9 bài đầu phân tích 2 đoạn cuối của Super Hot, dàn ý rất chi tiết. Qua đó giúp học sinh lớp 9 thấy rõ tình cảm sâu nặng, thiêng liêng của các nhà thơ Việt Nam đối với gia đình, quê hương, đất nước.

Hai đoạn cuối của ngọn lửa đã tái hiện thành công kí ức về người bà tần tảo, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Có như vậy mới giúp ta cảm nghiệm được tình yêu gia đình, quê hương, đất nước. Mời các bạn chú ý theo dõi chi tiết bài viết sau, càng học trong Tài liệu 9 càng tốt.

Phân tích dàn ý hai khổ thơ cuối bài thơ Bên bếp lửa

Một. Lễ khai trương

– Giới thiệu tác giả: Việt Nam

  • bang việt thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
  • Thơ Việt Nam có giọng điệu tình cảm, trầm lắng, cảm xúc tinh tế lôi cuốn người đọc.
  • – Giới thiệu tác phẩm: Cái lò

    – Tổng quan về hai phần trước

    b. Nội dung bài đăng

    1. Mục “Cheat… Bếp!”

    * Suy tư sâu sắc của nhà thơ về chính cuộc đời mình:

    Sau hàng chục năm thăng trầm, bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

    Bài thơ chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc về tình cảm của cháu đối với bà. Cô thường dậy sớm để giữ lửa:

    Trong căn bếp ấm áp tình thương với khoai sắn. Những nồi xôi mới, chung niềm vui đánh thức cảm xúc tuổi thơ

    2. câu thơ “Em…dậy chưa?”

    Tôi đã lớn và đang sống một cuộc sống mới vui vẻ và tuyệt vời giữa làn sương khói của hàng trăm chuyến tàu và hàng trăm ngôi nhà. Nhưng tôi vẫn không quên được bếp lửa ấm áp và khiêm nhường của bà, để rồi ngày nào tôi cũng tự hỏi: “Mai mẹ có bật bếp lên không?”. Một câu hỏi cũng là một lời khẳng định: Tôi sẽ không bao giờ quên. Và đừng bao giờ quên bà và bếp lửa, vì đó là cội nguồn, là nơi tôi lớn lên khi còn nhỏ.

    c.Kết thúc

    • Khẳng định giá trị của tác phẩm
    • Điều tôi yêu thích ở công việc của mình
    • Phân tích hai khổ thơ cuối bài thơ Bếp lửa – Ví dụ 1

      Trong đời ai cũng có cho mình những kỉ niệm tuổi thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những gì thiêng liêng, thân thiết nhất, có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người trên suốt chặng đường dài rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có một kỷ niệm đặc biệt, đó là những năm tháng được sống bên chị, cùng chị thắp lên ngọn lửa thân thương. Không chỉ vậy, tình cảm của hai đứa cháu trai còn in sâu trong tâm trí Yuedu. Ta có thể cảm nhận được điều đó từ bài thơ “Bếp lửa” của ông.

      Bài thơ “Bếp lửa” được ông viết năm 1963 khi mới 19 tuổi, đang học tập tại Liên Xô. Đoạn thơ gợi những kỉ niệm xúc động về tình cảm ông cháu, đồng thời thể hiện tình cảm yêu quý, tôn kính, biết ơn của cô cháu gái đối với bà, với gia đình, với quê hương đất nước. Cảm xúc và kỉ niệm về bà được gợi lên từ hình ảnh bếp lửa. Nơi đất khách quê người, nhìn cảnh một đám cháy lớn, tác giả chợt nghĩ đến người bà của mình.

      Hình ảnh bếp lửa trong khổ thơ đầu của bài thơ “Bếp lửa” khơi dậy trong em những kỉ niệm xúc động, bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm tuổi thơ đã sống bên em, hình ảnh em gắn liền với hình ảnh ấy. Bếp lửa tuổi thơ. Sau khi hồi tưởng lại tuổi thơ bên bà ngoại, người cháu tiếp tục suy tư, ngẫm nghĩ về cuộc đời của chính mình qua hình ảnh bếp lửa:

      “Mười năm, mấy chục năm mưa gió, đến bây giờ bà vẫn giữ thói quen dậy sớm, nhóm bếp lửa ấm đượm tình thương, củ khoai, nồi nếp mới chia sẻ niềm vui thức dậy với cả gia đình Người đàn ông. Cảm giác tuổi thơ, ôi, lạ và thần thánh—bếp!”

      Cụm từ “biết bao nắng mưa” gợi lên cuộc sống cần lao, vất vả của những người bà nhưng vẫn ngời sáng những phẩm chất thiêng liêng, cao quý của người phụ nữ Việt Nam. Từ “nhóm” (bốn lần) hàm chứa nhiều nghĩa, thể hiện ý nghĩa cao cả của công việc mẹ vẫn làm mỗi sớm tối: là người thắp lửa, là người giữ ấm. Nóng bỏng, sáng bóng trong mọi nhà. “Những cái ôm ngọt ngào” là từ miêu tả công việc của đội bếp, của đôi bàn tay nhỏ bé khéo léo, cần cù của cô giữ cho ngọn lửa luôn đầy than hồng. Bà nhóm lửa mỗi sáng, cũng thắp lên tình thương cháu, niềm vui sẻ chia và tình cảm tuổi thơ. Đến nay, hành động nhóm lửa của bà không còn là hành động tập thể thông thường trong gian bếp, mà đã trở thành một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho ý nghĩa của công việc nhóm lửa của bà. Bà muốn truyền hơi ấm tình thương cho đứa cháu trai của mình thông qua hành động thắp lửa, chia sẻ cho mọi người trong làng xung quanh. Cũng từ hình ảnh bếp lửa, bà lại càng khơi gợi kí ức tuổi thơ trong lòng người cháu, để cháu nhớ mãi nghĩa là luôn nhớ về cội nguồn quê hương, quê hương dân tộc. TÔI. Từ đó, lửa trở nên linh thiêng lạ lùng “Ôi linh thiêng lạ lùng—cái lò!”. Câu cảm thán “Ôi” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ thể hiện sự ngỡ ngàng, ngỡ ngàng, như phát hiện ra chân lí, điều kì thú trong cuộc sống đời thường. Bếp lửa và nàng như hòa làm một, cháy mãi, bất tử và thần thánh.

