Phân tích đoạn 2 trong bài văn của Hoạt Hiếu là tài liệu học tập hữu ích dành cho các bạn, bao gồm dàn bài và các bài văn mẫu phân tích đoạn 2. Phân tích đoạn văn hay nhất 2.

  • 4 ý kiến ​​đầu tiên của tôi về đoạn đầu tiên của truyền thuyết ngô siêu tốt
  • 7 bài báo hàng đầu phân tích tâm trí con người trong lọ siêu bột bắp
  • <3

    1. Dàn bài đoạn 2

    Một. Giới thiệu:

    Giới thiệu tác giả, tác phẩm Đại binh ngô và đoạn trích.

    b. Văn bản:

    Tác giả vạch trần tội ác của kẻ thù theo trình tự hợp lý:

    -Tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của kẻ thù

    + Vạch trần luận điệu “diệt hồ” của giặc minh (việc cướp ngôi nhà trần ở hồ chỉ là cái cớ để giặc nhân cơ hội bẻ măng)

    + Đã có âm mưu thôn tính nước ta từ lâu.

    – Tác giả vạch trần bộ máy cai trị vô nhân đạo của kẻ thù

    + Đánh thuế nặng nề.

    + Cướp tài sản, bắt chim về

    + Ép buộc người dân làm những việc nguy hiểm (tìm ngọc trai, đào cát tìm vàng…).

    -Tác giả lên án mạnh mẽ những việc làm xấu xa của bọn giặc.

    + Hủy diệt sự sống của con người bằng tội ác diệt chủng, tàn sát người vô tội (nung da đen, chôn con đỏ…)

    + Phá hoại môi trường sống (nguy hại cho cả côn trùng và thực vật)

    =>Đây là bản cáo trạng hùng hồn về tội ác của kẻ thù.

    c.Kết luận:

    Nêu lại giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn trích và nêu chủ đề của đoạn trích.

    2. Phân tích đoạn 2 của bài cáo lớn – Mẫu 1

    Nguyễn là một trong ba danh nhân văn hóa dân tộc được UNESCO công nhận, đồng thời là nhà quân sự kiệt xuất, nhà tư tưởng chính trị kiệt xuất của Việt Nam. Anh sinh ra và lớn lên trong một đất nước đầy biến động – trần nhà thưa thớt, những ngôi nhà bên hồ bị xáo trộn, những cuộc xâm lăng hoang dã – một hoàn cảnh càng làm bùng cháy thêm lòng yêu nước vốn đã thấm nhuần trong tư duy truyền thống. thị tộc. Công lao của Nguyễn Trãi thật lớn lao khôn tả, ông không chỉ là một cán bộ có công trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà những việc làm của ông còn có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, đem lại thái bình cho dân tộc. Quê hương, hai tác phẩm tiêu biểu “Quân trung tư mệnh tập” và “Đại cao binh Ngô”. Đặc biệt, tác phẩm “Đào Bình ngô” được coi là “Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai” của dân tộc có giá trị chính trị, lịch sử và văn học. Nó không chỉ là bản anh hùng ca cổ xưa về tư tưởng tự cường dân tộc mà còn là lời tố cáo quân xâm lược, vạch trần tội ác, sự nhơ nhớp của quân xâm lược:

    “…tàn ác quá, núi Chư Công không ghi hết tội ác

    Dơ bẩn, Biển Đông không hết mùi tanh…”

    Đoạn hai của tác phẩm, lập luận sắc bén, dẫn chứng xác đáng đã vạch trần âm mưu và sự tàn ác của bọn ngoại xâm.

    Nguyễn Trãi nổi tiếng “Tàn ác, núi Trúc Nam không nhớ hết tội” và “Nước biển Đông nhơ chẳng rửa sạch mùi”. Zhu, bức ảnh này thể hiện sự phẫn nộ tột độ của người dân trước những tội ác mà quân xâm lược đã gây ra. . Không những quá tàn bạo mà kẻ thù còn thực hiện những chính sách hết sức bẩn thỉu, đê hèn, xảo quyệt hòng bóp chết ý chí, tinh thần chiến đấu của dân tộc và âm mưu biến nước ta thành một vùng, đồng hóa nhân dân ta thành người Hán, biến người Việt từ trời và đất tồn tại mãi mãi. Chính vì lẽ đó, tác giả Nguyễn đã dành nhiều chỗ để luận tội kẻ thù tàn ác, xảo quyệt với những lí lẽ và dẫn chứng hùng hồn.

