc lược ngà cho con gái, tình cảm của ông dành cho bé Thu càng mãnh liệt, cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết. “Bố đã về! Bố mua cho con chiếc lược!”. Đây là mong ước giản dị của cô bé trong khoảnh khắc bố chia tay. Nhưng với người cha ấy, đây là tâm nguyện đầu tiên và duy nhất nên trong lòng ông không ngừng thôi thúc. Tìm chiếc lược cho con trở thành trách nhiệm của người cha và tiếng khóc thương cha trong lòng người cha. Anh bật dậy, như chợt nảy ra một ý: dùng ngà voi làm lược cho lũ trẻ. Có lẽ không chỉ là ở trong rừng rậm chiến khu, ông không mua được lược, nên việc làm một chiếc lược bằng ngà voi là một việc khó vượt qua. Nhưng cao hơn và sâu xa hơn thế, ngà voi là một thứ quý hiếm – thứ chắc chắn phải được làm bằng chiếc lược của con bạn. Và tôi không muốn mua nó, tôi muốn tự làm nó. Anh ấy sẽ đặt tất cả những người cha của mình vào đó. Sau khi lấy được ngà voi, gương mặt anh “phấn khởi như đứa trẻ được quà”. Vậy đấy, khi một người trở thành con là thể hiện tình cha cao cả. Rồi ông “săm soi từng chiếc bàn chải đánh răng, cẩn thận, tỉ mỉ như người thợ bạc”, và “khắc cốt ghi tâm từng chữ: ‘Yêu đi nhớ cho, nhận về'”. Ông thường “lấy chiếc lược ra ngắm nghía, rồi luồn qua tóc cho chiếc lược bóng mượt”. Tình thương con đã biến người lính thành nghệ sĩ – người nghệ sĩ cả đời chỉ sáng tác một tác phẩm, nhưng chiếc lược ngà kết tinh tình cha con giản dị mà trìu mến trong đó, quả là một điều kỳ diệu!
Nhưng ngày đó sẽ không bao giờ trở lại. Chưa kịp mang chiếc lược ngà cho con thì người cha đã hi sinh trong một trận đánh lớn với quân thù. Nhưng “hình như chỉ có cha con không chết được”. Chẳng thể làm gì hơn, anh chỉ còn chút sức lực cuối cùng để “đút tay vào túi, móc chiếc lược” đưa cho cô bạn thân của bạn, rồi nhìn bạn thật lâu. Nhưng đó là lời cuối cùng hiển nhiên, rõ ràng là thiêng liêng hơn di chúc, bởi vì nó là sự tin tưởng, là tâm nguyện cuối cùng của một người bạn thân, và là tâm nguyện cuối cùng của một người cha! Kể từ giây phút ấy, chiếc lược ngà của người cha đã biến người đồng đội trở thành người cha – người cha thứ hai của cô gái nhỏ.
Các bạn ơi! Trong ngày đen tối đó, kẻ sống ẩn mình và kẻ chết ẩn mình. Ngôi mộ của ông không thể nâng lên được, vì khi tìm được người ta sẽ đào tung lên để tìm dấu vết, nên ngôi mộ của ông bằng phẳng, bằng phẳng như mặt rừng. Chú và các bạn của ông đã lấy dao khắc lên cây rừng cạnh nơi ông nằm để ông ghi nhớ. Sống như vậy, chết như vậy, làm sao chịu nổi? Chúng tôi buộc phải cầm vũ khí. Và Thu không còn là cô bé ngày nào mà là một cô gái giao tiếp thông minh và bản lĩnh. Thu đã đi con đường mà cha cô đã chọn. Thu để báo thù cho quê hương, cha bị kẻ thù giết chết.
Dù ông đã chết nhưng câu chuyện về cha con ông sẽ sống mãi. Hình ảnh chiếc lược ngà với dòng chữ sẽ mãi là vật kỷ niệm, là chứng tích cho nỗi đau, sự bi tráng của chiến tranh. Cảm ơn biên kịch Ruan Guangsheng đã khắc họa rõ nét tâm tư và tình cảm của Mr. Câu chuyện đưa người đọc theo đuổi số phận và lòng dũng cảm, lần theo nhận thức của hai cha con người lính đã trải qua hai cuộc chiến trong nhiều thập kỷ. Những người còn sống, những kỷ vật đã mất, mối liên hệ giữa sự mất mát và sự tồn tại của chiếc lược ngà vẫn còn. Điều này chứng tỏ cho chúng ta thấy “mất mát lớn nhất được nói đến trong một truyện ngắn là những người chết, mái ấm không còn tồn tại trong thực tại. Tội ác của bao thế hệ đã mang đến cho chúng ta những tội ác, những đau thương, mất mát của những cuộc chiến tranh xâm lược. Bi kịch đã không xảy ra và sức mạnh của lòng thù hận đã biến cô bé Thurse trở thành một chiến binh dũng cảm và thông minh ít nhiều gắn bó với cuộc sống con người.
Khép lại cuốn sách và tiễn biệt cha, câu chuyện “Chiếc lược ngà” và những lời trăn trối của cha – giọng nói ấm áp, trầm tư của cha – còn vang vọng mãi trong lòng người đọc chúng ta, như tiếng vọng của cổ tích. Truyện cổ tích hiện đại đó đã thành công trong việc xây dựng tình huống truyện, miêu tả tâm lí, cảm xúc nhân vật, có giọng văn nhẹ nhàng, thấm thía. Người cha – người kể chuyện – hay nhà văn Nguyễn Quang Seng? Các nhà văn mới vào được với đất nước chỉ khi họ sống sống động vì cuộc kháng chiến của Tổ quốc, gắn bó mật thiết với nhân dân quê hương, biết ơn, xót thương, ngoan cường, bất khuất, bất tử với các nhân vật, sáng tạo nhiều hình tượng, chi tiết sinh động, bất ngờ. , Với giọng văn giản dị và cảm động như vậy. Đồng thời, truyện tái hiện lại thời kỳ đấu tranh giữ nước, tác giả mong độc giả suy ngẫm, thấm thía những đau thương, mất mát do chiến tranh gây ra qua thời kỳ này. Tình cảm cha con đã vượt qua lớp vỏ chiến tranh, ngày càng thiêng liêng, rực rỡ và ngày càng gắn chặt hơn bằng tình yêu quê hương, đất nước cao cả. Xuyên suốt cuộc đời của các nhân vật, từ cô bé Thu cho đến ông nội và ông nội thứ sáu Nguyễn Quang Sinh, dường như nói lên tình cảm của người dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh gian khổ chống ngoại xâm vừa qua của dân tộc ta, đặc biệt là tình cha con ruột thịt. đồng đội, và người cũ. Sự gắn bó của một thế hệ với thế hệ trẻ hơn, người chết và người sống… Bất tử. Cũng như chiếc lược ngà mà bố tặng bố sẽ không bao giờ mất, tình cha con không bao giờ mất!
Phân tích tính cách ông Sáu – Mẫu 4
Trong mọi tác phẩm văn học qua các thời đại luôn có một mạch nguồn xuyên suốt, đó là tình cảm thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái. Nhiều bản nhạc ấm áp vang lên, như những đứa con bày tỏ lòng biết ơn đối với cha mẹ. Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng cũng là một bài ca hay về tình phụ tử thiêng liêng, sâu nặng, đã là tiếng nói sâu lắng trong lòng người đọc Việt Nam suốt bao năm qua.
Ivory Combs kể về mối quan hệ cha con sâu sắc và nồng nàn giữa ông nội và cô con gái thứ Năm. Một câu chuyện đẹp và buồn, vô cùng xúc động, gợi lên trong lòng bao thế hệ người đọc nỗi xót xa, thương cảm và day dứt khôn nguôi về chiến tranh và sự tàn phá của nó. Những ám ảnh đó dường như in sâu vào lòng mỗi người, khiến chúng ta càng cảm nhận được sự hy sinh của những người lính trong cuộc chiến gian khổ, và biết yêu thương, biết ơn họ. Lời lẽ giản dị, nhẹ nhàng cùng âm vang của nhiều cung bậc tình cảm khác nhau đã làm cảm động sâu sắc tình cha con giữa ông và con trai mình. Phải chăng đó là sức nặng của sự ám ảnh về tình phụ tử thiêng liêng, từng câu từng chữ sâu nặng, đập vào tim người đọc còn mãi kết tủa, day dứt?
Ngay từ đầu truyện, người đọc có thể cảm nhận sâu sắc tình yêu thương nồng nàn của ông dành cho con trai Lưu. Một người lính từng trải qua khói lửa chiến tranh, sương gió núi rừng, gương mặt lạnh lùng, ý chí thép nhưng trái tim người cha vẫn ấm áp. Vì vậy, khi nghĩ đến việc nhìn thấy con trai, ông đã “lo lắng”. Vội vàng: “Không đợi thuyền chạm bờ, tôi đã chồm lên đẩy thuyền ra”, “Dang một bước dài, dừng lại, kêu lớn: “Cầu! “Con ơi”, khắc họa rõ nét nỗi nhớ nhung, mong mỏi của người cha, tiếng gọi con đầu tiên như bùng nổ tình yêu thương bị kìm nén bao năm, hình ảnh “vết sẹo dài bên má phải đỏ ửng, giật giật… ” là một màn trình diễn cực kỳ Cảm Xúc. Tôi đã suy nghĩ mệt mỏi về từ “Cha” trong nhiều ngày. Tôi muốn vỡ òa, nhưng dường như cũng bị kìm nén bởi quá nhiều cảm xúc. Tôi nghẹn ngào và phát ra “giọng run”: ” Bố đây rồi” Nhưng khi con gái không đáp lại trong vòng tay của ông, “tái mặt tái nhợt rồi bà bỏ chạy”, nỗi nhớ nhung, hạnh phúc và sự kỳ vọng lớn lao càng khiến ông thêm đau đớn. Cả bầu trời như sụp đổ trước mắt cha. Nỗi đau đớn, thất vọng khiến Trái tim ông như nghẹt thở, ông “đứng đó nhìn con, khuôn mặt đau đớn đáng thương, cánh tay thõng xuống như gãy”.
Không nản lòng, trong ba ngày ở nhà, Lưu Diệp dành tất cả tình yêu thương cho bé. Anh tốt bụng, dịu dàng và chăm sóc em bé. Trước sự từ chối ngoan cố của con gái, người cha vẫn rất kiên trì và nhẫn nại. Đó chính là sự bao dung của người cha, là mong muốn “được nghe tiếng gọi của con gái là cha”. Rồi yêu quá sâu, bị Thurse kiên quyết từ chối, như bị ép buộc khiến anh không thể bình tĩnh, “tát cho cô một cái tát” và gào lên: ”Sao em cứng đầu thế? “Ông nội đánh con trai vì tức giận, vì đau đớn và bất lực. Không thể dành nhiều thời gian cho con, bà vẫn không chịu thừa nhận. Ông đang kìm nén dục vọng quá mạnh, nhưng chung quy lại là điều đó. Nó dày vò tâm trí ông và trở thành nỗi đau lúc về già khi phải xa con cháu.
Vào giây phút cuối cùng ở nhà, nhìn thấy con gái và nhận ra cha mình, người cha cảm thấy nhẹ lòng. Lúc chia tay, anh đã rất cố gắng kìm nén lòng mình, kìm nén cảm xúc. Ông cũng “muốn ôm hôn nó nhưng sợ nó vùng vẫy chạy thoát nên đành đứng nhìn”. Chỉ cần nhìn thấy con trai mình ở đó, anh ấy cảm thấy nhẹ nhõm hơn một chút. Bao nhiêu yêu thương anh dồn hết vào đôi mắt – “đôi mắt dịu dàng và buồn”. Đôi mắt ấy không chỉ thể hiện tất cả tình yêu thương tha thiết dành cho con mà còn thể hiện nỗi nhớ mong bị kìm nén, nỗi buồn chia ly, nỗi đau bị từ chối. Thế rồi, mọi thứ như nổ tung với tiếng kêu “ba…a…a…ba” đầy bất ngờ của đứa bé!. Sáu niềm khao khát đã gọi anh, những niềm khao khát, những tiếng đã mất từ lâu khiến trái tim anh vỡ òa trong hạnh phúc. Khoảnh khắc tiếng sét ái tình vang lên, nhịp tim của người đọc cũng sẽ tăng tốc. Anh Liu “không kìm được xúc động” và “một tay bế con, tay kia lau nước mắt”. Nước mắt tuôn rơi vì tình yêu cháy bỏng của người cha.
Có thể nói Ruan Guangsheng đã rất tài tình khi thể hiện vai diễn Jin Mr. Toàn bộ câu chuyện của người lính ấy gắn liền với sự thể hiện tình yêu thương của anh dành cho đứa con. Từ động tác đến chi tiết miêu tả ngoại hình và tâm trạng. Vì vậy, trong tâm trí người đọc, hình ảnh người con trai thứ sáu hiện lên hình ảnh tình yêu sâu nặng và cháy bỏng của ông dành cho con trai mình. Những ngày tháng trên chiến trường, tình thương con của ông dồn hết vào việc đan lược cho con. Theo dõi quá trình làm lược của ông Lưu, từ vẻ mặt “phấn khởi” khi nhặt được chiếc ngà voi, đến sự tỉ mỉ khi ngồi mài chiếc lược “như thợ bạc”, mới cảm nhận được tình yêu sâu sắc của ông. Dòng chữ trên lược “Yêu, Nhớ, Hiến, Thu con” thể hiện trọn vẹn tình yêu thương của người cha dành cho cô con gái thân yêu trong gia đình. Chiếc lược ngà đã “xếp lại những xúc cảm của anh”. Lời hứa của anh ấy với bạn đã được thực hiện. Chiếc lược chính là chỗ dựa tinh thần khi chàng nhớ bạn. Đó là kỷ vật cuối cùng về tình yêu sâu sắc của ông dành cho con trai mình, và ông ước mình có thể trao nó cho con gái mình. Chiến tranh tàn khốc đã biến điều ước của ông trở thành hiện thực, và chiếc lược này sẽ là minh chứng cho tình yêu của ông dành cho những đứa con của mình.
Tình yêu của anh ấy dành cho trẻ em thật sâu sắc. Nhiều cảm xúc của anh được bạn đọc thấu hiểu và chia sẻ. Trong chiến tranh, được nghe tiếng con gọi “Bố ơi”, được tự tay trao cho con món quà nhỏ, được ôm con trong tay và những điều tưởng chừng như bình dị khác cũng trở thành ước mơ của bao người, và cũng trở thành ước mơ của nhiều người. Mọi người. Họ như ông Sáu đã không đạt được điều ước đó. Nhưng cũng chính giữa khói lửa chiến tranh, tình cảm thiết tha và tấm lòng của người cha mới được thể hiện trọn vẹn. Nó ở lại trong trái tim của chúng tôi mãi mãi.
Sức ám ảnh của truyện ngắn Chiếc lược ngà được tạo nên bởi nội dung của truyện. Ngòi bút của Nguyễn Quang Sáng rất tinh tế từ cách thể hiện cảm xúc, cách xây dựng tình huống truyện, cách chọn từ, tất cả đã làm tăng thêm sức sống cho câu chuyện.
Tác phẩm kết thúc nhưng tình phụ tử ấm áp, thiêng liêng và cao cả sẽ mãi là ngọn lửa sáng ngời, sưởi ấm trái tim người đọc.
Phân tích tính cách ông Sáu – Mẫu 5
Có thể nói anh là một người cha yêu con vô bờ bến. Ông đã anh dũng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Ngày chia tay đất mẹ, đặt chân vào chiến trường, đứa con gái út của anh mới tròn một tuổi. Bảy năm đằng đẵng chiến trường đã khơi dậy trong anh niềm khao khát được gặp lại vợ con, được nghe anh gọi lại tiếng “Bố”. “Tàu vào bến, thấy một cậu bé khoảng tám tuổi, tóc dài chấm vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi trong chòi dưới bóng cây xoài trước sân, đoán là tôi, chờ không được Khi xuồng cập bến, anh chồm lên đẩy xuồng làm tôi vấp ngã, anh sải bước vội vã rồi khựng lại kêu: “Thứ Năm! Cậu!”.
Nhưng trước tình cảm đó, cô con gái bé nhỏ của anh đã xa lánh, nghi ngờ anh, không chịu gọi “ba”. Tuy nhiên, trong 3 ngày nghỉ, anh luôn cố gắng dỗ dành, dỗ dành con trai. Anh quan tâm và yêu thương nó. Trong bữa ăn, anh gắp một miếng trứng cá vàng, nhưng bất ngờ làm rơi miếng trứng ra khỏi bát. Vì quá tức giận nên ông đã đánh nó, nhưng chính hành động đó đã hành hạ ông cho đến tận sau này.