      Khổ cuối bài thơ là lời tâm sự chân thành của người cháu khi lớn lên và trưởng thành. Dù thời gian và không gian cách biệt bởi “trăm thuyền, trăm lửa, trăm niềm vui” nhưng người cháu vẫn một nỗi nhớ khôn nguôi về bà nội và bếp lửa:

      “Nhưng đừng quên lời nhắc – bạn có mở bếp vào ngày mai không?”

      Sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, “khói lửa” của cuộc sống hiện đại và bếp lửa mộc mạc, bình dị của bà cho thấy sức sống bất diệt của ngọn lửa bà nhóm lên mỗi sớm mai. Những buổi chiều là vĩnh hằng, sống mãi trong lòng người cháu. Ngọn lửa ấy đã trở thành ký ức tuổi thơ của chị – người truyền lửa, truyền niềm tin sống, tình yêu và sự “bền bỉ” cho thế hệ sau. Vì vậy, nhớ về bà là nhớ về bếp lửa, nhớ về cội nguồn dân tộc. Cả bài thơ kết thúc bằng một câu hỏi tu từ, thể hiện nỗi niềm bâng khuâng, nhớ nhung của người cháu về tuổi thơ, tình cảm gia đình, quê hương.

      Bài thơ “Bếp lửa” của Việt Nam là một bài thơ giàu cảm xúc. Hình ảnh bếp lửa được thể hiện độc đáo qua giọng điệu thiết tha, giàu cảm xúc; nhịp thơ linh hoạt; cộng với cách chuyển thể chồng chéo, hình tượng thơ như ngọn lửa bùng cháy, bốc cao, mỗi lúc một nồng nàn hơn. Đến đây người đọc cảm thấy thấm thía và xúc động, nỗi nhớ nhung kỉ niệm tuổi thơ của đứa cháu và tấm chân tình của nhà thơ đối với người bà thân yêu của mình. Có như vậy ta càng thấy yêu đời hơn, càng cảm nghiệm được tình yêu gia đình, quê hương, đất nước. Từ đó, ta mới hiểu hết được lời của bài hát trung thành, nó có ý nghĩa như thế nào:

      “Ai cũng chỉ có một quê hương, giống như một người mẹ, ai không nhớ thì không thể lớn…”

      Phân tích hai khổ thơ cuối bài thơ Bếp lửa – Ví dụ 2

      bang việt thuộc thế hệ các nhà thơ lớn lên trong thời kháng chiến chống Nhật. Thơ Việt nồng nàn lắm. Chỉ là tiếng gà gáy trưa nắng, chỉ là ngọn lửa cháy trong sương sớm, chỉ là tình nồng sao mà sâu. Hóa ra đôi khi những điều nhỏ bé, giản dị nhất lại chứa đựng tình cảm, cô đọng những điều thiêng liêng, thể hiện tình cảm chân thật khó quên. Bằng cách này, bài thơ về lửa đã để lại dư vị ngọt ngào trong lòng chúng ta.

      Bài thơ gợi lên những kỉ niệm cảm động về người bà nhưng cũng thể hiện tình cảm kính yêu, kính trọng, biết ơn của người cháu đối với bà, với gia đình, với quê hương, đất nước. Cảm xúc và kỉ niệm của cô được gợi lên từ hình ảnh bên bếp lửa. Trong biết bao kỉ niệm tuổi thơ, bếp lửa in đậm sâu nhất trong tâm trí người Việt

      Cả bài thơ mang bao kỉ niệm tuổi thơ của em. Chăm sóc bà, được bà dạy dỗ và chứng kiến ​​sự trưởng thành của cháu trai bà. Như một thước phim quay chậm, tất cả những kỉ niệm ùa về trong tâm trí tác giả khiến ông vừa bồi hồi vừa xúc động. Kí ức vẫn còn đó, và một vài triết lí sâu sắc chợt hiện ra trong đầu nhà thơ lúc này:

      “Hàng chục năm thử thách, gian khổ đã qua, tôi vẫn giữ thói quen dậy sớm.”

      Cảm giác “biết bao nhiêu nắng mưa” như khổ thơ đầu, đầu bài thơ, cứ lặp đi lặp lại:

      “Anh yêu em, anh biết trời mưa nhiều không”

      Đây có phải là điểm nhấn, điểm nổi bật, trong công việc khó khăn của cô ấy không? Cuộc đời của bà có thể gói gọn trong hai từ “truyền thống”. Bao nhiêu khó khăn, gian khổ, vất vả, “biết bao nhiêu nắng mưa”, mẹ âm thầm chịu đựng với sự trăn trở. chăm sóc con cái.

      Hàng chục năm trôi qua, chiến tranh chưa kết thúc, gian khổ chưa nguôi ngoai, bà vẫn “giữ thói quen dậy sớm”. Cuộc sống của cô thật khó khăn, vất vả tưởng chừng như sẽ không bao giờ có điểm kết thúc. Mẹ là người phải chịu cảnh thức khuya dậy sớm nhiều nhất trong gia đình, nhưng mẹ cũng là người thắp lên ngọn lửa yêu thương trong gia đình:

      “Bếp ấm khoai khoai yêu thương, nồi bánh nếp mới chung niềm vui đánh thức tình cảm tuổi thơ”.

      Từ “đồng” được lặp lại nhiều lần trong khổ thơ như một lời khẳng định: Cô là người đã thắp lên trong lòng tôi ngọn lửa tình yêu và đức hi sinh cao cả. Cô đã dạy tôi về tình cảm gia đình khi cùng cô thắp lên “ngọn lửa ấm áp”. Ở nhóm “Sắn ngọt” cô đã dạy các em tình yêu đất nước, yêu quê nghèo. “Niềm vui của nếp mới sóng sánh”, mẹ dạy tôi phải luôn mở lòng với mọi người xung quanh.

      Bên cạnh đó, cô ấy cũng nhắc nhở tôi rằng tôi không được quên những năm tháng yêu nhau, những năm tháng khó khăn mà cả hai cùng nhau bước qua. Không chỉ thắp lên ngọn lửa ấm áp mà còn cháy rực trong lòng mỗi người. Người bà tuyệt vời này đã đánh thức, đánh thức, giáo dục, nuôi dưỡng các cháu về thể chất và tinh thần, về những ước mơ của “tâm hồn trẻ thơ” và sự trong sáng của cuộc đời.