    Chính sử Việt Nam đã ghi rõ những chính sách cực kỳ thâm độc đã cai trị đất nước ta gần hai chục năm qua, nhưng phần lớn đều được biên soạn dựa trên ghi chép của họ Nguyễn, đặc biệt là “Đa Cao Bình Ngô”, cũng chính vì vậy của họ Nguyễn Nhà hiền triết là người đã sống và trực tiếp chiến đấu khi nước ta bị giặc ngoại xâm. Từ đó có thể thấy rằng những lập luận trong báo cáo lớn là rất thực tế và chiến đấu. Tác giả tố cáo tội ác man rợ của quân xâm lược qua các tác phẩm của mình:

    “…Ngay bây giờ:

    Mọi người thật phiền phức

    Để lại nỗi bất bình của người dân trong nước

    Quân đội thật điên rồ

    Bọn gian ác bán nước vì…”

    Bắt đầu từ đây, từng câu, từng chữ trong tác phẩm như một nét mực phác họa nên bức tranh về sự lũng đoạn, xảo quyệt, “mượn măng mọc” và những kẻ thù nham hiểm của đất nước. Chúng dùng con bài chủ chốt là trần thiêm binh để áp dụng chiến lược xâm lược “câu hồ diệt hồ”, mua chuộc bọn quý tộc trần gian để đô hộ nước ta về phía chúng. Chính sách của họ đầy dối trá và lừa lọc :

    “…cùng trời vượt biển, cùng trời vượt biển

    Bán hết cuộc chiến hai mươi năm…”

    Từ đó, người đọc thấy rõ sự hèn hạ, đồi bại và xảo quyệt của quân xâm lược:

    “… Đánh bại con người và hủy diệt thế giới

    Thuế cao, trong sạch, không có núi…”

    Tóm lại, mục đích duy nhất của quân xâm lược nhà Minh đặt chân lên lãnh thổ Đại Việt là mưu đồ bá quyền, tìm cách xóa sổ, thôn tính nước ta. Cái cớ của chúng không lừa được người dân Việt Nam, thủ đoạn tội ác của chúng là “bẩn thỉu, biển Đông cũng không rửa sạch mùi”

    Sau khi chỉ ra âm mưu và sự bẩn thỉu của kế hoạch xâm lược của quân Đồng minh, nói cách khác, tác giả bắt đầu liệt kê danh sách tội ác của chúng:

    “… nướng người da đen trên lửa

    Hãy chôn con trong hố sâu tai họa…”

    Bọn giặc dã man tàn sát người dân vô tội không từ thủ đoạn nào, không chỉ để thỏa mãn bản chất dã thú, hung ác mà còn âm mưu thực hiện tội ác diệt chủng đồng bào miền Nam, bắt những ai không tuân lệnh chúng phải chết. Không chỉ vậy, để chống lại sự tàn bạo của quân xâm lược, họ không ngần ngại nhấn chìm cuộc khởi nghĩa bằng những cuộc tắm máu, gây ra cảnh quân phiệt. Không những thế, kẻ thù còn ra sức cướp đoạt của cải, sản vật quý hiếm của nước phương Nam để thỏa mãn nhu cầu vật chất, hưởng thụ xa hoa, bóc lột, ép buộc người Việt phải săn lùng sản vật. Đừng ngần ngại vinh danh bằng mạng sống của bạn:

    “…dân bị ép ra khơi lấy ngọc trai, chán đổi cá mập, cá mập

    Kẻ nào đem vào núi sâu đãi vàng sẽ hại rừng sâu nước độc

    Lấy nông sản, bắt chim và trốn vào lưới

    Cản dân, bẫy hươu đen, đặt bẫy ở đâu…”