Sau ba ngày nghỉ phép, trước khi trở lại chiến trường, hắn muốn ôm hôn nó nhưng lại sợ nó vùng vẫy chạy thoát nên chỉ biết đứng chôn chân tại chỗ, nhìn nó bằng ánh mắt trìu mến mà xót xa. Khi con trai bất ngờ chạy đến, ôm chặt lấy anh và gọi “bố”, anh đã không kìm được xúc động. Đó là “quán bar” mà anh đã chờ đợi. Anh một tay ôm chặt con, lấy khăn lau nước mắt cho con, hôn lên tóc con. Không có gì cảm động hơn cuộc chia ly giữa hai cha con. Tiếng “ba a” của em bé không chỉ làm bố xúc động mà còn xé toạc trái tim của mọi người như một tiếng hét xé tan sự im lặng.
Trở về chiến trường nhớ lời hứa với con ngày nào ông sẽ làm cho con gái chiếc lược ngà xinh xắn. Hãy cầm lấy chiếc lược, anh ấy muốn gặp lại bạn. Chiếc lược ngà đã trở thành vật báu đối với ông sáu. Nó xoa dịu nỗi đau chiến tranh, chất chứa quá nhiều tình cảm cha con sâu nặng. Nhưng rồi ông chưa kịp trao chiếc lược cho bé Thu thì đã hy sinh trong trận đánh ác liệt. Đến giây phút cuối cùng, tình cha con bỗng nóng lên, Người đút tay vào túi, trao chiếc lược ngà cho người đồng đội và ra đi mãi mãi.
Một người cha nơi chiến trường bảy năm đợi con, một người cha chỉ muốn một lần được con gọi là “ba”, một người cha hết lòng yêu thương con gái nhưng luôn nằm lại nơi chiến trường. Chiến tranh thực sự quá tàn khốc với tất cả mọi người. Chiến tranh đã cướp đi sinh mạng của biết bao người dân vô tội và để lại bao gia đình lâm vào cảnh mất cha, mẹ. Cái giá mà chiến tranh để lại sẽ mãi in sâu vào lòng mỗi người.
Guangsheng Ruan đã tạo nên hình tượng người cha đẹp đẽ nhờ nghệ thuật dựng truyện độc đáo, miêu tả nội tâm nhân vật sắc sảo và tình cảm chân thành. Có vẻ như ông cũng là một nhân vật tiêu biểu cho nhiều thế hệ cha ông thời bấy giờ. Họ sẵn sàng bảo vệ tổ quốc vì lòng yêu nước, bỏ lại những người thân yêu của họ và chết một cách anh dũng.
Câu chuyện này cũng là một bản cáo trạng mạnh mẽ về tội ác chiến tranh đối với biết bao người dân vô tội. Điều này cũng chứng tỏ rằng, đạn pháo của chiến tranh dù tàn khốc, ác liệt đến đâu cũng không thể dập tắt được tình cha con thiêng liêng trong trái tim mỗi người lính. Từng câu chữ đều mang giá trị đích thực và nhân văn, làm nên kiệt tác “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sinh và danh tiếng của ông.
Truyện “Chiếc lược ngà” và hình ảnh ông Sáu gợi lên trong lòng chúng ta ý nghĩa của bao hi sinh, hạnh phúc trong cuộc đời do xương máu của cha ông bao đời tạo nên. Và bài học “uống nước nhớ nguồn” càng thấm thía.
Phân tích tính cách ông Sáu – Văn mẫu 6
Nguyễn Lượng Sang là nhà văn chuyên viết về cuộc sống và con người miền Nam trong hai cuộc kháng chiến và sau hòa bình. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” ra đời năm 1966, đó là thời kỳ khó khăn, đau thương nhất của đồng bào miền Nam trong suốt 30 năm chiến tranh. Truyện thể hiện tình cha con sâu nặng, đẹp đẽ giữa khói lửa chiến tranh. Điều đọng lại trong lòng người đọc khi cảm nhận câu chuyện chính là ấn tượng khó phai về nhân vật Lưu Công Tử. Ông là người cha, người lính chịu nhiều gian khổ nhưng có tình phụ tử thiêng liêng sâu nặng.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” xoay quanh cuộc gặp gỡ giữa ông Thứ và ông Sáu. Khi anh đi kháng chiến, đứa bé chưa đầy một tuổi. Tám năm hai cha con chỉ gặp nhau qua hai tấm ảnh. Kỳ nghỉ ba ngày của cậu con trai sáu tuổi là cơ hội hiếm hoi để ba đứa trẻ gặp gỡ và bày tỏ tình cha con. Nhưng đứa bé không chịu nhận bố vì vết sẹo trên má khiến anh khác hẳn đứa trẻ trong ảnh. Khi tôi nhận ra điều đó cũng là lúc bố tôi ra đi để tiếp tục chiến đấu. Lần gặp gỡ đó là lần đầu tiên, duy nhất và cũng là lần cuối cùng giữa hai cha con. Mạch truyện thực sự rất khó xử. Những câu chuyện như vậy không phải là hiếm trong chiến tranh. Điều đáng nói là chính trong hoàn cảnh đó, tính cách đứa trẻ tám tuổi và tình cha con sâu nặng được tác giả thể hiện một cách sâu sắc.
Tình yêu thương của anh dành cho cô con gái út được thể hiện một phần trong những chuyến thăm gia đình. Trên đường về quê thăm người thân, anh đầy cảm xúc: tình cha luôn vỡ vụn trong lòng. Sau bao nhiêu năm ở chiến khu, cuối cùng cha tôi cũng có thể về nhà. Niềm khao khát cháy bỏng trong lòng anh là được gặp con, được nghe con gọi cha, được sống trong tình cha con đã xa cách từ lâu. Nhưng mọi thứ đã đảo lộn. Trước khi kịp xuống bến, anh ta đã nhảy lên bờ và đẩy ca nô ra khỏi đường. Ông khao khát gặp lại các con, khao khát được ôm lấy những giọt máu thịt của mình sau bao năm xa cách. Đây cũng là điều đương nhiên. Anh đã xa con gái và gia đình trong tám năm. Tám năm là quá dài để níu kéo trái tim bạn. Cuối cùng, nỗi nhớ được tiết lộ. Khi nhìn thấy đứa trẻ chơi ở sân trước, anh ấy đã gọi đứa con thân yêu của mình từ tận đáy lòng: Hãy đến đón tôi! Bố ở đây! Đây là bố của tôi. Sau bao năm xa cách, tiếng thổn thức từ trái tim người lính của người cha đã chạm đến trái tim người đọc Nhưng ngỡ ngàng, người con cứ ngỡ mùa thu sẽ đến ôm lấy ngày chia tay Nhưng không, khi ông nhìn thấy: “Con thơ nhìn nó với ánh mắt bối rối, rồi sợ hãi bỏ chạy”, anh vừa ngạc nhiên vừa thất vọng khiến anh thẫn thờ, thất vọng và rơi vào tuyệt vọng.
Tuy nhiên, tình yêu thương của người cha đã khiến anh trải qua cú sốc ngay giây phút đầu tiên, cái khoảnh khắc “mặt mũi tiều tuỵ đáng thương, hai tay buông thõng như đứt lìa” mà anh vẫn một mực đòi được gần con. . Những ngày ở bên tôi, trong kỳ nghỉ ba ngày ngắn ngủi, anh suốt ngày ở bên tôi không bao giờ đi đâu xa, suốt ngày chỉ biết an ủi. Anh ấy đã thử mọi cách có thể để nghe thấy âm thanh “ba”, nhưng không thành công. Khi mẹ cô ấy yêu cầu Thứ Năm gọi cho bố cô ấy ăn tối, cô ấy đã dọa đánh cô ấy để cô ấy có thể gọi cho bố một lần. Rỗng ngày thứ năm: “Tôi gọi mà người ta không nghe”. Từ “người” trong miệng khiến anh cảm thấy đau lòng và đau khổ. Nó thậm chí không yêu cầu thoát nước. Ông dở khóc dở cười, cuối cùng cũng phải cười, không giận con trai. Thật vậy, ông là một người cha tốt bụng và bao dung, chịu đựng mọi bất hạnh. Trong bữa ăn, người cha vì thương con mà cho lũ trẻ một quả trứng cá to vàng óng, tưởng bọn trẻ sẽ nhận, không ngờ bọn trẻ lại bất ngờ ném trứng ra khỏi chén. Nỗi đau dồn nén 3 ngày tràn ra, anh tức giận đến mức đánh con, đánh mất hy vọng cuối cùng là làm cha. Lúc đó anh đau lắm. Lòng anh như sa mạc khô cằn chờ đợi hơi mát của tình yêu, còn đứa con sống với anh vẫn chỉ là niềm mong mỏi, bởi đứa con bỏ xứ ra đi không một lời xin lỗi. Qua đây ta mới hiểu được những tổn thất to lớn của người lính trong Kháng chiến
Về cơ bản: Anh ta hối hận vì đã đánh con trai mình. Còn nhớ lời mẹ dặn “Bố về rồi! Bố mua cho con chiếc lược nghe lời bố”, đây là mong ước giản dị của cô bé lúc bố nói lời chia tay. Nhưng với người cha ấy, đó là tâm nguyện đầu tiên và duy nhất. Vì vậy, cứ khuấy động trong lòng. Tìm chiếc lược cho con trai đã trở thành trách nhiệm của người cha, kêu gọi tình yêu của người cha trong trái tim mình. Từ đó, chiếc lược ngà đi vào câu chuyện, trở thành nhân chứng thầm lặng cho sự thiêng liêng, bất diệt của chế độ gia trưởng. Anh ngồi dậy, như thể chợt nảy ra một ý tưởng: làm một chiếc lược trẻ em bằng ngà voi. Có lẽ không chỉ vì ở trong rừng rậm của một khu vực chiến tranh, anh ta không thể mua được một chiếc lược. Làm một chiếc lược bằng ngà voi là một giải pháp khó khăn. Nhưng cao hơn và sâu xa hơn thế, ngà voi là một thứ quý hiếm – thứ chắc chắn phải được làm bằng chiếc lược của con bạn. Hơn nữa, thay vì mua nó, anh ấy muốn tự làm nó. Tôi sẽ ném tất cả cha tôi vào đó. Khi lấy được một chiếc ngà voi, anh ta vui mừng như một đứa trẻ, “mặt anh ta hớn hở như đứa trẻ được quà”. Những ngày sau đó, để làm nên chiếc lược, bao nhiêu tình cảm yêu thương con dồn hết vào đó. Ông dày công “săm soi từng chiếc lược cẩn thận, tỉ mỉ, cần mẫn như thợ bạc”, để chiếc lược làm xong còn khắc dòng chữ nhỏ “Thương nhớ tặng bố các con”… Khi tôi Nhớ các con, tôi mang theo chiếc lược dành cho tóc nhuộm để cho chiếc lược bóng mượt. Tình yêu dành cho trẻ em đã biến người lính thành một nghệ sĩ – một nghệ sĩ chỉ sáng tác một tác phẩm trong đời. Thế mới biết, tình cha giản dị mà trìu mến cô đọng trong chiếc lược ngà, giản dị mà cao đẹp biết bao! Chiến tranh đau thương khiến ông không thể trở về với con gái mình. Anh ta chết trong một cuộc tập kích bất ngờ, trước khi chết, “dường như chỉ có cha và con là không thể chết”, anh ta bất lực, và sức lực cuối cùng chỉ còn lại cho anh ta. Lược, cho đồng chí thân, cho bạn thấy lâu dài. Nhưng nó là một di vật không lời, rõ ràng và thiêng liêng hơn một di chúc. Vì đó là sự tin tưởng, là tâm nguyện cuối cùng của người bạn thân: được làm cha là tâm nguyện cuối cùng! Kể từ đó, chiếc lược ngà trở thành vật kỷ niệm, biểu tượng thiêng liêng của chế độ gia trưởng. Những dòng cuối của câu chuyện kết thúc thật buồn, nhưng lại chứa đầy ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Sau khi đọc truyện chiếc lược ngà, em thấy tình cha con đặc biệt là tình cảm gia đình là một tình cảm cao quý. Tuổi trẻ chúng ta ngày nay sống trong hòa bình không thể không nghĩ đến sự hy sinh của những người đàn ông như anh. Phải sống và làm việc sao cho xứng đáng với những tình cảm cao quý đó. Đây cũng là truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn” cần được kế thừa, gìn giữ và tiếp nối.
Phân tích tính cách ông Sáu – Mẫu 7
Nguyễn Quang Sang là một nhà văn Nam Bộ nên trong thơ ông có chất hồn hậu, chân chất thấm đẫm một người có dáng vẻ của người Nam Bộ. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được sáng tác vào năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ ở chiến trường miền Nam đang trong giai đoạn ác liệt và bi tráng. Trong không khí chiến tranh, tác giả đã làm nổi bật tình cha con trong truyện ngắn, gây xúc động mạnh cho người đọc. Giữa các nhân vật trong truyện ngắn, hình ảnh người cha, người ông ngoài đời thường khiến người đọc cảm thấy giản dị mà cao đẹp, tình yêu thương của ông dành cho đứa con thơ đã chạm đến trái tim người đọc.
Lên chiến trường anh mới sáu tuổi, khi đi nghỉ về, lòng anh thắt lại vì biết sắp được gặp con gái, mà khi anh ra đi, con gái chị mới hơn một tuổi. . Vì vậy, lần trở lại này sẽ không tránh khỏi cảm giác hồi hộp và mong chờ. Có lẽ, tình cha con thiêng liêng đã khiến ông nhận ra đứa bé ngay từ cái nhìn đầu tiên khi thuyền vừa cập bến, đó là một đứa trẻ khoảng chín chục tuổi đang chơi đùa dưới gốc xoài. Niềm xúc động, vui sướng khiến anh nghẹn ngào gọi tên con: “thu!con”. Sự thiếu kiên nhẫn và tâm trạng của anh ấy là hoàn toàn dễ hiểu. Đối với người cha, sau 8 năm xa cách và chia tay đứa con gái thân yêu, được gặp lại con không chỉ là niềm vui đoàn tụ mà còn là niềm hạnh phúc vô bờ bến.
Tuy nhiên, niềm vui ấy dường như chẳng kéo dài được bao lâu, bởi ngay sau đó, khi anh “đi đến dang tay chờ em” thì em bé đã không còn chạy lại ôm anh như trước nữa. . Tưởng tượng mà trẻ vẫn “mắt tròn mắt dẹt”, biểu cảm “lạ lùng, sững sờ”. Cảm xúc khiến vết sẹo trên mặt anh “co giật” một cái, giọng nói run run không kìm được cảm xúc: “Tôi đây! Bởi vì sốt ruột, biểu cảm có chút vội vàng, vết sẹo đỏ trên mặt kịch liệt run lên, dọa người Đứa bé hoảng loạn Bé vừa chạy vừa hét toáng lên: “Mẹ ơi! “.Thursday là một đứa trẻ. Trước mặt người lạ, vết sẹo trên mặt khiến anh có chút sợ hãi, anh có thể hiểu được sự hoảng sợ của đứa bé.
Nhưng vì quá kỳ vọng vào sự đoàn tụ hạnh phúc này nên khi đứa bé không chịu nhận, sợ hãi bỏ chạy, anh đã “sốc, đau và thất vọng”. Nhà văn Ruan Guangsheng đã miêu tả rất xúc động nỗi đau của người cha bị con chối bỏ: “Đau đến mặt ông đen lại… hai tay rã rời, như đứt lìa”. Niềm vui khi gặp lại con gái khiến người cha vô cùng xúc động, muốn ôm con gái vào lòng bằng tất cả tình cảm mà ông đã tích lũy bao năm qua nhưng cậu con trai quá sợ hãi nên đã từ chối. Đây chẳng phải là khoảng thời gian đau đớn và tuyệt vọng nhất của người cha hay sao?
Hai ngày nay ở nhà, anh không dám đi đâu xa, chỉ loanh quanh, cố gắng đến gần đứa trẻ, mong chờ đứa trẻ ra đời. Tuy nhiên, sự thật đã xảy ra khiến anh vô cùng đau xót, đứa bé không những không nhận anh mà thậm chí anh còn không thèm quan tâm, tôn trọng một chút nào. Khi mẹ sai bố gọi bố xuống ăn tối, bé Thu cũng gọi bố một cách cộc lốc, sáo rỗng chỉ vì bố phải nói: “Bữa tối đã sẵn sàng”. Lúc này, anh cười. Tuy là một nụ cười, nhưng nụ cười này sao lại thê lương như vậy, còn mang theo sự thất vọng, bất lực và đau lòng của người cha. Vì dù ông có cố gắng thế nào cũng vô ích, và đứa con gái ruột yêu dấu của ông luôn từ chối, thậm chí phủ nhận sự tồn tại của ông.