      Cái bếp của cô cứng, cứng, cứng. Bà ngoại nuôi cháu ngay bên bếp lửa ấy. Nhưng bây giờ, tôi đang đi du học, xa, xa bà ngoại, xa quê hương, xa quê hương. Cuộc sống của tôi giống như một câu chuyện cổ tích. Và ở đó, cô là bà tiên dịu dàng, luôn nâng đỡ tôi trên mỗi bước đường. Tôi lớn lên trên ngọn lửa của bà tôi. Sinh ra trong hoàn cảnh nghèo khó, bà đã nuôi dưỡng ước mơ du học của cháu trai mình. Tất cả những gì tôi có được ngày hôm nay đều là nhờ ngọn lửa trong tim bà đã chắp cánh cho tôi tự tin bay cao bay xa.

      Cháu trai không thể trưởng thành, dù thân thể có trưởng thành nhưng tâm hồn không thể lớn lên nếu không có ngọn lửa nuôi dưỡng, đây là giọng nói của một người bà vô cùng yêu thương. Bà nội có một sức mạnh kỳ diệu từ trái tim, đánh thức biết bao tình cảm đẹp đẽ trong lòng con, chắp cánh ước mơ bay cao, rồi mai con khôn lớn.

      Giọng thơ dạt dào, lan tỏa như lửa ướt, hay cảm xúc trào dâng trong lòng, khiến nhà thơ phải thốt lên:

      “Ôi Kỳ lạ và Thần thánh – Lửa!”

      Cả bài thơ chỉ có tám nhân vật mà tóm gọn được những suy nghĩ của tác giả về hình ảnh bếp lửa và hình ảnh người bà – người giữ lửa, người nhóm lửa, người truyền lửa ngọn lửa, và ai đã tạo ra nó. Tuổi thơ cho bạn. Bà và Hoắc đã trở thành một phần linh hồn và là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của tác giả, mặc dù bây giờ, hai người đã xa cách.

      Thật vậy, ký ức chỉ ùa về khi người ta phải xa gia đình, xa những người thân yêu. Đối với các tác giả cũng vậy.

      Dù giờ đây, dù không được gần ngoại, không được gần quê ngoại nhưng tâm hồn người cháu luôn được dẫn về nơi chôn rau cắt rốn của mẹ, nơi có sự yên tĩnh. và người bà cô đơn:

      “Giờ em đã đi xa. Trăm thuyền khói, trăm nhà cháy, baccarat mà em vẫn không quên nhắc: – Mai anh nhóm lửa nhé?…”

      Đã nhiều năm trôi qua. Đứa cháu đã lớn, bà và người yêu đã chắp cánh bay xa hơn, rộng hơn vào bầu trời, đến với cuộc sống viên mãn, tràn ngập niềm vui, hạnh phúc ở mọi nơi, mọi nơi. Nhưng tôi vẫn không thể không nhớ cô ấy, và tôi không thể quên ngọn lửa của cô ấy. Câu hỏi tu từ để suy ngẫm và độc thoại:

      “- Ngày mai bạn có bắt đầu vào bếp không?…”

      Kết thúc bài thơ rất khéo, rất hay để lại sức ám ảnh trong lòng người đọc. Người cháu đang tự nhắc mình phải luôn nhớ về “bếp lửa” quê hương và bà ngoại, đó là chỗ dựa tinh thần vững chắc của chúng tôi ở phương xa. “Lò sưởi” vừa mang tính chức năng, vừa là biểu tượng của tình yêu thương, thủy chung, cội nguồn gia đình, đất nước và sức sống bền bỉ của con người.

      Kết thúc bài thơ bằng một dấu câu đặc biệt, một dấu chấm lửng. Các dấu câu gợi những bài học đạo lí nghiêm túc: sống trung thành, tử tế; biết ơn, yêu thương gia đình, làng xóm, quê hương, cội nguồn.

      Từ tình yêu ông bà, thơ ca đã dần trở thành tình yêu quê hương, đất nước. Và hình ảnh “lò sưởi” tượng trưng cho bao kỉ niệm ấm lòng đã trở thành một niềm tin thiêng liêng, kì diệu, in đậm trong tâm hồn tác giả, là người cháu bước vào hành trang vào đời, chắp cánh những ước mơ bay xa. ..

      Phân tích hai khổ thơ cuối bài thơ bên bếp lửa – ví dụ 3

      Sinh ra và lớn lên, cô cũng mang trên mình gánh nặng, chất chứa bao kỉ niệm tuổi thơ. Thời thơ ấu trong veo bên người thân. Với riêng nhà thơ Việt Nam, ông đã có một tuổi thơ như thế, một tuổi thơ với bà ngoại, và những kỷ niệm ấy cứ đeo đẳng mãi cho đến khi ông trưởng thành, khi ông xa nhà. Ký ức của cô bên bếp lửa. Đây chính là lý do ra đời của Lò thơ.

      Trong chiến tranh, gia đình và bà nội đã ở bên nhau 8 năm, cả hai phải rời làng đi lánh nạn, cha mẹ đi công tác, trong thời gian đó, cháu trai phải ở với bà nội. Với cô ấy, tôi vào bếp với cô ấy mỗi ngày. Trong làn khói bếp chập chờn, mờ ảo ấy, một bà tiên đẹp như tiên trong những câu chuyện cổ tích thần tiên của cháu tôi. Nếu như với mỗi chúng ta, cha là cánh chim nâng cánh ước mơ đến chân trời mới, mẹ là cành hoa tươi thắm nhất trong lồng ngực, thì với người Việt Nam, bà vừa là cha, vừa là mẹ. , vừa là mẹ, vừa là chim, vừa là nhành hoa của chính mình.

      Từ những kí ức tuổi thơ, người cháu suy ngẫm về cuộc đời của chính mình. Mẹ đã hy sinh tính mạng để thắp lên ngọn lửa ấm và sáng trong gia đình:

      Trong cuộc đời trải qua mấy chục năm mưa nắng, đến tận bây giờ bà vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm lửa.