    Bằng phép liệt kê, tác giả đã khắc họa một cách tinh tế tấn bi kịch đau thương do ách thống trị tàn bạo, vô đạo đức của kẻ thù gây ra. Không những thế, bọn xâm lược còn thi hành hàng loạt thủ đoạn man rợ khác nhằm bóc lột sức lao động, vắt kiệt sức sống của nước ta, đồng thời hủy hoại đời sống của nhân dân:

    “…thậm chí có thể gây hại cho côn trùng và thực vật

    Cái nhún vai cho bà góa nghèo…”

    Sau đó:

    “…nay xây nhà, mai điền thổ, hợp ý làm gì

    Gánh nặng

    Từ bỏ toàn bộ ngành nông nghiệp…”

    Mọi tội ác của chúng đều được vạch ra rõ ràng, chứng minh bằng những bằng chứng xác đáng, không thể chối cãi, rồi tập trung vào hình ảnh đối lập giữa kẻ man rợ dũng mãnh và con người nhỏ bé đã dày vò, vắt kiệt sức lực, mồ hôi, máu và nước mắt của chúng:

    “…anh ta há miệng cười toe toét, không hài lòng với máu và mỡ của chính mình…”

    Nhân gian bất dung, thiên địa bất dung, những từ này được dùng để miêu tả những tội ác đẫm máu mà quân đội Đại Việt đã gây ra. Ngòi bút của Ruan Ti sắc bén hơn cả súng trong sử sách, với giọng điệu cay đắng và phẫn uất, kỹ thuật phóng đại và hình ảnh rộng lớn vô tận, lần lượt tiết lộ những tội ác tích tụ trong bản thảo, đồng thời tố cáo chúng bằng máu và nước mắt. Ở đây cũng vậy, Tuyên ngôn độc lập có giá trị như một bản tuyên ngôn nhân quyền, chỉ rõ sự băng hoại nhân đạo của kẻ thù:

    “…Có lẽ trời đất sẽ thứ tha

    Ai bảo người thân của mình phải chịu đựng…”

    Tội lỗi mà trời và người không dung thứ quả thực là “tội ác, núi Giao Công không nhớ hết tội ác”.

    Qua phân tích trên, thế hệ mai sau thấy được thảm trạng của chiến tranh, từ đó phấn đấu cho cuộc sống độc lập tự do, ra sức duy trì hòa bình quốc gia và quyền tài phán lãnh thổ. Đồng thời, chúng ta phải ra sức rèn luyện cống hiến, xây dựng đất nước hùng cường, xứng đáng với non sông mà tổ tiên đã gìn giữ.

    Tóm lại, qua đoạn 2 của bài “Đạo bình ngô”, nhìn thoáng qua đã thấy rõ sự tàn bạo, xảo quyệt, độc ác của quân xâm lược. .Có như vậy, thế hệ mai sau mới thấy được giá trị của việc bảo vệ và gìn giữ nông thôn Việt Nam.

    3. Ngô lạc phân tích 2 giai đoạn – mẫu 2

    Nguyễn Trãi đã tự khẳng định mình là hình tượng quốc gia. Số phận chia cắt con người từ khi sinh ra nhưng thời gian không thể xóa nhòa đi giá trị vĩnh hằng. Lịch sử lâu đời của danh nhân Nguyễn Trãi và núi sông Việt Nam là một minh chứng hùng hồn. Nếu Nguyễn Chí là một nhà văn chính luận xuất sắc trong lịch sử, thì Bình Nga Dạ Cao là tác phẩm bất hủ của ông trong lịch sử văn học Việt Nam.

    Nguyễn Trãi đã tự khẳng định mình là hình tượng quốc gia. Số phận chia cắt con người từ khi sinh ra nhưng thời gian không thể xóa nhòa đi giá trị vĩnh hằng. Lịch sử lâu đời của danh nhân Nguyễn Trãi và núi sông Việt Nam là một minh chứng hùng hồn. Nếu Nguyễn Chí là một nhà văn chính luận xuất sắc trong lịch sử, thì Bình Nga Dạ Cao là tác phẩm bất hủ của ông trong lịch sử văn học Việt Nam.