Dù buồn nhưng anh không ngừng làm việc chăm chỉ, quan tâm, lo lắng cho em bé. Khi cả nhà đang ăn cơm, vì thương con, ông đã đặc biệt gắp một miếng trứng cá to nhất, ngon nhất cho con. Nhưng đáp lại lòng tốt đó là sự từ chối kịch liệt của cô ấy, thay vì nhận nó, cô ấy thậm chí còn dùng đũa đập vỡ quả trứng. Vì quá tức giận nên ông đã đánh con trai mình. Đánh con càng khiến người cha đau lòng hơn. Vì hành động bốc đồng này, khi anh ta hy sinh bản thân, anh ta vẫn còn hối hận. Cho đến giờ phút chia tay, trên đường vào chiến trường, ông vẫn còn “nỗi sợ hãi kéo dài” không dám chạy lại ẵm con, sợ con hoảng sợ. Anh chỉ biết ngước lên nhìn “buồn thiu”. Nhưng không ngờ, vào giây phút cuối cùng, khi sắp nói lời chia tay, anh đang hạnh phúc quá lại ngã quỵ vì tiếng “b..ba..” bất ngờ của đứa con thứ năm. Anh sững người một lúc, lại không kìm được cảm xúc, người đàn ông một tay bế con, tay kia lau nước mắt. Có thể nói đây là món quà ý nghĩa nhất mà anh nhận được trước khi lên đường.
Bước chân vào chiến trường, không giây phút nào ông thôi nghĩ đến con, vì đã hứa mua cho con chiếc lược nên khi nhặt được một chiếc ngà voi, ông mừng như nhặt được một vật lớn. Sau đó, anh cũng tự tay làm món quà này cho con trai mình. Trên chiếc lược, anh còn khắc đầy tình yêu thương: “Yêu, nhớ, cho, nhận nuôi con”. Trong lúc chiến đấu, trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, ông nhớ đến đứa con trai của mình. Anh dùng hết sức lực, lấy ra một chiếc lược, trao cho cha mình, người đồng đội thân thiết này và cũng là người anh tin tưởng nhất lúc này. Anh không thể phủ nhận điều gì, chỉ biết nhìn cha mình. Cái nhìn đó nham hiểm và thiêng liêng hơn ý chí. Khi nhận được lời hứa của cha: “Con sẽ mang về cho cha”, anh đã nhắm mắt bước đi. Khi ông mất, kỷ vật là chiếc lược ngà chứa đựng tình yêu thương của ông dành cho con cái và vẫn còn cho đến ngày nay. Trái tim người cha dành cho con vẫn bao la và đau đáu như thế cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Biên kịch Nguyễn Quang Sinh đã khắc họa một cách sống động và chân thực hình ảnh người cha vĩ đại và tình yêu thương con cái sâu sắc qua vai diễn người con trai thứ sáu. Nó cũng chạm đến trái tim của mỗi độc giả. Tôi tin rằng sau khi đọc tác phẩm này, nhiều độc giả sẽ nghĩ đến cha mình và cuộc đời mà ông đã hy sinh thầm lặng cho chúng ta. Ta có thể cảm nhận được sự thánh thiện và cao cả ở Người, Người không chỉ dành cho đứa bé những tình cảm tốt đẹp nhất mà còn để lại cho đứa bé một kỷ vật là chiếc lược ngà, để đứa con mỗi khi nhìn vào sẽ nhớ đến cha mình. và biết tình yêu của cha đối với mình sâu đậm như thế nào
Ông không chỉ là người cha hết lòng yêu thương con mà còn là một chiến sĩ cách mạng kiên trung, dũng cảm. Anh gắn bó với chiến trường, hàng ngày đối mặt với mưa đạn, chỉ mong Tổ quốc bình an, đồng bào bình an. Ông đã dành gần hết cuộc đời mình cho chiến trận, dù nhớ con nhưng không bao giờ chùn bước, ông vẫn sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hy sinh, hiến dâng non sông cho Tổ quốc bất cứ lúc nào. Có thể thấy, dù thương con nhưng ông cũng biết trách nhiệm lớn lao của mình với đất nước. Vì vậy, anh đã từ bỏ ý định gặp con trai và ôm nó trong vòng tay, và làm tròn trách nhiệm của mình đối với đất nước thân yêu. Anh không chỉ chịu nhiều đau đớn về thể xác trong chiến đấu, hằn lên vết sẹo dài trên mặt mà còn hy sinh cả mạng sống mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Vì vậy, qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, nhà văn Nguyễn Quang Sinh không chỉ đề cao sự thiêng liêng của tình phụ tử, nỗi đau mất mát do chiến tranh mang lại cho mọi người, mà còn cho cả gia đình. Nhưng biên kịch cũng đã khắc họa thành công nhân vật ông Lưu, một người lính cương nghị, một người cha vô cùng yêu thương con cái. Câu chuyện về Lưu Công Tử thực sự khiến người đọc cảm động, bởi hình ảnh quá đẹp, đã chạm đến phần tình cảm sâu thẳm trong lòng mỗi người đọc, đó là tình phụ tử thiêng liêng.
Phân tích tính cách ông Sáu – Văn mẫu 8
Truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sinh đã cảm động sâu sắc về tình cha con thiêng liêng giữa ông Nguyễn Quang Sinh. Đó là một tình cảm cần được tôn trọng, một tình cảm tỏa sáng ngay cả trong khói lửa của chiến tranh tàn khốc. Vai người con trai thứ sáu là một trong những nhân vật trung tâm của vở kịch, qua tìm hiểu vai diễn này ta thấy được tình cảm của một người cha hết lòng yêu thương con gái mình.
Ông không chỉ là người cha nhân hậu mà còn là một người công dân hết lòng vì nước Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ông cũng như bao người yêu nước đã tự nguyện gia nhập binh chủng, nắm giữ quyền tự do và độc lập của đất nước Súng ra trận. Để làm tròn trách nhiệm với đất nước, thực hiện lý tưởng cứu nước, hừng hực tinh thần độc lập dân tộc, Người đã phải xa Tổ quốc, xa gia đình, xa cả đứa con gái nhỏ. Anh chỉ được phép về thăm gia đình khi được nghỉ phép vài ngày.
Về đến nhà, anh vừa hồi hộp vừa háo hức vì sắp được về thăm họ hàng, đặc biệt là Thu, cô con gái bé bỏng mà anh yêu quý. Kể từ khi đứa trẻ được sinh ra, ông Liu đã không nhìn thấy con mình, và không ai quan tâm đến nó, và không ai nuôi nấng nó. Nỗi khao khát được gặp lại con trai khiến anh lo lắng suốt quãng đường về nhà. Xuồng chưa kịp chạm bờ, ông Sáu đã vội nhảy xuống, “… ngồi xổm xuống, đẩy xuồng ra, sải những bước vội vàng…” Đây là một động tác vội vàng, hấp tấp của một người cha. Chờ đợi để nhìn thấy con trai của mình.
Khi nhìn thấy một đứa trẻ đang chơi gần đó, anh ấy chắc chắn đó là con mình nên xúc động gọi tên bạn “thu!con” và đưa tay ra chào. , nhưng ngoài sự mong đợi và hy vọng của anh, anh không biết người đàn ông này gọi anh bằng tên nào. Hơn nữa, vết sẹo lớn trên mặt khiến anh rất sợ hãi, vừa khóc vừa gọi mẹ.
Thấy con trai chạy vào nhà vì sợ hãi, ông rất khổ sở, đầu óc quay cuồng, mặt mày tối sầm, hai tay buông thõng xuống, thật tội nghiệp. Có lẽ, ông nội Sáu không bao giờ ngờ rằng giây phút hai cha con đoàn tụ lại trở nên như thế này, nỗi thất vọng và sự ập đến bất ngờ khiến ông chạnh lòng.
Suốt sáu ngày nghỉ hè, tâm trạng của anh cũng rất phức tạp, vui vì được thăm họ hàng, về quê, thăm họ hàng nhưng cũng xót xa, đau đớn vì con trai không nhận bố. Xiaotu không những không chấp nhận cha mình mà còn đối xử với ông rất lạnh nhạt. Anh ở nhà cả ngày, chẳng muốn đi đâu, suốt ngày tìm cách dỗ dành con. Nhưng sự quan tâm, vuốt ve của ông Sáu không thay đổi được thái độ dửng dưng của Thứ Năm.
Là một người cha, anh luôn cảm thấy có lỗi với đứa con trai của mình, vì không thể ở bên chăm sóc khi nó chào đời, và anh khao khát một lần được nghe thấy tiếng “vạch” của đứa bé. Trước sự phủ nhận và những lời mỉa mai của con trai, ông không hề tức giận mà chỉ lắc đầu cười, nụ cười đó không phải là nụ cười hạnh phúc mà là nụ cười của sự bất lực và bất lực.
Mặc dù rất yêu thương con trai nhưng trong một lần anh quá tức giận đã vô tình đánh cô, đó là món trứng cá muối anh đưa cho cô, cô dùng đũa gắp một miếng trong bát cũng là một củ hành, khiến anh vô cùng đau lòng tiếc rằng dù có chết trận cũng không ngừng hành hạ tra tấn.
Ngày ra đi, dù nhìn thấy con trong góc phòng, dù muốn ôm tạm biệt con nhưng lại sợ con sợ hãi, cự tuyệt nên anh chỉ biết đứng nhìn. nhìn tôi với đôi mắt buồn. Khi sắp lên thuyền, Thu bất ngờ chạy lại gọi bố, ông xúc động ôm chầm lấy cô, lấy khăn tay lau nước mắt và hôn lên tóc cô trìu mến. Có thể thấy, đây là lần đầu tiên anh rơi nước mắt, nhưng đó là những giọt nước mắt hạnh phúc, nước mắt của tình cha con.
Khi anh về hoạt động kháng chiến, chúng tôi vẫn cảm động trước tình cảm của anh dành cho cháu bé. Anh hối hận vì đã vô tình đụng phải con trai mình vì tính khí nhỏ nhen. Trước khi chia tay, chàng hứa khi trở về sẽ tặng nàng một chiếc lược ngà, điều này cho thấy tác giả Nguyễn Quang Sinh đã rất chú trọng đến những chi tiết của chiếc lược ngà này.
Trong lúc đánh nhau, anh ta vô tình lấy được một miếng ngà voi, sau đó anh ta rất vui mừng, hớn hở như một đứa trẻ vừa được quà, loại vui sướng này, loại cảm xúc này được trực tiếp thể hiện trong các chi tiết. : “Từ băng đồng chạy vào rừng sâu, chàng vội trở về, giơ ngà voi cho ta xem. Vẻ mặt mừng rỡ như đứa trẻ được quà.”
Tình yêu sâu nặng của người cha dành cho con được thể hiện trọn vẹn trong quá trình sản xuất chiếc lược, từng chi tiết tỉ mỉ, từng chiếc răng ông cưa ra đều “…tỉ mỉ, như một người. Một người thợ bạc…” Khi ông Làm xong chiếc lược, ông Lưu khắc dòng chữ “Thương con nhớ tặng, nhận con” lên thân lược. Lời văn tuy ngắn nhưng chứa đựng quá nhiều cảm xúc làm ta xúc động.
Mỗi khi nhớ con, ông lại lấy chiếc lược ra ngắm nghía, thỉnh thoảng lại mài cho nó bóng loáng vì không muốn con chải tóc làm nó đau. Chiếc lược trở nên ý nghĩa hơn bao giờ hết, không chỉ là món quà của người cha, mà còn là biểu tượng của tình yêu thương, sự tưởng nhớ của người cha hết lòng yêu thương con cái.
Không kịp trao chiếc lược ngà cho con gái trước khi ra đi như ý muốn, ông đã hy sinh trong chiến trận, đến giây phút cuối cùng của cuộc đời, ông vẫn không nguôi nỗi nhớ con. Bằng chút sức lực cuối cùng, anh rút chiếc lược mang theo bên mình trả lại cho đồng đội. Đây là lời cuối cùng thiêng liêng, tâm nguyện cuối cùng của người cha.
Thông qua hình tượng sáu người con trai, Nguyễn Quang Sinh không chỉ cho chúng ta thấy tình cha con cao đẹp, thiêng liêng như thế nào mà còn cho thấy sự tàn khốc của chiến tranh, sự chia cắt giữa gia đình với con cái. Xa cha, xa vợ. chồng. Tuy nhiên, truyện ngắn cũng là lời khẳng định hùng hồn về tình thân tộc, một tình cảm thiêng liêng không thể bị bom đạn quân thù hủy diệt.
Phân tích tính cách ông Sáu – Văn mẫu 9
Nguyễn Quang Sinh vốn là một người lính hoạt động ở chiến trường miền Nam sau kháng chiến chống Pháp, ông chủ yếu miêu tả cuộc sống và con người miền Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Nhật và sau hòa bình. Chính sự liên kết chặt chẽ này đã giúp ông tạo nên một hình ảnh chân thực và rõ nét về nhân vật Sáu – nhân vật chính trong truyện ngắn Chiếc lược ngà. Truyện này được đánh giá là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Lượng Tăng, khắc họa thành công hình ảnh một phú ông yêu con yêu nước.
Sinh năm 1966, tác giả hoạt động ở chiến trường miền Nam trong cuộc chiến tranh ác liệt chống Mỹ cứu nước và viện trợ cho Triều Tiên, tác phẩm được tuyển chọn từ tập truyện ngắn cùng tên “Chiếc lược ngà”. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất, người kể lại là người bạn thân thiết của anh Bashu nên tác phẩm không những đảm bảo được tính khách quan, chân thực của cách kể chuyện.
Là người dẫn chuyện, người chú dễ dàng bày tỏ cảm xúc, chủ động can thiệp vào các bình luận, làm nổi bật cuộc chiến giữa hai cha con trong một hoàn cảnh khó khăn. Dưới góc nhìn và lời kể của người chú, vai diễn của ông Liu là một người cha trở về quê hương sau 8 năm xa cách vì chiến tranh, nhưng cô con gái Siliu của ông không biết cha mình cho đến khi cô nhận ra cha mình. Và lúc thể hiện tình yêu cũng là lúc hai ba đứa phải chia xa. Trở về căn cứ, ông dồn hết tình cảm, tâm tư để làm chiếc lược ngà tặng con gái, chưa kịp trao thì ông đã anh dũng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc.
Chiến tranh bùng nổ, đất nước lâm nguy, anh Sáu cùng nhiều nam nữ thanh niên xung phong đánh giặc. Ngày anh đi, bé Thứ – đứa con gái anh chưa đầy một tuổi, gần chục năm trong nắng đạn bom đạn, anh chỉ kịp nhìn qua những ánh nhìn hiếm hoi mà vợ anh mang theo mỗi lần mạo hiểm đến thăm con để chụp ảnh. nhìn cô ấy. Người chồng đang ở tiền tuyến.
Có dịp về quê trong những ngày lễ tết, người anh sáu luôn mong mỏi giây phút nhìn thấy con gái: “Tình cha đã gặm nhấm trong người”. Giây phút đầu gặp gỡ, ông chỉ biết con bằng trực giác, nhưng đó là linh cảm của một người cha suốt 8 năm chỉ nhìn thấy con gái mình qua vài tấm ảnh nhỏ, nay trở lại Trung Quốc thăm mẹ. Mong đợi và nhớ nhung: “Đoán là anh, anh ấy nóng lòng chờ thuyền cập bến, nhảy cẫng lên”.
Mong mỏi, mong ngóng, háo hức muốn gặp con: “Anh đi vội vàng chùn bước”, “đi cúi gập người, dang tay chờ con”. Người cha đã chờ đợi bao lâu để được ôm con vào lòng, xúc động nghẹn ngào gọi tên trìu mến: “Qiu! Con”. Tuy nhiên, trái ngược với những gì anh mong đợi, phản ứng đầy luyến tiếc của anh lại là thái độ “bối rối, kỳ quặc” của em bé thứ Năm.
Anh Sáu, vẫn cái “vẻ mặt xúc động ấy”, “tay vẫn đưa về phía trước”, “giọng run run lắp bắp”: “Bố đến rồi!”. Câu văn được lặp lại hai lần thể hiện trọn vẹn niềm mong mỏi, chờ đợi, xúc động của người cha đứng trước đứa con gái nhỏ đã thương nhớ bấy lâu đã chạm đến trái tim người đọc.
Nhưng chính thứ tình cảm đó đã làm cho vết sẹo dài trên má phải đỏ ửng lên, khiến đứa bé sợ hãi: “Mặt bỗng tái mét, rồi vừa chạy vừa la hét”. Nỗi buồn, nỗi đau và sự thất vọng ập xuống người ông “Ông đứng đó, nhìn con, mặt ông đầy đau đớn, hai bàn tay thõng xuống như đứt lìa”.
Về quê, người ta sẽ được sống trong tình yêu thương, cảm nhận được sự chăm sóc ấm áp của gia đình nhưng với anh, sáu ba ngày ở nhà đã trở thành hiện thực. Buồn, buồn. Anh cố gắng xích lại gần để bù đắp sự thiếu thốn tình cảm gia đình sau 8 năm xa cách, “luôn an ủi anh. Nhưng càng vuốt ve, cô ấy càng đẩy ra xa”.