      Bà là một phụ nữ chăm chỉ với tinh thần hy sinh. Mẹ thắp lửa mỗi sớm mai không chỉ bằng ngọn rơm mà bằng ngọn lửa trong tim, ngọn lửa của sự sống, ngọn lửa của tình yêu và niềm tin. Từ một ngọn lửa bình dị và quen thuộc, Tôn Tử đã học được rất nhiều điều “kỳ diệu” và “thần thánh”. Ngọn lửa này do chính tay cô nhóm lên và nuôi lớn tuổi thơ: “nhen lại mọi cảm xúc tuổi thơ”. Chị âm thầm chịu đựng, hy sinh: “Bố đang ở chiến khu, bố còn công việc. Vì vậy, người cháu cảm nhận được sự vất vả của người bà bên ánh lửa thân thương mà quen thuộc.

      <3

      Trong bài thơ có đến mười lần người bà bên bếp lửa với vẻ đẹp của đức tính cần cù, hi sinh và tình thương yêu con cháu. Bắt đầu từ “bếp lửa”, tác giả đi đến hình ảnh “ngọn lửa”:

      <3

      Đứa cháu ngày xưa nay đã lớn và đã ra đi. Trong tương lai gần, “Baccarat”, “Baccarat”, “Baijiahuo” sẽ có một thế giới rộng lớn và những thứ mới sẽ lần lượt xuất hiện. Nhưng đứa cháu cứ hỏi: “Mai mẹ có mở bếp không?”. Ngày nào con cũng nghĩ về “ngày mai”, ngày nào con cũng nghĩ đến bà, hình ảnh người bà luôn sưởi ấm trái tim con và nâng đỡ con suốt chặng đường đời.

      bang việt đã sáng tạo ra hình ảnh “bếp lửa” mang ý nghĩa tả thực và tượng trưng. Giọng văn trầm lắng, sâu lắng lôi cuốn người đọc. Ông cũng lấy bài thơ cứu lửa Việt Nam làm triết lý thầm kín của mình. Vẻ đẹp của tuổi thơ thật đáng trân trọng, nó sẽ tiếp sức cho con người đi hết chặng đường dài rộng của cuộc đời. Văn bằng Việt Nam bày tỏ tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc tới cô. Lòng biết ơn là biểu hiện cụ thể của lòng yêu quê hương, yêu nước ở phương trời xa.

      Phân tích hai khổ thơ cuối bài thơ bên bếp lửa – văn mẫu 4

      Từ những kí ức tuổi thơ, người cháu suy ngẫm về cuộc đời của chính mình. Mẹ đã hy sinh tính mạng để thắp lên ngọn lửa ấm và sáng trong gia đình:

      Trong cuộc đời trải qua mấy chục năm mưa nắng, đến tận bây giờ bà vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm lửa.

      Bà là một phụ nữ chăm chỉ với tinh thần hy sinh. Mẹ thắp lửa mỗi sớm mai không chỉ bằng ngọn rơm mà bằng ngọn lửa trong tim, ngọn lửa của sự sống, ngọn lửa của tình yêu và niềm tin. Từ một ngọn lửa bình dị và quen thuộc, Tôn Tử đã học được rất nhiều điều “kỳ diệu” và “thần thánh”. Ngọn lửa này do chính tay cô nhóm lên và nuôi lớn tuổi thơ: “nhen lại mọi cảm xúc tuổi thơ”. Chị âm thầm chịu đựng, hy sinh: “Bố đang ở chiến khu, bố còn công việc. Vì vậy, người cháu cảm nhận được sự vất vả của người bà bên ánh lửa thân thương mà quen thuộc.

      <3

      Trong bài thơ có đến mười lần người bà bên bếp lửa với vẻ đẹp của đức tính cần cù, hi sinh và tình thương yêu con cháu. Bắt đầu từ “bếp lửa”, tác giả đi đến hình ảnh “ngọn lửa”:

      <3

      Đứa cháu ngày xưa nay đã lớn và đã ra đi. Trong tương lai gần, “Baccarat”, “Baccarat”, “Baijiahuo” sẽ có một thế giới rộng lớn và những thứ mới sẽ lần lượt xuất hiện. Nhưng đứa cháu cứ hỏi: “Mai mẹ có mở bếp không?”. Ngày nào con cũng nghĩ về “ngày mai”, ngày nào con cũng nghĩ đến bà, hình ảnh người bà luôn sưởi ấm trái tim con và nâng đỡ con suốt chặng đường đời.

      bang việt đã sáng tạo ra hình ảnh “bếp lửa” mang ý nghĩa tả thực và tượng trưng. Giọng văn trầm lắng, sâu lắng lôi cuốn người đọc. Ông cũng lấy bài thơ cứu lửa Việt Nam làm triết lý thầm kín của mình. Vẻ đẹp của tuổi thơ thật đáng trân trọng, nó sẽ tiếp sức cho con người đi hết chặng đường dài rộng của cuộc đời. Văn bằng Việt Nam bày tỏ tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc tới cô. Lòng biết ơn là biểu hiện cụ thể của lòng yêu quê hương, yêu nước ở phương trời xa.

      Phân tích hai khổ thơ cuối bài thơ Bếp lửa – Ví dụ 5

      bang việt thuộc thế hệ các nhà thơ lớn lên với mỹ học cứu nước trong thời kì kháng chiến chống Nhật cứu nước. Thơ Việt Nam có giọng điệu tình cảm, trầm lắng, cảm xúc tinh tế, từ đó lôi cuốn người đọc. Bài thơ “Bếp lửa” được viết năm 1963. Lúc bấy giờ tác giả còn là sinh viên luật đang du học ở nước ngoài, qua những kỉ niệm chân thành và cảm động, tác giả đã bày tỏ tình cảm sâu nặng của mình đối với ông bà. Hai phần cuối của bài tiểu luận này làm rõ điều này.

      Phần đầu là những suy ngẫm sâu sắc của nhà thơ về chính cuộc đời mình:

      Sau hàng chục năm thăng trầm, bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

      Một lần nữa tác giả khẳng định cuộc sống của chị còn nhiều vất vả thiếu thốn “bận rộn, biết bao nhiêu nắng mưa”. Bà cần mẫn, đảm đang, chịu khó, thức khuya dậy sớm lo cho con cháu. Bài thơ chứa đầy ý nghĩa sâu sắc rằng đứa cháu yêu bà. Cô thường dậy sớm để giữ lửa:

      Trong căn bếp ấm áp tình thương với khoai sắn. Những nồi xôi mới, chung niềm vui đánh thức cảm xúc tuổi thơ

      Từ “nhóm” được lặp lại 4 lần liên quan đến hành động nhóm bếp, nhóm lửa của cô bé. Cô ấy đã nhóm gì? Một là xây bếp “ấm nồng” để sưởi ấm cho ông bà bằng hơi sương sớm lành lạnh. Người bà vào bếp nấu sắn, nấu sắn cho đứa cháu ăn cho đỡ đói, cho đứa cháu nhỏ hương vị ngọt ngào và tình yêu vô bờ của sắn. Rồi thay “nồi cơm mới vui” của bà đã dạy ông phải mở lòng với mọi người xung quanh, đoàn kết, gắn bó làng xóm. Cuối cùng là “Nhóm cảm xúc tuổi thơ” – cô không chỉ là người chăm sóc cơ thể anh, mà còn là người khiến tuổi thơ anh thêm tươi đẹp, lung linh. Theo dòng suy nghĩ này, nhà thơ đi đến một sự khái quát rất tự nhiên và logic:

      Hỡi ngọn lửa kỳ lạ và thánh thiện!

      Chính xác. Bếp lửa bình dị, thông dụng trong mỗi gia đình Việt Nam, nhưng bếp lửa cũng thật cao quý, huyền diệu và thiêng liêng, bởi nó luôn gắn liền với bà – người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa và tạo nên thời đại của mình. bài thơ. Ngọn lửa này không chỉ được thắp lên bằng nhiên liệu bên ngoài, mà bằng ngọn lửa bên trong của cô. Lửa đã trở thành một phần tâm hồn tôi, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của tôi. Không chỉ vậy, qua ngọn lửa của chị, người đọc còn cảm nhận được sâu sắc tâm hồn của một con người lam lũ vất vả nhưng giàu lòng yêu thương.

      Mười lần lửa trong bài thơ có nghĩa là tác giả nhắc đến bà mười lần. Dù bà ở đâu trên thế giới này, bà đã, đang và sẽ luôn là người quan trọng nhất đối với tôi. Bốn câu kết bài thể hiện sâu sắc tình cảm kính yêu, kính trọng và biết ơn đối với đứa cháu nhỏ đã đi xa:

      Tôi đi đây. Có trăm loại khói xấu, trăm loại nhà, trăm cách kiếm tiền, nhưng tôi vẫn không quên nhắc nhở họ. Bạn có mở bếp vào ngày mai không?

      Tôi đã lớn và đang sống một cuộc sống mới vui vẻ và tuyệt vời giữa làn sương khói của hàng trăm chuyến tàu và hàng trăm ngôi nhà. Nhưng tôi vẫn không quên được bếp lửa ấm áp và khiêm nhường của bà, để rồi ngày nào tôi cũng tự hỏi: “Mai mẹ có bật bếp lên không?”. Một câu hỏi cũng là một lời khẳng định: Tôi sẽ không bao giờ quên. Và đừng bao giờ quên bà và bếp lửa, vì đó là cội nguồn, là nơi tôi lớn lên khi còn nhỏ. Chúng tôi được biết bài thơ này được tác giả viết khi ông đang du học ở nước ngoài. Du học ở Liên Xô, nơi đất nước xa lạ, tác giả nhớ bếp lửa gợi nhớ quê hương, với niềm vui sum họp và nỗi nhớ nhung, đúng như nhà thơ Ilya Erenbua đã viết: “Yêu nhà, yêu làng, yêu quê hương. .. …và, yêu nước.

      Bếp lửa là một bài thơ hay, kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố biểu cảm, tự sự và trữ tình, với nhiều hình ảnh tượng hình độc đáo. Tình bà cháu trong bài thơ là một tình cảm thiêng liêng và cảm động. Cô ấy đã hy sinh chân thành cho những đứa cháu của mình. Bà là nơi nương tựa của con tôi từ một tuổi thơ đầy bi kịch trước những mất mát, đau thương, người cháu dù đã xa vòng tay bà nhưng vẫn nhớ về bà với niềm tin yêu và lòng biết ơn sâu sắc. Ngọn lửa cô truyền cho tôi, tôi vẫn vẹn nguyên như ngọn lửa bất diệt. Đoạn thơ này khơi dậy trong lòng người đọc một tình cảm đẹp đẽ về quê hương, đất nước.

      Phân tích hai khổ thơ cuối bài thơ Bếp lửa – Ví dụ 6

      Hai khổ thơ cuối của bài thơ tái hiện lại những kỉ niệm tuổi thơ vất vả của người bà tần tảo trong tâm trí người cháu. Hình ảnh bà đã trở thành một phần ký ức, một mảnh ghép trong tâm hồn tôi, đến nỗi ký ức về sự hy sinh của bà khiến tôi nhớ mãi sau này khi lớn lên xa quê hương. tình cảm ấm áp, không thể quên hình ảnh quê hương thân quen.

      Nàng trải qua mấy chục năm mưa gió, trải qua mấy chục năm nắng mưa, cho đến bây giờ

      ………

      “Bây giờ em đã đi xa. Trăm thuyền khói lửa, trăm nhà trăm tiệc vui, nhưng anh vẫn không quên nhắc em: – Mai anh mở bếp nhé?… “

      Trong đời ai cũng có cho mình những kỉ niệm tuổi thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những gì thiêng liêng, thân thiết nhất, có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người trên suốt chặng đường dài rộng của cuộc đời. Việt Dip cũng có những kỷ niệm của riêng mình, những năm tháng sống bên bà, trong gian bếp thân thương cùng bà. Không chỉ vậy, tình cảm của hai bà cháu đã in sâu vào tâm trí người Việt. Ta có thể cảm nhận được điều đó từ bài thơ “Lò sưởi” của ông.

      Giờ đây, khi tôi cách xa nửa vòng trái đất, bang việt luôn hướng trái tim tôi về phía cô ấy :

      “Giờ em đã đi xa. Trăm thuyền khói, trăm nhà cháy, baccarat mà em vẫn không quên nhắc: – Mai anh nhóm lửa nhé?…”

      Rời bỏ vòng tay yêu thương mà đi đến một thế giới mới, chính tình yêu thương của hai bà cháu đã sưởi ấm trái tim tác giả, luôn nhớ nhung góc bếp phơi nắng mưa. Cháu sẽ không bao giờ quên, bởi đó là cội nguồn, là nơi cháu đã lớn lên thuở ấu thơ.