Trước tình thế ngặt nghèo ấy, anh chỉ biết “Vương Tử lắc đầu cười”. Khi quá quắt, người ta còn không khóc được nữa thì có lẽ đành phải cười như thế – nụ cười cay đắng, đau khổ của người cha bị chính con gái mình xa lánh. Xót xa, xót xa là vậy nhưng anh Sáu vẫn luôn quan tâm, chăm sóc cho bé bằng tất cả tình yêu thương của mình. Trong bữa ăn, người anh thứ sáu kẹp một miếng trứng cá vàng lớn cho con trai mình, đây là một hành vi bình thường của một người cha quan tâm đến con cái của mình.
Nhưng Arthur không biết cha cô nên cô cũng từ chối mọi sự quan tâm của Sixth Brother. Anh ta hất quả trứng ra khỏi bát khiến cơm văng tung tóe khắp đĩa, và vì quá tức giận, anh ta đã “dùng tay vỗ vào mông quả trứng và hét lên: – Sao mày ương ngạnh thế hả?”.
Những lời nói và việc làm của anh ấy chỉ là cơn nóng giận nhất thời sau hai ngày không thể kiểm soát được sự tức giận và thất vọng. Nỗi đau thương tưởng như đã qua, chỉ còn một đêm nữa là anh phải trở về căn cứ, xa vợ con.
Cuối cùng, dù không muốn cũng đến lúc phải chia xa. Anh bận thu dọn đồ đạc, còn phải chăm sóc người thân đều đến tiễn anh nên anh không để ý nhiều đến đứa nhỏ. Tuy nhiên, ngay khi anh chuẩn bị rời đi, đứa bé đã chạy đến, ôm lấy cổ anh và gọi người cha đã đợi anh từ rất lâu. Nỗi buồn được thay thế bằng cảm xúc, hạnh phúc. anh ấy khóc. Khóc vì vui, khóc vì hạnh phúc và khóc vì nuối tiếc khi chia tay.
Không muốn con nhìn thấy nước mắt của mẹ, không muốn không khí tiệc chia tay trở nên nặng nề”, anh một tay bế con, một tay rút khăn lau nước mắt cho con tay”. Bản thân anh không muốn rời xa đứa con của mình, nếu thời gian có thể ở lại giây phút này, anh sẽ cảm nhận được tình yêu và sự mong mỏi của con gái dành cho cha mình suốt bao năm qua.
Nhưng tất nhiên đó chỉ là ước nguyện chưa thành, và giọt nước mắt hối hận nhanh chóng được anh lau đi, bởi nếu được nhìn thấy sự yếu đuối đó, cô sẽ không để anh ra đi. Giờ phút chia tay cũng là lúc ông chính thức đoàn tụ với con gái. Buồn, đau!
Anh về căn cứ với tình yêu và lời hứa mua cho con trai chiếc lược ngà Khi nhặt được chiếc ngà voi, anh Lưu vội vàng chạy lại đưa cho tôi xem chiếc lược ngà, mặt anh như được quà Anh vui lắm khi còn nhỏ Lời hứa với con gái sắp được thực hiện, và ông tràn đầy niềm vui.
Trong trận chiến máu lửa khốc liệt, ông càng nhớ thương người con gái của mình. Người em làm chiếc lược với tất cả tình yêu thương và mong muốn được gặp lại anh: “Anh cẩn thận, tỉ mỉ và cần mẫn như một người thợ bạc, xem xét từng chiếc răng trên chiếc lược”. Tất cả tình cảm sâu đậm của ông nằm ở chỗ “ông cúi xuống, tỉ mẩn khắc lên dòng chữ nhỏ từng chữ: ‘Con yêu nhớ gửi bố của con’”.
Với tình yêu và sự khao khát dành cho con trai, Liu Ge chỉ trở thành thợ thủ công một lần trong đời. Chiếc lược ngà do chính tay ông làm ra như để xoa dịu nỗi ân hận của con trai ông vì đã hành hạ, đánh đập bấy lâu nay. Chiếc lược ngà là biểu tượng của tình cha con, tình cha con thiêng liêng, vĩnh cửu và cũng là kỉ vật để lại cho người con gái trước khi hi sinh nơi chiến trường.
Nhà văn Ruan Guangsheng đã khắc họa tính cách của nhân vật chính Liu bằng lối viết giản dị và chân thành, và Liu cũng đóng vai trò quyết định trong sự thành công của tác phẩm. Ông Sáu hiện lên trong một truyện ngắn lay động người đọc, đầy tình thương con thiết tha, mãnh liệt, cũng như tình yêu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Chuyện đã qua, ông Lự mất nhưng chiếc lược ngà sẽ mãi ở bên đứa bé như người cha chăm sóc, bảo vệ đứa con gái của mình.
Phân tích tính cách ông Sáu – Văn mẫu 10
Nguyễn Quang Sinh là nhà văn miền Nam, tác phẩm của ông chủ yếu viết cho con người và cuộc sống miền Nam. Trong số đó, “Chiếc lược ngà” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu được viết ở chiến trường miền Nam ác liệt trong cuộc chiến tranh chống Mỹ năm 1966. Điều đáng chú ý là truyện ngắn này được viết trong hoàn cảnh chiến tranh gian khổ, nhưng trọng tâm là về tình người, đặc biệt là tình cha con mà nhân vật ông Thứ và ông Sáu thể hiện một cách sâu sắc, cảm động nhưng có lẽ là cảm động và ám ảnh. Thậm chí, đối với người đọc, tình yêu của một người cha dành cho con gái của mình có chút ít.
Ông Lưu là một nông dân miền Nam yêu nước, trong kháng chiến chống Nhật, con gái ông chưa đầy một tuổi, mãi đến khi cháu lên tám tuổi ông mới có dịp về quê thăm con. Nhưng Thu từ chối tình yêu của anh vì vết sẹo trên mặt anh không giống người cha mà cô biết trong bức ảnh.
Đến lúc chia tay mới có được tình yêu của người con trai, nhưng giây phút ấy quá ngắn ngủi. Vì nhiệm vụ, anh muốn trở lại chiến trường, anh hứa mua cho bạn chiếc lược rồi lên đường. Chính trong hoàn cảnh ấy, tình thương của ông dành cho con thật sâu sắc và cảm động.
Trước hết, tình yêu của anh dành cho con cái được thể hiện ở một mức độ nhất định trong những lần anh về thăm gia đình. Đến lúc được trở lại “mối cha con trong lòng”, khao khát cháy bỏng trong lòng ông lúc này là được gặp con, mong con gọi bằng cha để có thể sống tình cha con như vậy. Anh đợi lâu quá nên khi xuống xuồng đến bến, thấy một đứa bé chừng bảy, tám tuổi, đoán là không đợi xuồng cập bến, liền nhảy cẫng lên đẩy xuồng ra.
Anh bước những sải chân dài vội vã, rồi dừng lại hét thật to “hãy đón con”, giọng có vẻ xúc động. Nó chất chứa biết bao yêu thương và mong mỏi gặp lại em. Nhưng trớ trêu thay, đứa trẻ lại tỏ ra không tin. Điều này khiến anh vô cùng đau đớn và thất vọng, “mặt anh đen lại, hai tay rã rời vì đau”.
Đặc biệt là mấy ngày ở nhà, anh không dám đi xa, luôn vỗ về con trai, rất muốn nghe cô gọi “ba ơi”, nhưng không được. Đứa con sáu tuổi càng gần gũi với cô, cô càng lạnh nhạt. Anh kiên quyết không gọi anh là “bố” hay để anh húp cạn nồi cơm đang sôi, lúc này anh đau khổ rất nhiều. Anh thương con không vô tình mắng con, anh chỉ “nhìn con lắc đầu nhẹ và mỉm cười”.
Nụ cười lúc này không phải là hạnh phúc mà là đau lòng “Có lẽ vì khóc quá đau khổ nên mới phải cười như vậy. Sự thiếu cảm xúc của anh chính là bi kịch chiến tranh khiến khuôn mặt anh có vết sẹo”. vết sẹo dài”, Vì vậy, cô ấy trông không giống người mẹ trong ảnh.
Ông vẫn không chịu thua, vẫn thấy thương con nhưng càng hạ quyết tâm thì con trai càng phản ứng dữ dội, ngược lại, ông lập tức “cầm đũa nhìn vào bát, ném trứng cá ra, cơm văng tung tóe”, nhưng lúc này lại bị con trai bác bỏ hoàn toàn. Vì quá thất vọng nên anh không kịp suy nghĩ” Anh vỗ vào mông nó và hét lên “Sao mày ương ngạnh thế”. Tình yêu của anh dành cho đứa con trở nên bất lực.
Lúc chia tay, ông cũng muốn ôm hôn con nhưng sợ con không chịu bỏ chạy nên chỉ nhìn con bằng ánh mắt trìu mến và xót xa, nhưng mối tình trước là chưa kết thúc. Tình cảm gia đình bền chặt, khi cô gọi “bố”, anh thực sự cảm động. Không kìm được cảm xúc, không muốn con nhìn thấy mình khóc, anh một tay ôm con, một tay kéo khăn lau nước mắt, hôn lên tóc con. Những giọt nước mắt của anh lúc này không phải vì đau khổ mà là “những giọt ngọc” rơi trên niềm hạnh phúc của một người cha hết mực yêu thương con.
Tình cảm yêu thương của anh được thể hiện tập trung và sâu sắc ở nửa sau của truyện, khi anh trở lại chiến trường. Sau khi chia tay gia đình, anh rất nhớ con trai. Lúc đó ông giận quá đã đánh con và cảm thấy rất day dứt, về sau, lời dặn dò của con trai: “Bố về mua cho con một chiếc lược nghe con” đã khiến ông nảy ra ý định làm một chiếc lược cho con. bằng ngà voi.
Khi lấy được chiếc ngà voi, ông vui mừng đến nỗi “mặt hớn hở như đứa trẻ được quà”. Thế đấy, khi một người “làm” con, tức là khi một người thể hiện tình phụ tử cao cả của mình, thì anh hết lòng chải chuốt “Những lúc rảnh rỗi, anh săm soi tỉ mỉ từng chiếc răng, cố gắng như một người thợ bạc”.
Mặt sau chiếc lược có khắc một dòng chữ, nhớ từng nét ông quỳ xuống khắc cốt ghi tâm “Thương, nhớ, biếu, thu con ơi”, chiếc lược ngà đã trở thành kỷ vật thiêng liêng của ông Sáu là kết tinh tình yêu của cha. Tình yêu sâu lắng và im lặng. Nó làm dịu đi nỗi tiếc nuối, đồng thời cũng chất chứa biết bao yêu thương, nhớ nhung của người cha đã đi xa “Chiếc lược chưa chải xong tóc con nhưng dường như đã phần nào giải tỏa được tâm trạng của cha…
Nhớ những đêm bên con, mẹ lấy chiếc lược ngà ra săm soi, chuốt lại cho tóc bóng mượt. Tình yêu con kết tinh trong chiếc lược ngà ấy đã biến người cha nghệ nhân thành nghệ nhân, sáng tác ra một tác phẩm duy nhất trong đời.
Nhưng một lần nữa anh lại rơi vào hoàn cảnh éo le, anh bị trúng đạn của kẻ thù. Đến giây phút cuối cùng, không giữ được gì, anh đút tay vào túi, lấy ra chiếc lược cho ba đồng đội trên tay, nhìn bạn thật lâu, như thể ước nguyện đã được toại nguyện. Cha mãi mãi. Ông nội thứ sáu đã hy sinh, nhưng tình yêu của người cha trong trái tim anh là bất tử, và tình yêu của người cha sẽ luôn thiêng liêng và bất tử.
Nhân vật ông nội và sáu người cha giàu yêu thương con cái để lại cho người đọc nhiều cảm phục, một phần do cách khắc họa của Nguyễn Quang Sinh.Trước hết, tác giả đã đặt nhân vật này vào một tình huống truyện bất ngờ cho nội tâm nhân vật được bộc lộ, tác giả chọn người kể chuyện là người bạn thân của mình, để người kể không chỉ là nhân chứng khách quan của câu chuyện mà còn thể hiện sự cảm thông, chia sẻ đối với nhân vật. Anh Sáu.
Có thể nói, chiến tranh đã hơn 30 năm trôi qua nhưng hình ảnh sáu người quân tử và câu chuyện “chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sinh vẫn còn đọng lại nhiều dư âm trong lòng người đọc. Câu chuyện ấy không chỉ thể hiện tình cảm cha con sâu nặng, nhất là tình thương con, mà còn gợi cho người đọc những đau thương, mất mát do chiến tranh gây ra cho biết bao gia đình, dòng họ và nhân dân. Từ đó, ta thêm trân trọng và giữ gìn tình phụ tử cao đẹp, đồng thời ta thêm trân trọng cuộc sống êm đềm mà ta được hưởng hôm nay.
Phân tích tính cách ông Sáu – Văn mẫu 11
Có thể coi “Chiếc lược ngà” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sinh, ông đã viết về tình cha con và nỗi đau do quân đội gây ra trong chiến tranh rất cảm động và chân thực. Kẻ thù đã gieo mầm cho thời đại chống Mỹ. Anh ta được miêu tả là một trong những nhân vật thể hiện sâu sắc các chủ đề mà tác giả truyền tải.
Ông Lưu là một nông dân Nam Bộ yêu nước, từng tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ác liệt và đã anh dũng hy sinh. Ông Lưu đi đánh giặc từ năm 1946, hòa bình lập lại năm 1954, ông chỉ được về quê mấy ngày.
Ngày anh xuất ngũ, đứa con gái nhỏ thân yêu của anh mới một tuổi, khi trở về đã tám chín tuổi rồi. Đó dường như là mong ước của một người lính đã sống và chết xa quê hương lâu ngày, được trở về quê hương và gặp lại vợ con thân yêu của mình. Đặc biệt là khi tôi nghe con tôi nói “ba”, thậm chí một tiếng cũng không đủ.
Thật vậy, đó là bi kịch của chiến tranh, không chỉ khi anh mới sáu tuổi. Và khi chia tay vợ con lần thứ hai để bước vào trận chiến mới, anh vừa trải qua giây phút hạnh phúc khi cô con gái ngây thơ “nhận ra” bố và gọi thật to: “Ba…ba!”. Anh rất thích thú khi được bế con trai, như thể “lấy khăn lau nước mắt và hôn lên tóc con”.
Nói chính xác hơn, ông ra đi với nỗi nhớ vợ con khôn tả. Chiến tranh tàn khốc, bom đạn quân thù đã làm thay đổi diện mạo của anh. Có lẽ đó là vết sẹo dài trên má phải của anh ấy—một vết thương trong trận chiến. Chấn thương tàn khốc của chiến tranh cũng khiến đứa con gái yêu dấu, như một đứa trẻ thực sự, không còn nhận ra khuôn mặt của cha mình.
Có lẽ ông cũng chết, mang theo hình ảnh vợ con và hứa sẽ lấy lại cho con gái chiếc lược mà ông cũng đã làm cho con. Tôi có thể thấy rằng sự hối hận kéo dài kèm theo “tại sao tôi lại đánh bạn” dường như sẽ dày vò anh ấy mãi mãi. Có thể thấy, đó là nỗi đau, nỗi nhớ nhung, mất mát mà kẻ thù mang đến cho ông… và cho biết bao người lính, những người mẹ, người con trên khắp mọi miền đất nước. Bình tĩnh lại đi.
Chính sự hy sinh của thế hệ đi trước đã làm nên độc lập, thống nhất, dân chủ và hòa bình là vô giá. Sau năm 1954, ông không tập kết ra bắc mà nhận nhiệm vụ mới, ở lại “địa bàn” phía nam hoạt động bí mật, rất nguy hiểm. Và điều đáng nói ở đây là trong những ngày tháng ở trong rừng, bị địch liên tục uy hiếp, ông đã lấy một miếng ngà voi cẩn thận làm chiếc lược với dòng chữ “Con yêu cha, nhớ tặng cha. Trẻ em” “.”.
Chiếc lược ngà có khắc chữ hình như cũng mang theo tình cảm của nhiều người cha dành cho con. Có thể thấy tình yêu dành cho con trai của ông Liu là rất nghiêm túc. Hình như cũng thể hiện trong anh sáu sáu triệu chiến sĩ, đồng bào ta đã hy sinh vì tổ quốc, vì dân tộc, họ hy sinh chỉ vì hạnh phúc gia đình, vì tình vợ chồng, tình cha con. .
Chiếc lược ngà là kho báu thiêng liêng của tình cha con người chiến sĩ, không thể bị bom đạn quân thù phá hủy. Anh còn bị một viên đạn của máy bay Mỹ găm vào ngực, trước khi chết anh đã “đút tay vào túi móc chiếc lược” đưa lại cho bạn, hình như anh đã nhìn bạn rất lâu. như muốn nói gì đó, nhưng anh đã tắt thở… …
Anh ra đi gian khổ trong những ngày tăm tối. Đau đớn hơn là ngôi mộ của ông “bằng phẳng như mặt rừng”. Nhưng hình như chỉ có “tình cha không bao giờ chết”.
Hình ảnh chiếc lược ngà có khắc những dòng chữ là kỷ vật bất diệt, đồng thời nó dường như cũng là chứng nhân của một nỗi đau, một bi kịch đẫm máu và nước mắt, để lại bao nhiêu tiếc thương trong lòng chúng ta. Người con trai thứ sáu dường như cũng là một chiến binh anh hùng của một thế hệ, đã trải qua muôn vàn khó khăn gian khổ, đã đi hết con đường.
Tựu chung lại, chúng ta đã thấy câu chuyện “Chiếc lược ngà”, hình ảnh người cha vinh quang của đứa con sáu tuổi và vai trò của người thiếu niên đã khơi dậy trong lòng chúng ta nhiều suy tư sâu sắc. Tình cha con dù trong khói lửa chiến tranh vẫn đẹp nhất. Và bài học “Uống nước nhớ nguồn” cũng khiến chúng tôi bồi hồi xúc động.
Phân tích tính cách ông Sáu – Văn mẫu 12
“Chiếc lược ngà” là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Seng, kể về tình cha con đau thương trong chiến tranh do giặc rải trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Ông Sáu là một trong những nhân vật thể hiện sâu sắc chủ đề này.
Ông Lưu, một nông dân Nam Bộ yêu nước, tham gia hai cuộc kháng chiến (chống Pháp và chống Mỹ) và đã anh dũng hy sinh. Năm 1946, ông ra trận chống giặc, đến năm 1954, hòa bình lập lại, ông mới về quê được mấy ngày. Ngày anh xuất ngũ, đứa con gái nhỏ thân yêu của anh mới một tuổi, khi về đã tám, chín tuổi. Người lính đã bao nhiêu năm vào sinh ra tử chưa đủ để được trở về đất mẹ, gặp lại vợ con, nghe tiếng con gọi “ba ơi”! Đó là một bi kịch thời chiến. Anh có giây phút hạnh phúc khi lần thứ hai chia tay vợ con và bước vào chiến dịch mới, khi cô con gái ngây thơ “nhận ra” bố và reo lên: “Bố ơi… bố ơi!”. Anh ôm con, “lấy khăn lau nước mắt cho con, hôn lên tóc con”. Anh Lưu ra đi để lại nỗi nhớ vợ con khôn nguôi. Bom đạn của kẻ thù đã thay đổi diện mạo của anh. Vết sẹo dài trên má phải của bà—một vết thương chiến tranh—khiến đứa con gái nhỏ thân yêu của bà không bao giờ nhận ra cha mình nữa! Anh ra đi với hình ảnh vợ và con, với lời hứa sẽ trở về với con gái anh, con gái Combs với nỗi day dứt “tại sao tao lại đánh con” ám ảnh anh mãi. Nỗi đau đớn, tang thương, mất mát do quân giặc mang lại chưa bao giờ nguôi đối với bao chiến sĩ, bao người mẹ, người con trên khắp mọi miền đất nước! Sự hy sinh của thế hệ đi trước vì độc lập, thống nhất, dân chủ và hòa bình là vô giá.
Sau năm 1954, ông thôi tập kết ra Bắc, nhận nhiệm vụ mới, ở lại “vành đai” phía Nam hoạt động bí mật. Trong những ngày ở trong rừng, anh liên tục bị kẻ thù bỏ rơi. Thiếu gạo thì phải ăn ngô. khó khăn và nguy hiểm. Cái chết xoay quanh những trận chiến thầm lặng. Anh vẫn không nguôi nỗi nhớ vợ con. Ông đã biến vỏ đạn 20 ly của giặc Mỹ thành chiếc cưa nhỏ, tỉ mỉ, kiên nhẫn và lành nghề như một người thợ bạc, từ những mảnh ngà voi ông đã làm nên chiếc lược ngà xinh xắn, khắc dòng chữ: “Thương cha nhớ con”. . Dòng chữ khắc trên lược mang theo tình cảm của người cha dành cho con mình. Đồng bào ta như hàng vạn chiến sĩ đã hy sinh vì đất nước, vì dân tộc, vì hạnh phúc gia đình, vì vợ chồng, vì cha con.
Chiếc lược ngà như bảo bối của người chiến sĩ, mang nặng tình cha nghĩa tử, nặng đến nỗi bom đạn quân thù cũng không thể phá hủy. Vì vậy, khi bị một viên đạn của máy bay Mỹ bắn vào ngực, trên giường bệnh hấp hối, anh đã “đút tay vào túi, rút chiếc lược đưa cho bạn, nhìn bạn một lúc rồi đã chết” …anh ấy đã chết trong những ngày đen tối. Bóng tối là do khó khăn. Ngôi mộ của ông là “ngôi mộ bằng phẳng trong rừng sâu”. Nhưng thôi “Tình cha con không thể chết!”.
Hình ảnh người ông thứ sáu, hình tượng người cha trong truyện “Chiếc lược ngà” đề cao mối quan hệ giữa cha và con. Chiếc lược ngà với những dòng chữ ghi trên đó sẽ mãi là kỷ vật, là chứng nhân của nỗi đau, bao bi kịch của máu và nước mắt, bao bóng đen bi thương đã để lại trong lòng chúng ta. Ông Sáu thuộc thế hệ chiến sĩ anh dũng đã trải qua gian khổ, hy sinh suốt chặng đường.
Truyện “Chiếc lược ngà” và hình ảnh ông Sáu gợi lên trong lòng chúng ta ý nghĩa của bao hi sinh, hạnh phúc trong cuộc đời do xương máu của cha ông bao đời tạo nên. Và bài học “uống nước nhớ nguồn” càng thấm thía.
Phân tích tính cách ông Sáu – Mẫu 13
Ông bà ta từng nói:
Công cha như núi ngất trời, mẹ như nước biển Đông
Quả thật công lao sinh thành dưỡng dục của cha mẹ là công lao trời biển, đời này con cái không thể nào đền đáp hết. Ở thời nào tình cha cũng thiêng liêng và đáng trân trọng. Đặc biệt là trong tình huống chiến đấu khốc liệt, loại cảm giác đó giống như một viên ngọc sáng. Và tất cả những cảm xúc thiêng liêng ấy đã được Nguyễn Quang Thịnh trong vai ông Sáu với chiếc lược ngà góp nhặt.
Trong kháng chiến chống Nhật, như bao thanh niên khác, ông hưởng ứng tiếng gọi của Tổ quốc, lên đường nhập ngũ. Kết hôn không lâu, anh đã lên đường, không có thời gian gặp mặt cô con gái yêu. Những ngày ở chiến khu, lòng ông luôn trăn trở về gia đình và các con. Ba ngày nghỉ hè như một phép màu, giúp anh thỏa nỗi nhớ quê, nhất là được gặp lại những đứa con thân yêu.
Lòng ông rạo rực và căng thẳng, trên xuồng mắt ông dán chặt vào ngôi nhà của mình, ông nhảy lên bờ trước khi thuyền cập bến. Trái tim anh phấn khích và hạnh phúc, và anh đã mong chờ khoảnh khắc này từ lâu. Tiếng gọi con vừa thiết tha, vừa ấm áp, hai tiếng “Thu ơi! Con ơi!” chứa chan tình yêu thương của ông dành cho các em bé. Nhưng trái ngược hoàn toàn với tình yêu rực lửa của anh, cô gái nhỏ lại trở nên lạnh lùng, sợ hãi và bỏ chạy. Thu không biết anh, trái tim như bị đâm thủng, anh lắp bắp gọi con, vết sẹo đỏ ửng trên má, cô bỏ chạy, còn anh đau đến mức “gãy tay”. Anh ta trông thật thảm hại. Có thể anh cũng phần nào hiểu được phản ứng của đứa con đối với mình, nhưng là một người cha, làm sao anh không đau lòng và tủi thân.
Ba ngày ở nhà là cơ hội hiếm hoi để ông đi thăm hỏi họ hàng, nhưng ba ngày này ông lại dành trọn cho đứa con thân yêu của mình. Anh ấy bao quanh cô ấy chỉ với một điều ước, và cô ấy nhận ra cha mình và gọi ông là Papa. Người ta cho rằng con người ta không cần những thứ xa hoa, nhưng anh đã bỏ ra bao công sức và thời gian mà cô vẫn không bị cám dỗ. Nhất là khi ăn, Thu lại càng bướng bỉnh, ương ngạnh đến cực độ, khi bắt gặp trứng cá trong bát của Thu, Thu đã ném miếng trứng đi. Tức giận và đau đớn, anh không kiềm chế được bản thân, vung tay đánh đứa bé. Nhưng chúng ta cũng có thể hiểu rằng đằng sau sự tức giận của giây phút ấy là một trái tim yêu thương, khát khao cháy bỏng được nhận một cử chỉ, một lời nói yêu thương của con trẻ.
Mọi nỗ lực của anh ấy đã được đền đáp. Trong giờ phút chia tay cuối cùng, Bé Tư đã nhận ra anh. Hạnh phúc, vui sướng, cảm động đều được cô đọng lại trong những giọt nước mắt yêu thương. Dù thời gian giữa hai cha con vô cùng ngắn ngủi nhưng ông cũng cảm nhận được tất cả tình yêu thương mà con trai dành cho mình. Tình yêu ấy cũng chính là động lực để anh nổ súng, bảo vệ quê hương, báo đáp con cháu.
Trong những ngày ở chiến trường, tình thương của ông dành cho con được thể hiện mạnh mẽ và sâu sắc nhất. Anh luôn ân hận và dằn vặt bản thân vì đã đánh con. Nhớ lời đứa trẻ dặn đi tìm chiếc ngà voi. Ông cẩn thận, tỉ mỉ, chăm chỉ như một người thợ bạc, cưa từng chiếc răng lược, rồi cẩn thận khắc từng nét bốn chữ “Thương, nhớ, tặng, công cha”. Anh ấy đã làm chiếc lược này với tất cả tình yêu dành cho trẻ em. Nhưng ông chưa kịp trao cho con chiếc lược ngà đã hy sinh trong một trận đánh lớn. Nhưng dường như chỉ có hai cha con là không thể chết, dù không còn sức để lại gì, nhưng ông cũng dồn chút sức lực cuối cùng, cầm lấy chiếc lược, trao cho đồng đội và tự mình nhặt lấy. Dù không nói ra nhưng nó thiêng liêng vô cùng, bởi đây là ước nguyện cuối cùng, là ước nguyện làm cha cao cả, thiêng liêng và sâu sắc nhất.
Bằng cách chọn đúng người kể chuyện, ba người bạn thân bên cạnh ông Sáu giúp câu chuyện trở nên đáng tin cậy. Câu chuyện về tình phụ tử thiêng liêng trong khói lửa chiến tranh càng thể hiện rõ nét nỗi đau mà chiến tranh mang lại cho con người. Nhưng cao cả hơn nữa là tình cha thiêng liêng vĩnh cửu.
Phân tích tính cách ông Sáu – Mẫu 14
“Chiếc lược ngà” được nhà văn Nguyễn Quang Sinh sáng tác năm 1966, vào thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc đang diễn ra sôi nổi, là câu chuyện kể về tình cha con sâu nặng. Sáu năm sau, cuộc chiến đã để lại cho người đọc những suy nghĩ và cảm xúc trước tình thế bất hạnh của sự sống và cái chết. Đây là một câu chuyện ngắn rất đơn giản nhưng đáng ngạc nhiên cho thấy một khoảnh khắc nhỏ về sự vĩ đại thiêng liêng của người cha.
Trong bất kỳ thời đại nào, chiến tranh sẽ không mang lại lợi ích cho con người, mà sẽ mang lại nhiều đau thương. Bình yên, khiến ông sáu đau đớn về tinh thần và thể xác trong văn bản chiếc lược ngà chỉ có vậy. Trong kỳ nghỉ ngắn ngủi, chúng tôi ngày càng gần ông nội Sáu, còn mùa thu thì ngày càng lạnh, ông càng yêu tôi, tôi càng chống cự, để rồi chúng tôi phải chia tay ông vào giây phút cuối cùng, và chúng tôi có thể Cùng nhau tận hưởng cuộc sống hạnh phúc , Tình cha con thắm thiết, giọng nói trầm buồn của người cha như xé lòng, xé lòng mọi người. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng niềm hạnh phúc nhỏ bé này thực sự là thời điểm sinh tử, vĩnh viễn vĩnh biệt cha con.
Đây là biểu hiện cụ thể của tình yêu ông dành cho con trai mình trong những chuyến thăm gia đình. Trên đường đi thăm người thân, chưa kịp cập bến, anh đã vội vàng nhảy vào bờ, cúi xuống, lấy tay che miệng, miệng lắp bắp: “Tôi đây, tôi đây”. Nó ôm cổ bố cho thỏa mãn những ngày dài ở bên ngoài, nhưng thật bất ngờ khi thấy đứa bé mở to mắt nhìn tôi rồi sợ hãi bỏ chạy, nó không có nhiều thời gian ở nhà, cũng không đi đâu mỗi ngày. ngày. . Anh ấy vuốt ve tôi rất chặt và ước tôi có thể gọi anh ấy là bố nhưng anh ấy không thể và đôi khi anh ấy đánh tôi trong sự tức giận. Lúc chia tay, tình cảm sâu nặng của đứa bé khiến anh cảm động. “Tay ôm lấy tay kia lấy chiếc khăn”, nước mắt ông chảy dài trên mặt. Điều xúc động và đau xót hơn nữa là đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng ông được nghe giọng nói của người cha thân yêu.
Sau khi cùng gia đình trở về căn cứ, đi đâu anh cũng nhớ con. Nỗi đau ân hận đeo bám anh nhiều ngày nay là do anh vô tình đụng phải con trai mình. Anh nhớ đến tiếng khóc của đứa bé khi tạm biệt cha: “Con mua cho bố cái lược, nghe lời bố đi”. Khi tìm được một chiếc ngà voi để làm chiếc lược cho con, ông đã cảm động trước tình yêu và tình cảm của mình dành cho con trai mình. Tác giả xoay quanh câu chuyện làm lược và tập trung vào cảm nhận của anh, đó là cảm giác của anh khi kiếm được ngà voi. “Ông vội quay lại, giơ chiếc ngà lên cho tôi xem, mắt ông mừng như được ngà voi. Một món quà, rồi dồn hết tâm trí, sức lực vào tác phẩm”, ông tận mắt chứng kiến từng chiếc răng lược, tỉ mỉ và tỉ mỉ như thợ bạc. Ở mặt sau của chiếc lược, từng nét được khắc cẩn thận dòng chữ nhỏ “Love, Remember, Give and Take, Baby Daddy”. Chiếc lược và những dòng chữ đã trở thành báu vật như thần, để mỗi khi nhớ bạn, ông lại “lấy chiếc lược ra xem, rồi mài đầu cho chiếc lược thêm bóng mượt”, chiếc lược đã xóa đi cái tát của đứa trẻ đáng thương. Anh ấy thích gặp lại bạn khi anh ấy nhìn vào chiếc lược.
Điều đau xót là chiến tranh khiến ông không bao giờ trở về với các con, và ông đã hy sinh trong trận chiến. Trước sự hy sinh của anh, tưởng như chỉ có hai cha con không thể chết, anh cầm chiếc lược đưa cho bạn, với những tâm tư không thể nói nên lời. Kể từ đó, chiếc lược ngà trở thành biểu tượng thiêng liêng của tình mẫu tử.Những dòng cuối bài đầy ắp nỗi buồn da diết nhưng chứa đầy ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Khép lại những trang sách, truyện Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sinh vẫn còn âm vang trong lòng người đọc. Nó gợi lên những xúc cảm mạnh mẽ về tình phụ tử sâu nặng, thiết tha và gợi cho người đọc những suy ngẫm về quá khứ đau thương của dân tộc. Căm thù những đau thương, mất mát của chiến tranh và thấu hiểu sâu sắc những đau thương, mất mát của chiến tranh đã khiến biết bao con người, bao gia đình phải chịu cảnh chia cắt ấy. Nhưng đó cũng là niềm tự hào, vinh quang của một dân tộc anh hùng. Tác giả khẳng định và ca ngợi tình cha con vô cùng thiêng liêng như một giá trị nhân văn sâu sắc, điều đó càng cao đẹp hơn trong hoàn cảnh khó khăn.
Phân tích tính cách ông Sáu – Mẫu 15
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Seng kể câu chuyện cảm động về tình cha con trong một gia đình Việt Nam “cha là nhất, con là thứ, tình đồng chí trong quân, hành tây”. Đoạn cảm động nhất của câu chuyện là “Ba ngày nghỉ về quê sáu lần”.
Năm 1946, năm đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp, ông theo tiếng gọi của Tổ quốc, lên đường. Lúc đó bé Thứ, con gái anh chưa đầy một tuổi. Chín năm xa quê, trốn nhà, anh vẫn mong một ngày được trở lại quê hương, gặp lại vợ con. Sau đó, khi kháng chiến thắng lợi, ông được nghỉ phép 3 ngày để trở về quê hương, một ngôi làng nhỏ bên bờ sông Cửu Long. Khi về đến nhà, anh tưởng tượng ra hình bóng nhỏ – con gái anh sẽ rất vui khi gặp lại bố. Bây giờ nó đã mười tuổi. Nó mang lại cảm giác rạo rực và phấn khích, nó ước gì được về nhà thật nhanh.