      Bài thơ này kết hợp nhuần nhuyễn giữa diễn với kể, tả, bình. Thành công của bài thơ này nằm ở việc tạo nên hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, nó như một điểm tựa để khơi gợi mọi kỉ niệm, tình cảm, nhớ nhung về ông bà và cháu. Đồng thời thể hiện lòng kính trọng, sự kính trọng và lòng biết ơn đối với bà, với gia đình, với quê hương, đất nước.

      Đọc xong bài thơ này, nhắm mắt lại và tưởng tượng, hình ảnh bếp hồng và dáng người bà ngồi thẫn thờ bên cạnh hiện ra ngay trong tâm trí. “Hình ảnh sóng kép này xuất hiện rất sống động và rõ ràng, như thể được chạm khắc, xúc giác…..”

      Bài thơ Lò sưởi với những tình cảm sâu sắc sẽ mãi sống mãi trong lòng người đọc, bởi nơi đây gợi lên trong chúng ta một tình yêu cao cả đối với gia đình và những người cùng chung sống với nó. Tuổi thơ hồn nhiên của tôi.

      Phân tích hai khổ thơ cuối bài thơ Bên Bếp Lửa – Văn mẫu số 7

      Bài thơ “Bếp lửa” của văn bằng Việt Nam, được viết năm 1963, khi tác giả đang học trường luật ở nước ngoài, qua dòng hồi tưởng của tác giả đã thể hiện tình cảm sâu nặng của ông bà đối với ông bà thật chân thành và cảm động. Điều này được thể hiện rõ qua hai khổ thơ cuối của bài thơ nói về bếp lửa.

      Cả bài thơ, hình ảnh bếp lửa xuất hiện mười lần thì tác giả cũng mười lần nhắc đến bà. Giọng thơ nhanh, mạnh, như những đợt sóng trào dâng vỗ vào bãi biển xanh thẳm của tâm hồn em. Dù bà ở đâu trên thế giới này, bà đã, đang và sẽ luôn là người quan trọng nhất đối với tôi. Bạn đã trở thành một người không thể thiếu trong trái tim tôi. Giờ đây, khi tôi cách cô ấy nửa vòng trái đất, bang viet luôn hướng trái tim tôi về cô ấy. Khổ thơ cuối vẫn nối tiếp nỗi nhớ da diết, thầm thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của tác giả đối với người bà đã từng cưu mang, che chở cho mình:

      “Anh đi đây. Trăm thuyền khói lửa, trăm nhà trăm tiệc vui. Anh không quên nhắc em ngày mai nhóm bếp sao?”

      Giờ đây, tác giả đã rời xa quê hương, đã lớn và rời xa vòng tay của bà ngoại. Người cháu vừa mở mắt đã thấy “Khói trăm thuyền”, “Cháy nhà trăm nhà”, “Trăm nanh”. Cuộc sống vật chất hơn nhưng vẫn không thoát khỏi cảm giác nhớ nhung. Tình cảm ấy đã trường tồn trong tâm hồn tác giả. Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ hay, có sức ám ảnh ám ảnh tâm trí người đọc. Nhà thơ hỏi như vậy, đồng thời tự nhắc mình phải luôn nhớ đến ngọn lửa quê hương và người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thần của người cháu ở phương xa. Đó là một ký ức nghiêm trọng, đau đớn. Hình ảnh bếp lửa cứ hiện lên trong bài thơ không chỉ là một hình ảnh hết sức cụ thể mà còn có sức khái quát sâu sắc. “Chiếc lư đồng” đã trở thành biểu tượng của tấm lòng người bà và sẽ mãi sưởi ấm trái tim thi nhân. Không ngờ một ngọn lửa bình thường như hàng trăm ngàn chiếc bếp khác lại có tác dụng xúc động đến thế.

      Rời bỏ vòng tay yêu thương để đi đến một thế giới mới, chính tình cảm giữa hai bà cháu đã sưởi ấm trái tim tác giả trong mùa đông nước Nga giá lạnh. Đứa cháu nhỏ ngày nào giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng bà vẫn nhớ về góc bếp, nơi có những ngày nắng, những ngày mưa. Cháu sẽ không bao giờ quên, và không thể nào quên, bởi đó chính là cội nguồn, là nơi cháu đã lớn lên trong tuổi thơ của mình.

      Đứa cháu ngày xưa nay đã lớn và đã ra đi. Trong tương lai gần, “Baccarat”, “Baccarat”, “Baijiahuo” sẽ có một thế giới rộng lớn và những thứ mới sẽ lần lượt xuất hiện. Nhưng đứa cháu cứ hỏi: “Mai mẹ có mở bếp không?”. Ngày nào con cũng nghĩ về “ngày mai”, ngày nào con cũng nghĩ đến bà, hình ảnh người bà luôn sưởi ấm trái tim con và nâng đỡ con suốt chặng đường đời.

      Khổ thơ cuối bài thơ “Bếp lửa” thể hiện triết lí sâu sắc từ cảm nhận của người cháu: những gì thân thiết nhất của tuổi thơ đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ bước chân người trong suốt. Hành trình dài của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ tình yêu thương ông bà, cha mẹ và từ những điều gần gũi, bình dị nhất.

      Phân tích hai khổ thơ cuối bài thơ bên bếp lửa – Văn mẫu 8

      Có lẽ khi nhắc đến hình ảnh bếp lửa, mỗi chúng ta sẽ sống lại ký ức tuổi thơ trong mùi cay nồng của khói bếp. Vì vậy, trong hai khổ thơ cuối của bài thơ “Bếp lửa”, nhà thơ Việt Nam đã tái hiện hình ảnh người bà tảo tần hôm qua, đầy tin tưởng và tình cảm chân thành.

      Tác giả Yue Yue, sinh năm 1941, thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kháng chiến chống Nhật. Thơ ông có giọng mềm mại, giọng điệu tình cảm, ngôn ngữ trung dung, hệ thống thi pháp nhiếp ảnh độc đáo. Tác phẩm “Bếp lửa” được ông sáng tác năm 1963. Năm 1968, tác phẩm được đưa vào tập “Hương cây bếp lửa” với hình thức kết hợp linh hoạt giữa thể thơ thất ngôn bát cú.

      Đến với khổ thơ cuối của tác phẩm, nhà thơ thể hiện niềm mong nhớ của nhà thơ đối với người bà thân yêu của đứa cháu, niềm mong nhớ bếp lửa trong mỗi gia đình Việt Nam:

      “Bà biết mấy chục năm nắng mưa, đến bây giờ bà vẫn giữ thói quen dậy sớm, nhóm lửa ấm, nhóm yêu thương, nhóm khoai, nhóm nếp mới, sẻ chia hạnh phúc , cả đánh thức những cảm xúc tuổi thơ… ôi, lạ lùng và thiêng liêng – lửa!”

      Bà làm lụng, cặm cụi, thức trắng đêm để lo cho con cháu. Để rồi mỗi khi nghĩ đến, cháu tôi vô cùng cảm kích, biết ơn bà nội. Mẹ không màng khó khăn, mệt nhọc “đời còn biết bao nhiêu nắng mưa” để thổi nên nồi cơm đầy ắp yêu thương. Trong khi miêu tả cuộc sống khó khăn của bà, tác giả cũng thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc về tình cảm của người cháu đối với bà. Mấy chục năm trôi qua, thói quen của bà vẫn không thay đổi, “thói quen đầu đời” làm công việc thắp lửa và truyền niềm tin yêu cho đứa cháu nhỏ. Bà thắp lửa không chỉ bằng đôi bàn tay yếu ớt mà bằng cả tấm lòng nhân hậu với con cháu. Bà “Quả cầu lửa” và “Bánh nếp” là những hình ảnh chân thực cảnh bà vào bếp nhóm lửa. Cô cũng dùng “tình cảm cộng đồng”, “tình cảm cộng đồng” như những hình ảnh ẩn dụ cho công việc thiêng liêng, cao quý, cô đã khơi dậy tình yêu thương, sẻ chia trong lòng các cháu và những người xung quanh. Bởi vậy mà bếp lửa thật bình dị, bình dị và phổ biến trong mỗi mái nhà Việt Nam, nhưng cũng thật huyền diệu và thiêng liêng đến nỗi nhà thơ đã phải thốt lên: “Ôi, lạ lùng và linh thiêng – bếp lửa”. Ngọn lửa linh thiêng, huyền diệu, như luôn gắn liền với bà – bà đã giữ lửa, thắp sáng và lan tỏa, tạo nên tuổi thơ của những đứa cháu. Lửa đã trở thành một phần tâm hồn tôi, một phần không thể thiếu trong cuộc sống và tinh thần của tôi.

      Trong 4 câu thơ cuối, nhà thơ Việt Nam bày tỏ niềm nhớ nhung, kính yêu và biết ơn sâu sắc đối với người bà:

      “Em giờ đã ở phương trời xa, trăm thuyền bốc khói, trăm lửa, trăm tiệc, nhưng em không quên nhắc: -Sáng nay bếp có mở không em? ”

      Tác giả gợi dòng chảy của thời gian và sự biến đổi của không gian, miêu tả hiện thực của đứa cháu ngày xưa giờ đã trưởng thành và ra đi “Trăm tàu ​​chìm trong khói lửa”, “Trăm nhà cháy, trăm nhà của những nơi vui thú” , nhưng kí ức tuổi thơ của cô và trò không bao giờ phai nhạt. Cuộc đời của cháu trai đã trải qua những thay đổi kinh thiên động địa, tìm được nhiều niềm vui mới nhưng cháu chưa bao giờ quên niềm đam mê của bà. Bếp lửa ấy đã trở thành ký ức tuổi thơ đẹp đẽ và là niềm tin tiếp sức cho các cháu trên hành trình dài trưởng thành. Kết thúc câu thơ hàm chứa đạo lý trung nghĩa, cao cả của người Việt Nam “uống nước nhớ nguồn”. Đạo lý này đã được thấm nhuần trong lòng mỗi người từ thuở ấu thơ, trở thành động lực để mỗi người bay cao, bay xa hơn trong hành trình tìm kiếm lẽ sống của chính mình.

      Nhà thơ kết hợp giữa kể, kể, miêu tả, bình luận và các cách biểu đạt khác, đồng thời sử dụng hình ảnh thơ độc đáo, giọng thơ mới mẻ, trẻ trung để miêu tả hình ảnh người bà và nỗi nhớ của người cháu đối với bà. Từ đó, nhà thơ thể hiện tình cảm thiêng liêng của mình đối với gia đình, quê hương, đất nước, bởi nhớ bà và nói đến bếp lửa là cái gốc của nhớ dân tộc.

      Có thể nói, nghĩ đến bà và bếp lửa, cảm xúc của nhà thơ như trào dâng. Hai khổ thơ cuối của bài thơ như tổng kết lại lời ca ngợi, khẳng định chị là người phụ nữ cần cù, đầy đức hi sinh, luôn quan tâm lo lắng cho mọi người, không quản ngại nắng mưa, mệt nhọc.

      Cảm nghĩ về hai câu thơ cuối bài “Bếp lửa”

      Bằng Việt là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Nhật. Thơ Việt Nam trong sáng, minh mẫn thường vẽ về những kỷ niệm tuổi thơ và khơi gợi những ước mơ tuổi trẻ. Bài thơ “Bếp lửa” là tác phẩm văn học đầu tiên bằng tiếng Việt. Đoạn thơ này đánh động sâu sắc tình cảm của nhà thơ đối với người bà và bếp lửa. Trong đó, hai khổ thơ cuối của bài thơ là suy ngẫm về bà và bếp lửa của nhà thơ:

      Anh có biết bao nhiêu nắng mưa trong đời…………..- Mai em mở bếp nhé? …

      Bài thơ “Bếp lửa” được viết năm 1963, khi tác giả 19 tuổi và đang học luật ở Liên Xô. Tác phẩm được viết theo thể thơ tự do, nằm trong tập thơ đầu tay “Hương cây – Bếp lửa” của Việt Nam và Lưu Quang Vũ. Đoạn thơ kết hợp hài hoà giữa biểu cảm với kể, tả, thuyết minh, xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, lấy hình ảnh đó làm điểm tựa để khơi gợi mọi cảm xúc, suy nghĩ của ông và cháu.