Không đợi thuyền cập bến, anh vừa đi vừa nhảy lên bờ, hô to: “Qiu! Các con!” Tôi có thể tưởng tượng anh ấy đã hạnh phúc như thế nào. Khi bước đi, anh chỉ ngồi xổm xuống và đưa tay ra để đợi đứa trẻ. Nhưng trái với mong đợi của anh.
Bé con kinh ngạc trợn mắt nhìn anh, quay người bỏ chạy. Phản ứng của Thu khiến anh giật mình và đau khổ. Còn gì buồn hơn khi đứa con yêu dấu mà ông mong mỏi được gặp hàng ngày lại trở thành một kẻ xa lạ độc ác như vậy.
Sau đó, anh tìm mọi cách để gặp gỡ, làm quen với con, bởi anh thấy lạ khi con ra đi chỉ mới vài tháng tuổi. Tôi mong nó gọi là “Bố” và khi đến ăn, nó nói “Vào ăn đi con!”
Bữa tiếp theo cũng là ngày nghỉ lễ thứ 2. Bé phải lo nồi cơm mẹ, còn chị 6 đi mua rau. Trước khi đi, chị Sáu nói với anh rằng nếu anh cần bất cứ điều gì, anh sẽ gọi cho cha mình để được giúp đỡ. Nồi cơm quá lớn, con còn nhỏ, cơm trong nồi đã sôi mà tìm mãi không ra, loay hoay hồi lâu, anh nhìn con một lúc. , rồi kêu lên: “Cơm chín rồi, múc nước giúp tôi.” Anh vẫn ngồi im, chờ nó thay đồ. Tuy nhiên, nó đã nghĩ ra cách để múc từng miếng nước nhưng tuyệt nhiên không chịu gọi anh sáu là “ba”. Cô ấy thật tuyệt!
Khi ăn, anh gắp một miếng trứng cá vàng to và cho đứa trẻ vào bát. Lúc đầu nó để đấy, sau đó bất ngờ ném quả trứng khiến cơm rơi vãi ra ngoài. Tôi tức giận đến mức không thể nhịn được nữa, và anh ấy vung tay tát vào mông tôi. Thế là Thu vội xuống ca nô mở “đường mòn” rồi bơi qua sông trở về nhà bà ngoại.
Chỉ còn ngày cuối cùng, anh Sáu phải trở lại đơn vị nhận nhiệm vụ mới. Bao nhiêu giấc mơ dài được hôn và ôm con chỉ khiến tim anh tan nát đến mức anh gần như không còn để ý đến nó nữa.
Người thân, có khá nhiều người thân đến tiễn đưa anh ấy nên anh ấy đã cố gắng chịu đựng. Chị sáu cũng chịu trách nhiệm thu xếp đồ đạc cho chồng, không ai để ý đến Xiao Su đang đứng một mình ở cửa. Vì vậy, anh ấy đã trở về với bà ngoại, bởi vì bà của anh ấy đã đến đây để tiễn anh ấy. Giờ đây, trên gương mặt Qiu không còn vẻ ương ngạnh, bướng bỉnh mà thay vào đó là vẻ buồn bã vô cùng đáng yêu. Nó nhìn mọi người, lúc sáu người. Đến lúc xách ba lô lên bắt tay mọi người, anh nhìn quanh tìm đứa bé. Khi nhìn thấy con trai, mọi thứ trong suốt ba ngày nghỉ hè như hiện lên trong anh nên anh chỉ biết đứng nhìn con với vẻ mặt buồn bã… Cuối cùng, anh cũng phải nói lời chia tay với đứa trẻ, không muốn thứ A. giọng nói sẽ được gọi. Chữ “ba” thần thánh đó.
Thình lình, bất ngờ, Thu chạy đến bên ông và kêu lên “Bố ơi!” Nói ra thì cảm động làm sao. Anh ôm cô thật chặt, như không muốn rời xa cha mình. Anh đã khóc, khóc rất lâu rồi hét lên những câu khiến mọi người xung quanh xúc động: “Đừng để anh đi nữa, anh sẽ ở nhà với em!”
Vui, sướng, buồn, anh Sáu chỉ biết ôm con mà khóc. Rồi cũng đến lúc phải nói lời chia tay, thật là uất ức. Vừa được gặp “Bố” của con trai yêu quý, cũng là lúc phải nói lời tạm biệt ông trong nước mắt để lên đường thực hiện nghĩa vụ trong quân ngũ.
Tôi đã từng yêu con trai mình, nhưng bây giờ tôi càng yêu con trai mình hơn. Vì anh hiểu tại sao bé thu quyết định từ hôm nay trở đi không gọi anh là “bố”.
Làm sao chấp nhận được một người xa lạ ngoài hình nhưng mẹ luôn gọi mình là “Daddy”. Chính vết sẹo khủng khiếp đó đã khiến bà bất mãn và căm ghét cô. Cô xấu hổ và hối hận khi biết nguyên nhân gây ra những vết sẹo trên mặt cha mình. Tình cha con bỗng tràn ngập, tràn ngập lòng tôi. Tình cảm đó được thể hiện qua thái độ và cử chỉ vội vàng khi nó gọi và ôm anh sáu lần.
Chỉ ba ngày nghỉ thôi mà đối với cô bé Sáu tuổi và bé Thứ Năm thật là nặng nề. Nghịch cảnh này là một trong hàng ngàn nghịch cảnh khác mà nhiều gia đình phải gánh chịu vì những hiểu lầm nghèo khó. Đây cũng là một sự thật đau xót của đất nước ta trong những năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Phân tích tính cách ông Sáu – Văn mẫu 16
Nguyễn Quang Sinh là một nhà văn miền Nam, trong suốt sự nghiệp cầm bút của mình, ông luôn trăn trở, trăn trở khi viết về cuộc sống của người dân miền Nam. Khi chiến tranh đang hoành hành, nhà văn cũng hướng văn bản đi sâu, tập trung đào sâu tình cảm con người, tình cảm gia đình trong Kháng chiến. Tác phẩm “Chiếc lược ngà” là một trong những tác phẩm thành công của nhà văn khi miêu tả chân thực tình cha con thời chiến. Trong các tác phẩm, nhân vật ông Sáu luôn mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thật nhất, sâu sắc nhất.
Con người mà Nguyễn Quang Sinh khắc họa trong các tác phẩm của ông cũng là một nông dân Nam Bộ luôn tràn đầy tinh thần yêu nước. Khi anh đi kháng chiến, con gái anh chưa đầy một tuổi, mãi đến khi con gái nhỏ lên tám tuổi, anh mới có dịp về nhà, nhìn thấy đứa con mà anh ngày đêm nhớ nhung. Những ngày tháng ở nhà, anh luôn muốn dành tất cả tình yêu thương cho con gái nhưng Thứ đã từ chối tình yêu của anh. Bé Thu không nhận ra bố vì vết sẹo trên mặt khác với người bố mà bé biết trong ảnh. Anh không có được tình yêu của người con trai cho đến lúc chia tay, nhưng khoảnh khắc đó thực sự quá ngắn ngủi.
Trong thời kỳ chiến tranh cao trào, ông thường xuyên nhớ nhà, nhớ con thơ. Tình yêu thương vô bờ bến của anh như được bồi đắp từng ngày, theo năm tháng, cho đến khi anh được phép về thăm nhà. Thực ra trong lòng ông, tình cảm cha con rất bền chặt, ông mong mỏi đến cháy bỏng tâm can lúc này, ông chỉ mong được gặp con trai, mong con gái yêu gọi mình là cha. Anh có thể sống trong tình cha con hạnh phúc, thứ tình mẫu tử mà anh luôn khao khát. Thuyền cập bến không bao lâu, nhưng khi nhìn thấy một đứa trẻ trạc tuổi con mình, ông cũng nhảy lên bờ, như có một sợi dây vô hình khiến ông cảm thấy đó là bảo bối của mình. -con ông ấy. Tuy nhiên, đáp lại sự ân cần, yêu thương này của đứa bé là sự sợ hãi, nghi ngờ và không tin rằng mình là cha của mình. Ông buồn lắm, “mặt mày đen xì thương hại, hai tay thõng xuống như đứt lìa”.
Trong mấy căn nhà anh ở nhà, anh không dám đi xa, luôn vỗ về đứa trẻ, giống như chính anh cũng muốn từ miệng cô nghe được tiếng “ba ơi”, nhưng mọi thứ đều không trọn vẹn. Và tại sao nó quá khó cho bạn? Anh luôn rất gần gũi với đứa trẻ, và cô càng rời xa, cô quyết định không gọi anh một lời. Anh cảm thấy thật đau khổ và bất lực với đứa nhóc bướng bỉnh này. Ông rất thương con, chiến tranh là nguyên nhân chính khiến hai cha con không được gặp nhau, nó để lại trên mặt ông một vết sẹo dài đau đớn khiến hai cha con không nhận ra nhau. .
Cho đến lúc chia tay, anh như muốn ôm hôn con nhưng lại sợ con từ chối rồi chạy đi nên chỉ biết nhìn con với ánh mắt trìu mến và nhiều nét mặt đượm buồn. Nhưng trước khi bạn có dấu hiệu của tình cảm mạnh mẽ. Khi cô bé gọi “bố ơi”, ông Sáu cũng xúc động. Tâm trạng lúc này của anh dường như không thể kìm nén được cảm xúc, anh không muốn con cái nhìn thấy mình khóc. Anh cũng một tay bế con, một tay lấy khăn lau nước mắt cho con, hôn lên tóc con với tình yêu thương vô bờ bến.
Lúc này anh cũng cảm thấy rất day dứt, vì trong cơn nóng giận anh cũng từng đánh con, và câu nói của đứa con khiến anh không thể nào quên: “Bố về rồi, mua lược cho con nghe lời bố”. Câu nói này dường như khiến ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà cho con gái mình. Khi lấy được ngà voi, ông mừng lắm, trong làn mưa đạn, ông tưởng tượng mình chiến đấu anh dũng, lúc rảnh rỗi ông không quên lôi những mảnh ngà ra làm lược. Nghĩ đến con, ông cầm chiếc lược ngà lên ngắm nghía, rồi chuốt lại sợi tóc cho chiếc lược bóng mượt hơn, tình yêu thương con được khắc họa trên chiếc lược ngà. Chiến tranh khốc liệt đã cướp đi 6 mạng sống của anh nhưng tình yêu của người cha dành cho anh không thể chết.
Trên thực tế, việc khắc họa tính cách người ông và 6 người cha giàu hết mực yêu thương con cái cũng để lại cho độc giả nhiều lời khen ngợi, khiến “Chiếc lược ngà” trở thành tác phẩm vừa hiện thực vừa đề cao thân phận người cha thiêng liêng nhất.
Phân tích tính cách ông Sáu – Văn mẫu 17
Phân tích nhân vật ông Lưu, ta thấy ông là một nông dân Nam Bộ, từng tham gia kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Nhà văn Ruan Guangsheng đã chỉ rõ rằng ông ra trận chống giặc năm 1946, mãi đến năm 1954 mới có dịp ở lại nhà ông vài ngày.
Ngày anh đi chiến trường, đứa con gái út của anh mới một tuổi. Vì vậy, khi con gái anh 9 tuổi, anh mới được gặp lại con. Sau năm 1954, ông nhận nhiệm vụ từ miền nam vào hoạt động bí mật. Có thể thấy, khi phân tích nhân vật ông Lưu, hoàn cảnh của ông là hoàn cảnh của rất nhiều người lính trong chiến tranh. Sự chia cắt do chiến tranh đã chia cắt nhiều gia đình.
Ông Lưu là người miền Nam yêu nước. Minh chứng rõ ràng nhất là ông đã trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, rồi anh dũng hy sinh. Năm 1946, người nông dân chân chất ra đi, mãi đến khi hòa bình lập lại năm 1954, ông mới trở lại quê hương trong một thời gian ngắn.
Quê hương là tiếng gọi thiêng liêng nhất trong trái tim tôi. Khi đất nước cần, ông không tiếc thân mình. Ra trận đồng nghĩa với việc phải xa gia đình, xa đứa con mới lên một tuổi. Khi tôi về quê thăm người thân, con trai tôi đã 9 tuổi. Có thể thấy, khi phân tích nhân vật ông Lưu, điều đầu tiên chúng ta cảm nhận được đó là tình yêu quê hương đất nước.
Những năm dài chinh chiến, sinh tử, mưa bom bão đạn khiến người lính này nóng lòng muốn về quê thăm người thân. Anh muốn trở về, được đoàn tụ với vợ con, được nghe đứa con gái yêu gọi “ba ơi”. Tuy nhiên, cuộc gọi không hoàn thành. Đó là bi kịch của chiến tranh, là khoảng trống không thể lấp đầy…
Lần thứ hai chia tay bước vào cuộc chiến mới, anh mới cảm nhận được niềm hạnh phúc của đứa con gái “Bố…bố ơi!”. Sau khi phân tích nhân vật ông Sáu mới biết ông đã xúc động như thế nào khi lấy khăn lau nước mắt và hôn lên tóc tôi. Vì tình yêu đất nước, vì nhu cầu của đất nước, anh lại lên đường. Chính chiến tranh đã chia cắt gia đình anh, cũng chính chiến tranh đã để lại trên má phải anh một vết sẹo dài. Điều này dẫn đến việc con gái không biết cha mình.
Phân tích nhân vật ông Sáu, ta thấy khi ra đi ông có một nỗi lưu luyến khôn nguôi với vợ con và hứa sẽ mang cho con gái một chiếc lược. Gia đình hạnh phúc bị chia cắt, cha con phải xa cách… Chiến tranh cướp đi sáu con người, hay bao người lính, bao nhiêu mẹ con, với biết bao đánh đổi, mất mát đau thương. Các thế hệ trước đã phải trả giá quá đắt để có được sự độc lập, hạnh phúc và đoàn kết như chúng ta bây giờ.
Sau năm 1954, ông Sáu không tập kết ra bắc mà tiếp tục nhận nhiệm vụ mới ở nam. Anh ta đã dành các hoạt động bí mật của mình trong rừng. Một đời lam lũ, khủng bố liên miên, súng đạn, thiếu gạo ăn mì ngô. Cuộc thi thầm lặng với thần chết trong thành bị vây thể hiện trọn vẹn tình cảm quê hương của người nông dân Nam Bộ. Phân tích nhân vật ông Sáu, ta thấy được lão nông này là người có tinh thần chiến đấu dũng cảm, trong cuộc chiến tranh vĩ đại giữa Mỹ và ngụy, ông luôn sát cánh chiến đấu cùng đồng đội để rồi hy sinh.
Phân tích nhân vật ông Sáu, người đọc có thể cảm nhận được tình cha con sâu nặng giữa ông và cô con gái Thứ ngay từ những trang đầu tiên của truyện. Một câu chuyện, trong những năm tháng đấu tranh khốc liệt, đã khơi dậy trong lòng độc giả bao suy ngẫm về tình yêu của phụ nữ. Một câu chuyện sâu sắc và xót xa, một câu chuyện về người cha đẹp nhưng buồn, chạm sâu vào trái tim mọi người.
Đó là những hy sinh thầm lặng của những người lính. Họ nghe theo tiếng gọi của tổ quốc, không chỉ lao vào nơi mưa bom bão đạn, sống chết mà còn phải hy sinh tình cảm gia đình gần gũi, chân thành nhất.
Phân tích nhân vật ông Sáu, người lính thương binh này có khuôn mặt lạnh lùng, ý chí sắt thép nhưng lại có trái tim ấm áp của một người cha luôn nhớ thương con gái yêu. Điểm này được thể hiện rất rõ qua chi tiết, vừa nghĩ đến việc nhìn thấy đứa bé, ông đã cảm thấy “nôn nao”. Nhà văn Ruan Guangsheng đã rất tinh tế khi mô tả sáu động tác của mình: “Tôi không thể đợi thuyền cập bến, vì vậy tôi nhảy lên nhảy xuống và đẩy thuyền ra.” Hành động này còn được biểu hiện là “đang sải bước, rồi dừng lại, kêu to: “Thu! Đứa con”. Đây là tình cảm của một người cha đầy nỗi nhớ thương đứa con gái nhỏ của mình. Phân tích nhân vật ông Lưu, đây là nỗi nhớ nhung, mong mỏi của một người cha thương con vô hạn. Tình cảm bị kìm nén bao năm nay chỉ nổ ra trong cuộc điện thoại đầu tiên.
Biểu hiện của cảm xúc tột độ còn được thể hiện qua hình ảnh “vết sẹo dài bên má phải đỏ ửng và giật giật…”. Sau bao ngày trăn trở, suy nghĩ, giọng người cha nghẹn ngào khiến giọng ông nghẹn ngào “Con ơi, cha ở đây”. Càng mong mỏi, anh càng đau lòng khi cô gái nhỏ không đáp lại cuộc chạy nước rút mà anh mong chờ, “tái mặt bỏ chạy”. Bao nhiêu thất vọng bóp nghẹt tim anh như trời sập xuống.
Người đọc phân tích nhân vật ông Sáu và thấy rằng tình cha con sâu nặng khiến ông không hề sợ hãi trước sự thờ ơ của con trai mình. Trong ba ngày đến thăm gia đình đó, anh đã dành cho Thứ Năm tất cả tình yêu thương với sự dịu dàng, ân cần và quan tâm. Cô con gái từ chối, và mặc dù bướng bỉnh, anh vẫn rất kiên nhẫn và kiên trì. Đó là một loại kiên trì, một loại bao dung, xuất phát từ tình phụ tử sâu nặng và thiêng liêng. Tuy nhiên, khi tình cảm này đã quá sâu đậm và bị kìm nén quá lâu, ông đã bị cậu con trai kiên quyết từ chối, bắt ông “dùng tay vỗ mạnh vào mông con gái mình” rồi quát “Sao mày cứng đầu thế?”. Sự tức giận và hành động xuất phát từ nỗi đau bất lực, chỉ ba ngày, thời gian ở bên con quá ngắn, mà đứa con lại không nhận ra cha, hành vi đánh con như vậy cũng khiến anh no nê trong những ngày xa cách từ người con gái của mình trong những năm cuối đời, chịu đựng sự dày vò tinh thần và đau lòng.
Đó là bao nhiêu tình cảm đã bị chiến tranh thay đổi, bao nhiêu cha con không được đoàn tụ, bao nhiêu gia đình ly tán. Hình bóng em bé như một minh chứng cụ thể, mẫu mực về tình nghĩa ly biệt trong bom đạn chiến tranh. Phân tích nhân vật ông Sáu, ta thấy diễn biến tâm lý của ông khá phức tạp, tất cả đều thể hiện tình yêu thương con sâu nặng từ trái tim ấm áp của một người cha.
Tình thương con vô bờ bến ấy còn được thể hiện vào giây phút cuối cùng khi Người còn ở nhà lúc mới 6 tuổi. Nhìn thấy con và nghe con gọi bố, trong lòng bố cảm thấy một niềm hạnh phúc vỡ òa. Giờ phút chia tay, ông Lưu cố gắng kìm nén cảm xúc: “Tôi cũng muốn ôm hôn nhưng sợ nó vùng vẫy mà thoát ra nên đành đứng nhìn nó…” Lúc này, Chỉ cần anh ấy có thể nhìn thấy bạn, anh ấy sẽ rất hạnh phúc. Từ đôi mắt trẻ thơ, ta thấy được bao nhiêu “ánh mắt yêu ghét” bị kìm nén, nâng niu.
Phân tích nhân vật ông Sáu, ta thấy khi ở căn cứ, ông cũng thể hiện sâu sắc tình phụ tử lớn lao đó. Sự dấn thân làm chiếc lược ngà cho bạn chưa bao giờ nguôi trong anh. Đến nỗi khi vớ được một miếng ngà voi, anh ta vội vã chạy về. Khuôn mặt anh vui mừng như một đứa trẻ nhận được quà. Với tình thương và nỗi nhớ con gái, hàng ngày ông ngồi nhìn chiếc ngà voi ấy được làm thành chiếc lược dài hơn một gang tay. Mặt sau lược có khắc một dòng chữ nhỏ, đó là “yêu, nhớ, tặng, nhận cha con” được ông Lưu cẩn thận nắn nót nắn nót từng chữ. Những ngày ở căn cứ, mỗi khi nhớ con, ông lại lấy chiếc lược lên xem, rồi chuốt cho tóc thêm óng ả. Chiếc lược trở thành vật kỷ niệm thiêng liêng và vô giá. Nó là biểu tượng của tình cha con bất diệt, đồng thời xoa dịu nỗi đau, sự ân hận khi nhớ con, đồng thời cũng chất chứa bao cảm xúc nhớ nhung, yêu thương.
Tuy nhiên, khi phân tích nhân vật ông Sáu, ta thấy được nỗi đau quá lớn do chiến tranh gây ra. Đó là sự hy sinh của cha anh. Ông Sáu chưa kịp trao chiếc lược ngà thì trong một trận càn của địch, ông đã bị bom đạn hy sinh. Vào giây phút cuối cùng, khi chỉ còn tình cha con tưởng như đã chết, anh thò tay vào túi lấy chiếc lược và trả lại cho tôi. Đến đây, bạn đọc không khỏi nghẹn ngào, rơi nước mắt…
Phân tích nhân vật người con thứ sáu, người đọc nhận thấy anh là một nông dân Nam Bộ hiền lành, chất phác. Vì tình yêu lớn của đất nước, anh bắt đầu chiến đấu, chuẩn bị xa gia đình và con gái yêu của mình. Ông còn là người cha có tình thương con sâu sắc, đó là tình cha thiêng liêng, bất diệt. Phân tích nhân vật ông Lưu trong tác phẩm Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sinh không chỉ thể hiện tình cha con sâu nặng mà còn nhấn mạnh hiện thực tàn khốc của chiến tranh, sự hy sinh, khó khăn, mất mát của nhân mạng. Không có gì có thể được thực hiện. Từ đó, truyện cũng khơi dậy nhiều cảm xúc trong lòng người đọc. Cách tạo hình và miêu tả tâm lý nhân vật của tác giả rất thành công, cộng với cốt truyện hấp dẫn, tác phẩm đã để lại nhiều tiếng vang.
Phân tích tính cách ông Sáu – Văn mẫu 18
Nhà văn Nguyễn Quang Sinh là một nhà văn nhân hậu, chính trực, thường phó thác tính mạng cho nhân dân phương Nam, là một anh hùng yêu nước kiên trung.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được nhà văn Nguyễn Quang sáng tác trong thời kỳ cuộc chiến tranh giữa nhân dân miền Nam với đế quốc Mỹ đang ngày càng gay gắt. Miền Bắc nước ta đang trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa, là hậu phương vững chắc của tiền tuyến miền Nam.
Trong bối cảnh chiến tranh đó, tình cha con được tác giả Ruan Guangsheng miêu tả vô cùng cảm động và mạnh mẽ.
Nhân vật của ông Sau tám năm chiến đấu ở nước ngoài, trong một lần về nước thăm người thân trong kỳ nghỉ, ông nhìn thấy đứa con gái út và vô cùng xúc động. Vì lúc ra đi cậu còn hơn một tuổi nên lần trở lại này không tránh khỏi bỡ ngỡ và hồi hộp.
Tình cha là thiêng liêng nên vừa nhìn thấy con là ông đã hét lên và ôm chầm lấy con nhưng dưới tác động của người bác, đứa trẻ lạnh lùng đến mức cố vùng vẫy để tránh khỏi vòng tay của ông. Anh ấy sáu tuổi và vào trong nhà và gọi mẹ mình.
Niềm vui của anh không kéo dài được lâu, bởi những ngày sau đó, đứa con vẫn lẩn tránh anh, không chịu nhận anh là cha, không lại gần anh vì vết sẹo trên mặt khác hoàn toàn với cha mình. . Điều này thường thấy trong ảnh cưới của bố và mẹ.
Ba ngày ở nhà anh, anh không đi đâu xa, chỉ muốn được gần cô con gái nhỏ, khao khát tình yêu thương của cô. Biểu hiện của nó cực kỳ lạnh lùng, khiến anh xé nát trái tim. Anh ta vừa cứng đầu vừa bướng bỉnh, thậm chí còn không lịch sự với anh ta.
Mẹ bảo tôi mời bố vào ăn tối, mẹ chạy ra nói thẳng thừng, không chút kính ngữ mà người trẻ nên có: “Vào ăn đi” và “Bữa ăn đã sẵn sàng”. Lúc này, ông không đành lòng trước sự bao dung của một người cha chỉ mỉm cười và khẽ gật đầu, nhưng ông rất buồn và đau lòng khi chứng kiến con gái chối bỏ tư cách làm cha của mình.
Dù buồn vì sự bướng bỉnh của đứa trẻ nhưng anh vẫn không ngừng chăm sóc đứa trẻ, không ngừng vun đắp tình yêu của người cha dành cho cô, vì thương con nên khi ăn anh đã cho cô miếng trứng cá muối to nhất, nhưng để đáp lại trước tình yêu của cha, cô vung tay và để miếng trứng cá muối rơi xuống đất.
Giận con vì thái độ ngang ngược, ông đánh con mấy cái mà lòng cũng đau. Thay vì khóc, cô ấy đi thuyền đến nhà bà ngoại chơi, và thay vì về nhà vào đêm hôm đó, cô ấy ngủ với bà ngoại.
Đêm đó, cô đã khóc khi nghe bà kể về thành tích của cha mình và nguyên nhân khiến ông có những vết sẹo trên mặt.
Sau đó, kỳ nghỉ ba ngày của anh ấy đã kết thúc, và đã đến lúc anh ấy phải rời đi trong sáu ngày. Vào thời khắc thiêng liêng ấy, tiếng gọi của người cha bỗng vang lên. Thu vừa khóc vừa ôm bố nói: “Bố đừng để con đi, con phải ở nhà với bố”
Cô ấy đã rũ bỏ tính bướng bỉnh và là một đứa trẻ thực sự, một đứa trẻ cần tình yêu của cha.
Vào chiến trường, tình yêu của ông dành cho con trai không bao giờ nguôi, bởi lời hứa trước khi ra đi và cô gái đã nói với ông “nhớ mua cho mẹ chiếc lược”. Vì vậy, sau những giờ chiến đấu căng thẳng, ông lại ngồi làm những chiếc lược ngà cho con. Anh tỉ mỉ chạm khắc từng chiếc răng lược, rồi khắc những lời yêu thương lên đó.
Một lần bị thương nặng, biết không qua khỏi, Xiao Liu đã đem chiếc lược ngà tặng cho đồng đội và nhờ anh ta chuyển cho con gái.
Thông qua vai diễn người con trai thứ sáu, tác giả Nguyễn Quang Sinh không chỉ khắc họa thành công nhân vật người lính anh hùng, ngoan cường mà còn khắc họa thành công hình ảnh người cha mẫu mực, yêu thương hết lòng vì gia đình, vì con cái.
Qua truyện ngắn Chiếc lược ngà, tác giả Nguyễn Quang Thắng không chỉ ca ngợi tình cảm gia đình thiêng liêng, cao quý mà còn tố cáo tội ác chiến tranh đã gieo bao đau thương cho bao gia đình trên đất nước ta. Nhà văn đã khắc họa thành công các nhân vật của mình, sáu chiến sĩ kháng Nhật dũng cảm, thiện nghệ và một người cha mẫu mực, yêu thương con cái.
Phân tích tính cách ông Sáu – Văn mẫu 19
Chiếc lược ngà là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Quang Seng và được đông đảo công chúng yêu thích. Thông qua cảnh ngộ đặc biệt của hai cha con, tác phẩm mang giá trị hiện thực và nhân văn sâu sắc. Ông Sáu, một người cha trong công tác phải xa đứa con thân yêu của mình vì hoàn cảnh chiến tranh, không ngờ sau 8 năm gặp lại, đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng.
Vai trò của người con trai thứ sáu đã được Ruan Guangsheng định hình rất nhiều. Số phận của ông cũng được ghi nhận như số phận chung của nhiều người lính từng tham gia đấu tranh bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Anh Sáu là một người con rất đỗi tự hào của miền Nam thân yêu. Ông là cựu chiến binh từng tham gia kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Anh ấy đã dành phần lớn cuộc đời của mình trong một khu vực chiến tranh, nhiều thời gian trên chiến trường hơn là với gia đình. Câu chuyện của anh ấy bắt đầu với một kỳ nghỉ 3 ngày, nơi anh ấy khao khát được về nhà để gặp đứa con gái yêu dấu mà anh ấy đã phải rời xa khi còn bé, mỗi ngày trong suốt 8 năm. Rất mong được gặp con gái tôi.
Kiểu chia ly thời chiến này không phải là hiếm trong thời chiến, và người đàn ông sáu tuổi và con trai Thứ Năm chỉ là một ví dụ về điều này. Chiến tranh khiến con người phải sống chết dựa vào gia đình, và chiến tranh cũng mang đến bao bất hạnh, trong đó có tình cha con. Ông Lưu là người có lòng yêu nước nồng cháy và sâu sắc. Anh yêu quê hương, đất nước và sẵn sàng đi theo tiếng gọi thiêng liêng của dân tộc để ra đi, nhưng phải xa gia đình để chiến đấu, bảo vệ quê hương, bảo vệ sự an toàn của những người thân yêu. Chính tình cảm đó đã giúp anh vượt qua số phận, chịu đựng những năm tháng gian khổ, thử thách trên chiến trường gian khổ, không chỉ đe dọa đến tính mạng mà cả sự khan hiếm về vật chất và tinh thần.
Điều quan trọng nhất, anh ấy cũng là người có tình yêu thương con sâu sắc, bền chặt, khi về quê thăm họ hàng, điều anh ấy lo lắng nhất chính là được gặp con gái. Khi sắp về đến nhà, thuyền còn chưa cập bến, nhưng ông đã lo lắng lên thuyền, đẩy cả thuyền ra xa rồi vội vã đi bộ đến gặp con gái. Vừa nhìn thấy con trai, giọng ông run run: “Con đây rồi”, ông Lưu quả là người cha nhân hậu hết mực yêu thương con, những ngày ở chiến khu chắc ông đã nghĩ đến con gái nhiều lắm.
Trong ba ngày nghỉ phép, anh không dám đi đâu xa, chỉ muốn tìm cách ở một khoảng cách gần để nghe thấy tiếng gọi “Bố” của con gái, nhưng điều anh nhận được lại là sự tổn thương và đau lòng. Ông thương con và hối hận vì đã đánh con. Anh dồn tình yêu ấy làm cho em chiếc lược ngà – lời hứa với em trước khi chia tay.
Chiếc lược màu ngà đã phần nào xoa dịu tâm trạng của cha, chiếc lược là món quà của cha, là tấm lòng, là tình yêu thương của cha, nhiều khi rảnh rỗi, cha lại lấy chiếc lược ra ngắm nghía chiếc lược trên tóc. Đánh bóng, thêm bóng, mịn hơn.
bé thu, một cô bé cứng đầu, ương ngạnh, bướng bỉnh. Gặp ông Sáu trên xuồng, và “ngỡ ngàng” khi nghe gọi tên ông. Hắn không hiểu cảm thấy kỳ quái, sắc mặt nhất thời tái nhợt, sau đó vừa chạy vừa kêu: “Mẹ, mẹ.” Ba ngày nghỉ, sáu ngày trốn tránh anh trong khi anh cố gắng an ủi và dập tắt anh. Thứ Năm không chịu gọi tiếng cha, bị mẹ dọa đánh nên đầy tớ bắt cậu ăn cơm uống nước gạo, thế là cậu nổi tiếng. Bác nói mẫu nhưng vẫn không có cuộc gọi vào thứ năm. Cắn răng muốn khóc, tự mình lấy ra, nhưng thay vì gọi là “ba” bà, lại cố ý vung vẩy dây thừng, phát ra âm thanh ầm ĩ. Thu thực sự bướng bỉnh, cứng đầu, bướng bỉnh. Ngay cả chú thứ ba cũng không khỏi thầm nghĩ “con bé thật tuyệt”, còn chú thứ sáu cũng không kìm được: “Sao con lại bướng bỉnh như vậy?”. Thái độ ương ngạnh, ngỗ ngược ấy là hiện thân tuyệt vời của tình cha con. Ông run sợ, mất bình tĩnh vì con không chịu nhận cha, vì nhận bao nhiêu hy vọng, bao nhiêu đau đớn, đứa con mà ông yêu thương nhất, những suy nghĩ trong lòng ông đã lạnh nhạt với con, nên trong lòng ông, anh ấy, tôi chỉ có thể trút bỏ nỗi đau của mình.
Trải qua biết bao gian khổ của chiến tranh, nhưng anh 6 – người chiến sĩ cách mạng đã không cảm nhận được gian khổ, khó khăn bằng cách thuyết phục tình cảm của người con gái mình yêu nhất trong đời. Cuộc đoàn tụ đầy nước mắt của hai cha con có sức mạnh tố cáo tội ác của chiến tranh.
Phân tích tính cách ông Sáu – Văn mẫu 20
Mỗi nhà văn đều có một vùng đất để thương nhớ. Đó là Ruan trung thành đã viết về Đồng bằng Trung tâm, và dù đau đớn, anh ấy vẫn tỏa sáng với tinh thần chiến đấu; đó là Jinlan, vùng đất luôn nhớ về sự giản dị của người dân Beixiang; đó là Ruan Guang, đó là ánh sáng . Yêu mảnh đất phương Nam trong từng hơi thở. Công tác chiến trường từ thời chống Pháp, ông hiểu và luôn viết về đời sống của đồng bào Nam Bộ. Chính vì vậy, trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, ông đã khắc họa chân dung “thầy Sáu” mang đậm chất nhân văn Nam Bộ – yêu kháng chiến chống Nhật và yêu trẻ con như sinh mệnh.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” ra đời năm 1966, khi Nguyễn Quang Sinh đang hoạt động ở chiến trường miền Nam trong những ngày ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam. Truyện ngắn dựa trên tập truyện cùng tên và được kể trong truyện Chú Ba đảm bảo tính liên kết, khách quan của mạch truyện.