      Ở phần một, bản tiếng Việt đưa người đọc vào ký ức của những năm tháng anh chung sống với cô, qua đó bày tỏ tình yêu thương, thấu hiểu những vất vả mà cô phải chịu đựng, đồng thời cảm nghiệm và biết ơn tất cả những gì cô đã làm cho mình. Tình cảm ấy được tiếp tục ở hai khổ thơ cuối khi nhà thơ bày tỏ những suy tư của mình về cuộc đời của nàng.

      Vì bát cơm, manh áo của con cháu trong gia đình, bà đã vất vả, khổ cực, thức trắng đêm ngày. Để rồi mỗi lần nghĩ lại em lại vô cùng cảm kích và biết ơn anh:

      Sau hàng chục năm thăng trầm, bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

      Nghệ thuật đảo ngữ: đặt từ “trục trặc” ở đầu câu, kết hợp với các từ như “đời bà”, “mấy chục năm đã trôi qua” nhằm thể hiện sâu sắc hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa”. Và đã diễn tả đầy đủ cuộc đời đầy gian nan, vất vả, và cực nhọc của cô. Đồng thời, thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về cảm giác của bạn.

      Trạng ngữ “chưa” khẳng định thói quen không bao giờ thay đổi của bà “sáng thói quen” làm công việc nhóm lửa, gieo niềm tin yêu cho các cháu. Có thể nói tình cảm mà tác giả dành cho cô thể hiện qua từng câu chữ. Loại tình yêu này đơn giản và chân thành nhưng sâu sắc và nghiêm túc.

      Không chỉ nhóm lửa bằng đôi bàn tay xương xẩu mà bà còn dùng tất cả tấm lòng nhân ái với con cháu:

      Trong căn bếp ấm áp tình thương với khoai sắn. Những nồi xôi mới, chung niềm vui đánh thức cảm xúc tuổi thơ

      Từ “nhóm” được lặp lại 4 lần gợi nhiều liên tưởng: “nhóm bếp lò” và “nhóm nồi xôi” là những hình ảnh chân thực về cảnh bà đang nhóm bếp và nhóm lửa. “Nhất trí” và “Vạn vật hồi sinh” là ẩn dụ cho công việc thiêng liêng và cao cả: mẹ khơi dậy tình yêu thương và sự chia sẻ trong tôi và những người xung quanh.

      Chính từ đó, theo suy tưởng, nhà thơ đi đến một khái quát rất tự nhiên và hợp lý: “Hỡi ngọn lửa thần tiên và huyền diệu”. Vâng, bởi bếp lửa tuy bình dị, dân dã và thông dụng trong mọi mái nhà Việt Nam, nhưng bếp lửa cũng thật cao quý, huyền diệu và thiêng liêng, bởi nó luôn gắn liền với bà – người giữ, người nhóm lửa, người truyền lửa, người sáng tạo. hay tuổi thơ của tôi. Lửa đã trở thành một phần tâm hồn tôi, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của tôi.

      Có thể nói, nghĩ đến bà và bếp lửa, cảm xúc của nhà thơ như trào dâng. Kết bài bằng câu thơ ca ngợi, khẳng định chị: Chị là người phụ nữ cần cù, giàu đức hi sinh, luôn quan tâm lo lắng cho mọi người.

      Bốn câu kết bài thể hiện tình cảm yêu thương, kính trọng và biết ơn một cách trìu mến đối với đứa cháu nhỏ đã đi xa:

      Tôi đi đây. Baichuanyan, Baijiahuo, Baifaghuan, nhưng tôi không quên nhắc nhở – mở bếp vào ngày mai nhé?

      Dấu chấm trong bài thơ chia cả bài thơ thành hai câu tự sự, vừa hàm ý dòng chảy của thời gian, vừa là sự biến đổi của không gian, đồng thời khắc họa một hiện thực: đứa cháu ngày xưa đã khôn lớn trưởng thành, đã mọc thêm đôi cánh để bay đi , và quen thuộc với tầm nhìn không gian mở.

      Từ “trăm” mở ra cả một thế giới rộng lớn, những điều mới mẻ hiện ra vô tận. Câu “có” kết hợp với phép điệp ngữ và câu hỏi tu từ ở cuối câu cho thấy cuộc đời người cháu đã có những thay đổi lớn và tìm được nhiều hạnh phúc mới, khẳng định người cháu mãi mãi không quên ngọn lửa của người bà này. loại niềm tin cho phép cháu trai đi hết con đường.

      Tình yêu thương kính trọng bà đã biến thành sự gắn bó tình cảm gia đình, tình yêu và nỗi nhớ quê hương đất nước, thành lòng biết ơn của những người con đất Việt đã bảo vệ cội nguồn nơi đó. “Bếp lửa” đã thực sự trở thành một nỗi nhớ da diết, một niềm tin thiêng liêng kì diệu, đồng hành cùng nhà thơ trong suốt cuộc đời.

      Vì vậy, ở hai đoạn cuối bài thơ “Bếp lửa”, thông qua các phép tu từ ẩn dụ, phép điệp ngữ, cách chọn từ, hình ảnh, người đọc có thể cảm nhận trọn vẹn nỗi nhớ mong đời cháu và bày tỏ nỗi nhớ da diết của nhà thơ. cho cô ấy. Đọc những vần thơ này, ta cảm nhận được tình yêu thương, sự hiểu biết và lòng biết ơn vô hạn của các nhà thơ Việt Nam đối với bà, với Tổ quốc. Tình yêu này đáng quý biết bao.

      Qua hồi tưởng về đứa cháu đã lớn và nhớ lại những kỉ niệm xúc động về người bà và bếp lửa, nhà thơ đã thể hiện tình cảm sâu nặng, thiêng liêng của mình đối với gia đình, quê hương, đất mẹ. Câu thơ chứa đựng đạo lý trung nghĩa, cao cả của người Việt Nam “uống nước không quên nguồn”. Loại đạo lý này đã được thấm nhuần vào sâu thẳm trái tim mỗi người từ khi còn nhỏ, giống như chắp cánh cho mỗi người để bay cao hơn và xa hơn trên hành trình của cuộc đời.

Kiểm tra tiếng Anh trực tuyến

Bạn đã biết trình độ tiếng Anh hiện tại của mình chưa?
Bắt đầu làm bài kiểm tra

Nhận tư vấn lộ trình từ ACET

Hãy để lại thông tin, tư vấn viên của ACET sẽ liên lạc với bạn trong thời gian sớm nhất.