Ngày đất nước có chiến tranh, anh cùng các nam nữ thanh niên xung phong lên đường chiến đấu. Ngày anh rời quê hương vì nghĩa lớn, vì đất nước, đứa con của anh chưa đầy một tuổi. Kể từ đó, mỗi lần vợ anh liều mình vì tình yêu ra thăm chồng nơi tiền tuyến, anh lại bám lấy những bức ảnh hiếm hoi của các con nhỏ làm điểm tựa tinh thần.
Chỉ có một kỳ nghỉ ngắn ngủi ba ngày, và anh ấy nóng lòng muốn về nhà, bởi vì anh ấy đã mong chờ khoảnh khắc này từ lâu. Anh nhớ gia đình, nhớ vợ nhưng nhớ nhất là đứa con gái út, anh đã chờ đợi giây phút này suốt 8 năm trời “tình cha cắn rứt”. Giây phút hội ngộ, với linh tính phụ tử và tình bạn thiêng liêng khó tả từ cái nhìn đầu tiên, ông nhận ngay đứa con thơ tám năm xa cách “Đoán là con, không đợi thuyền cập bến, ông nhảy cẫng lên .”
Mong mỏi sớm được gặp con “ông sải bước thoăn thoắt” và “vừa đi vừa cúi, đưa tay ra đón”. Tám năm nay, anh chỉ lấy ngày đoàn tụ này làm động lực phấn đấu, trìu mến gọi con trai là “Qi! Con”, nhưng điều anh đáp lại là thái độ bối rối và kỳ lạ của đứa trẻ. Anh nài nỉ, lắp bắp, run run: “Tôi đây, cậu.”
Nỗi khao khát con trai bị kìm nén bấy lâu nay đã được giải tỏa bởi đứa con đang đứng trước mặt anh, một đứa con bằng xương bằng thịt. Cảm xúc làm đỏ bừng vết sẹo dài trên má phải của anh. Đứa bé sợ hãi: “Mặt bỗng tái mét, vừa chạy vừa la lớn”. Mọi thứ thật bất ngờ, và nỗi thất vọng dường như xâm chiếm lấy trái tim anh, xé toạc “nỗi đau làm mặt anh tiều tuỵ và hai bàn tay anh như muốn gãy lìa”.
Trong ba ngày ở nhà, anh đau lòng, hụt hẫng và bất lực hơn cả khi chờ giao hàng ngoài tiền tuyến. Anh càng muốn xích lại gần, càng muốn bù đắp khoảng cách 8 năm nhưng “càng chiều chuộng cô, anh lại càng đẩy cô ra xa”. Muốn bù đắp cho sự thiếu thốn tinh thần của con trong những ngày không có bố bên cạnh, con lại càng bị xua đuổi.
Bất lực, anh chỉ còn biết “nhìn em lắc đầu cười”. Ông mỉm cười bất lực, từng giây phút trên chiến trường đều mong chờ ngày gặp lại, nhưng nhận được lại là sự xa lánh của con trai. Tuy nhiên, anh vẫn tập trung chăm sóc con cái và nuôi nấng chúng bằng tất cả tình yêu thương.
Đến bữa ăn, anh gắp một miếng trứng cá vàng to, đó là phần ngon nhất của con cá, nhưng em bé đã cố gắng đến cùng. Anh hất trứng ra bát, cơm văng tung tóe vào đĩa, anh tức giận vỗ vào mông và chửi: “Sao mày cứng đầu thế?”. Nỗi đau hai ngày này đã đưa anh lên đến đỉnh điểm, và điều đau đớn hơn nữa là chỉ còn một đêm nữa là phải trở về căn cứ, bỏ mặc vợ con tiếp tục chiến đấu.
Thời gian đoàn tụ trở nên ngắn ngủi đến kỳ lạ, ba ngày không thể so sánh với sự mất mát do cách biệt tám năm. Tưởng ba ngày này sẽ giúp anh sống với tiếng cười trong căn nhà nhỏ, với bữa cơm chiều ấm áp, thơm phức trong căn bếp quê. Khi anh muốn kéo cô lại gần hơn để bù đắp những ngày ấm áp đã bị chiến tranh cướp đi một cách lạnh lùng, thì cô lại càng thờ ơ với anh như người xa lạ.
Đã đến lúc phải nói lời tạm biệt, anh bận thu dọn đồ đạc, rồi lúc này lại chào hỏi họ hàng, họ hàng đưa tiễn, không còn thời gian để ý đến cô con gái nhỏ. Vừa định bỏ đi thì Thu đã chạy đến, quàng tay qua cổ ông gọi bố. Hai từ đơn giản đó dường như là tâm nguyện cả đời của anh. “Anh Lưu một tay bế con, tay kia lau nước mắt.”
Nước mắt anh cô đọng vô vàn cảm xúc, xúc động vì đứa con tám tuổi bị ghẻ lạnh từng chống cự quyết liệt giờ gọi “ba ơi” một cách ấm áp, vì sự lưu luyến lúc chia xa, đau đớn như niềm thân thiết nhói lên trong lòng ngực trái từng khoảnh khắc. Nếu thời gian có thể dừng lại, bạn và con trai bạn có thể sống mãi mãi trong vòng tay ấm áp này. Anh ôm chặt lấy con, cho thỏa nỗi nhớ nhung do bom đạn chiến tranh.
Được lời hứa mua chiếc lược cho con, ông trở về căn cứ, tìm được một chiếc ngà voi rồi vội vàng quay lại làm chiếc lược cho tôi. Tình yêu của anh dành cho trẻ em thấm vào từng chi tiết nhỏ, dệt thành những hình thù ngày một lớn hơn nên được chải chuốt. Tình yêu của ông dành cho con thiêng liêng, cao cả thể hiện ở “những nét uốn cong mảnh mai, từng nét khắc tỉ mỉ dành cho con”: “Thương con nhớ cha”. Chiếc lược ngà tượng trưng cho tình phụ tử bất tử, tình phụ tử thiêng liêng được ông giữ bên mình cho đến lúc qua đời và nhờ đồng đội trao cho. Có lẽ chiếc lược này cũng mang thông điệp dù ông không còn nhưng tình yêu của ông dành cho các con vẫn trường tồn.
Hình ảnh Liu Ye do Ruan Guangsheng tạo ra có đầy đủ các đặc điểm của một nhà cách mạng yêu miền Nam và yêu trẻ em. “Chiếc lược ngà” còn kể câu chuyện về tình phụ tử vĩnh cửu, thiêng liêng không chỉ của những cậu bé lên sáu tuổi mà còn của hàng vạn gia đình bị bom đạn chiến tranh tước đoạt quyền hạnh phúc.
Phân tích tính cách ông Sáu – Văn mẫu 21
“Cha là bóng cả mùa thu treo trên đầu con, suối yêu thương không cạn” (bài ca dao)
Thật vậy, nếu như tình mẫu tử ngọt ngào, bao la như biển cả bao la ôm ấp, vỗ về thì tình cha còn thiêng liêng, cao cả hơn. Đề tài tình cảm gia đình, đặc biệt là đề tài tình cha con luôn chiếm một vị trí quan trọng và ý nghĩa đối với cả tác giả và độc giả. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, nhà văn Nguyễn Quang Sinh đã thể hiện thành công tình phụ tử cao cả, đặt trong thời đại chiến tranh bùng nổ, từ đó bộc lộ biết bao cảm xúc thành lời, làm xúc động biết bao người đọc. Chiếc lược đó có cùng năm tháng với tên gọi: Chiếc Lược Ngà. Khi cảm nhận câu chuyện, độc giả sẽ có ấn tượng khó quên về nhân vật ông Lưu với tư cách là một người cha, một người lính chịu nhiều gian khổ nhưng có tình phụ tử thiêng liêng sâu sắc
Nguyễn Quang Sinh là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Tác phẩm của ông tập trung vào cuộc sống và con người Nam Bộ trong thời kỳ giữa chiến tranh và sau hòa bình. Tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sinh được viết vào thời kỳ sau giải phóng khi miền Bắc quê hương đang tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa và tăng gia sản xuất để chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh chia cắt hai miền Nam – Bắc, để cứu nước, thống nhất đất nước, bao người con miền Bắc đã phải vào rừng Trường Sơn đánh giặc cứu nước ở miền Nam khiến nhiều gia đình phải ly tán. được tách ra. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” tố cáo tội ác chiến tranh và cuộc chiến tranh phi nghĩa của giặc Mỹ đối với dân tộc ta, chia cắt đất nước ta làm đôi. Nhiều đứa trẻ phải xa cha, vợ xa chồng.
Truyện kể về người con thứ sáu của một nông dân miền Nam, một mùa thu yêu nước, bỏ nhà đi chiến đấu – một bé gái chưa đầy một tuổi. Anh không có cơ hội về nhà thăm con cho đến khi anh tám tuổi. Thu không nhận ra bố vì những vết sẹo trên mặt khiến ông không còn giống người đàn ông mà cô biết trong bức ảnh. Tôi thấy cha tôi như một người xa lạ. Khi anh nhận ra cha mình và tình cha con trở nên sống động cũng là lúc anh phải ra đi. Ở khu căn cứ, ông Sáu dành hết tình yêu thương cho các con, làm chiếc lược bằng ngà voi cho cô con gái út. Tuy nhiên, trong một trận chiến, anh đã bị giết. Trước khi nhắm mắt xuôi tay, ông chỉ kịp trao chiếc lược cho người bạn để gửi lại cho đứa con thân yêu của mình.
Tình yêu thương của anh dành cho cô con gái út được thể hiện một phần trong những chuyến thăm gia đình. Trên đường về quê thăm người thân, anh đầy cảm xúc: tình cha luôn vỡ vụn trong lòng. Sau bao nhiêu năm ở chiến khu, cuối cùng cha tôi cũng có thể về nhà. Niềm khao khát cháy bỏng trong lòng anh là được gặp con, được nghe con gọi cha, được sống trong tình cha con đã xa cách từ lâu. Nhưng mọi thứ đã đảo lộn. Trước khi kịp xuống bến, anh ta đã nhảy lên bờ và đẩy ca nô ra khỏi đường. Ông khao khát gặp lại các con, khao khát được ôm lấy những giọt máu thịt của mình sau bao năm xa cách. Đây cũng là điều đương nhiên. Anh đã xa con gái và gia đình trong tám năm. Tám năm là quá dài để níu kéo trái tim bạn. Cuối cùng, nỗi nhớ được tiết lộ. Khi nhìn thấy đứa trẻ chơi ở sân trước, anh ấy đã gọi đứa con thân yêu của mình từ tận đáy lòng: Hãy đến đón tôi! Bố ở đây! Đây là bố của tôi. Bao năm xa cách, tiếng gọi thổn thức của người cha từ trái tim người lính đã chạm đến trái tim người đọc, nhưng ông ngỡ ngàng, những đứa con cứ ngỡ mùa thu sẽ đến, ôm chặt lấy ngày chia tay, nào ngờ ông ngỡ ngàng gặp lại Tô : “Đứa bé thẫn thờ nhìn rồi hốt hoảng bỏ chạy”, để lại anh thẫn thờ, thất vọng và tuyệt vọng.
Tuy nhiên, tình yêu thương của người cha đã khiến anh trải qua cú sốc ngay giây phút đầu tiên, cái khoảnh khắc “mặt mũi tiều tuỵ đáng thương, hai tay buông thõng như đứt lìa” mà anh vẫn một mực đòi được gần con. . Những ngày ở bên tôi, trong kỳ nghỉ ba ngày ngắn ngủi, anh suốt ngày ở bên tôi không bao giờ đi đâu xa, suốt ngày chỉ biết an ủi. Anh ấy đã thử mọi cách có thể để nghe thấy âm thanh “ba”, nhưng không thành công. Khi mẹ cô ấy yêu cầu Thứ Năm gọi cho bố cô ấy ăn tối, cô ấy đã dọa đánh cô ấy để cô ấy có thể gọi cho bố một lần. Rỗng ngày thứ năm: “Tôi gọi mà người ta không nghe”. Từ “người” trong miệng khiến anh cảm thấy đau lòng và đau khổ. Nó thậm chí không yêu cầu thoát nước. Ông dở khóc dở cười, cuối cùng cũng phải cười, không giận con trai. Thật vậy, ông là một người cha tốt bụng và bao dung, chịu đựng mọi bất hạnh. Trong bữa ăn, người cha vì thương con mà cho lũ trẻ một quả trứng cá to vàng óng, tưởng bọn trẻ sẽ nhận, không ngờ bọn trẻ lại bất ngờ ném trứng ra khỏi chén. Nỗi đau dồn nén 3 ngày tràn ra, anh tức giận đến mức đánh con, đánh mất hy vọng cuối cùng là làm cha. Lúc đó anh đau lắm. Lòng anh như sa mạc khô cằn chờ đợi hơi mát của tình yêu, còn đứa con sống với anh vẫn chỉ là niềm mong mỏi, bởi đứa con bỏ xứ ra đi không một lời xin lỗi. Qua đây ta mới hiểu được những tổn thất to lớn của người lính trong Kháng chiến
Vì nghĩa vụ với đất nước, ông không thể ở bên các con. Trở lại căn cứ, anh mang theo sự hối hận vì đã đánh tôi và lời tôi dặn trước khi lên đường hãy làm cho tôi chiếc lược ngà. Ông rất vui mừng khi chỉ tìm thấy một chiếc ngà voi, và chuyên tâm vào việc làm chiếc lược: “Những lúc rảnh rỗi, ông quan sát cẩn thận và tỉ mỉ từng chiếc răng, và tay nghề của ông có thể sánh ngang với thợ bạc. Tình yêu được khắc trên chiếc lược”. lưng lược nhớ tặng và nhận Con ơi Chiếc lược chưa chải xong mái tóc con nhưng hình như nó đã lấy đi của anh phần nào cảm xúc Nó đã trở thành vật thiêng liêng, an ủi anh, vun đắp tình cha con và sức mạnh chiến đấu Mỗi đêm canh Bác chải chuốt mái tóc thêm bóng mượt Tác giả không miêu tả rõ nhưng người đọc vẫn có thể hình dung được kỷ vật nhỏ bé mà thiêng liêng ấy. Nó cũng là biểu tượng của sự trong sáng, cao quý và bất diệt về mối quan hệ giữa ông cụ sáu đời và hai cha con trẻ. Vì vậy, trước khi hy sinh, khi không thể nói lời cuối cùng, ông vẫn nhớ chiếc lược và tặng bạn mình như một cách vượt qua trên đời, một niềm hy vọng sẽ giữ mãi tình cha con Sợi dây kết nghĩa Như người cha đã nói: “Có lẽ chỉ có người cha thương con là không thể chết” Chiếc lược ngà – kỷ vật của người cha – người đã khuất mất mười năm mới tìm được kỷ vật của địa chỉ, vì “tình cha con không bao giờ mất”, tặng cho. Quan trọng hơn, nó đã sống lại trong cuộc đời của một người bạn, một người đồng chí với con. điếu văn cho tình cha con sâu nặng, vĩnh cửu nhưng cũng là điếu văn cho tình bạn trong chiến tranh, tình đồng đội trong chiến tranh nhưng cũng là lời nhắc nhở người đọc về nỗi đau mất mát, bất hạnh mà chiến tranh đã mang lại cho bao con người, bao gia đình Việt Nam.
“Chiếc lược ngà” thu hút người đọc bởi cốt truyện đơn giản, cô đọng. Tác giả đã khai thác tâm lý nhân vật một cách tinh tế, thể hiện được những chuyển biến tâm lý sâu sắc của nhân vật, khắc họa thành công tính cách một đứa trẻ vừa ngây thơ vừa bướng bỉnh khi lớn lên. Nhưng dù ở khía cạnh nào, cô ấy cũng là một đứa trẻ rất dễ thương. Sự hy sinh của ông và kỷ vật ông để lại cho con gái đã để lại cho người đọc bao niềm tiếc thương, những tiếng thở dài, mặc cảm tội lỗi chiến tranh.
Trang sách đã khép lại nhưng hình ảnh hai cha con và mối quan hệ của họ vẫn để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí người đọc. Truyện không chỉ miêu tả tình cha con mà còn lên án hiện thực, biết bao cảnh hòa bình bị chiến tranh tàn phá, bao gia đình tan nát hạnh phúc, vợ chồng ly tán, cha và con trai đã ly thân. Từ câu chuyện, ta càng cảm nhận được sự thái bình thịnh trị của đất nước, càng trân trọng tình cảm gia đình, từ đó mở rộng ra tình yêu quê hương đất nước.