    “Dân oán dân, dân oán lòng dân.

    Nhà Minh dùng 20.000 bộ binh lấy cớ Lakers lên đỉnh xâm lược nước ta. Quân chia làm hai cánh tiến theo sông Hồng. Hơn hai chục năm qua, chúng đô hộ nước ta bằng muôn vàn chính sách, thủ đoạn khác nhau.

    Nhưng với tinh thần đoàn kết và lòng yêu nước, chúng không thể xâm lược nước ta. Lịch sử đã ghi lại tội ác của quân xâm lược nhà Minh, và quận Dazhi một lần nữa tố cáo tội ác của chúng.

    Nguyễn Trãi khẳng định tội ác “phủ dân diệt thế” và miêu tả những hành động man rợ của chúng. Chúng cướp bóc mọi thứ – không chỉ vật chất, con người và sức lực của nhân dân ta, mà chúng còn tàn phá môi trường sống, côn trùng và cả cây cỏ. Không những thế, họ còn vô tình giết người:

    “Lửa thiêu người da đen, vùi con đỏ trong hố thảm họa”

    Đây là hình ảnh cụ thể và khái quát, như một lời tố cáo, tố cáo kẻ thù. Người da đen là những người thấp bé nhất dưới đáy xã hội. Họ là nạn nhân của tội ác mà kẻ thù đã gieo trên lãnh thổ nước ta. Hai câu thơ chắc hẳn đã được viết bằng máu và nước mắt của những người anh hùng dân tộc.

    Cướp của, diệt dân, tội ác của giặc khôn tả:

    “Tội nghiệp Nam Sơn Trụ không nhớ hết tội ô nhiễm, biển Đông không gột rửa mùi”

    Tác giả đã chọn Trúc Cơ Cực và Vương quốc biển Hoa Đông để miêu tả tội ác của lũ quỷ khát máu, mục đích của chúng là xé xác đồng bào ta thành từng mảnh. Hậu quả chúng để lại vô cùng tàn khốc: mẹ mất con, vợ mất chồng, con thơ dại, muôn loài bị diệt vong, con người đau khổ.

    Để nói rõ tội ác của chúng, tác giả sử dụng biện pháp liệt kê chọn lọc, sử dụng nhiều hình ảnh, câu văn sinh động, giọng điệu thay đổi linh hoạt phù hợp với tâm trạng. . Có khi nó tỏ ra giận dữ, có khi nó tỏ ra đau xót, thương xót cho đồng bào mình. Hai câu cuối cực gắt:

    “Ai nói thần thánh chịu nổi?”

    Tội ác của giặc đã vượt quá luật trời. Hành vi của họ là không thể tha thứ. Đứng trên phương diện nhân nghĩa, đoạn văn này là máu và nước mắt, thể hiện sự căm giận đối với kẻ thù.

    Tóm lại, bài thơ này là bản cáo trạng đanh thép về tội ác mà kẻ thù đã gây ra trên đất Việt trong suốt hai thập kỷ.

    Đảm bảo nâng cao sức thuyết phục, đồng thời đạt được tính giản dị, ngắn gọn của ngôn ngữ văn chương. Nguyễn Trãi đã biết đan xen, kết hợp hài hoà giữa hình tượng khái quát với hình tượng cụ thể, sinh động.

    Vì vậy, bằng tài năng và cái tâm của mình. nguyễn trãi cho người đọc thấy đây là một việc làm đáng tự hào và cần được các thế hệ mai sau kính trọng, tôn trọng.

    4. Bình ngô Daicao phân tích mẫu 2 giai đoạn 3

    Được mệnh danh là áng văn cổ hùng văn của dân tộc, và là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai sau núi sông nước Nam, “Ping’e Grass” là một tác phẩm xuất sắc có thể thấy được tinh thần dân tộc. Người Nguyễn Tí yêu nước, thương dân chân chính, căm thù giặc sâu sắc. Tác phẩm dựa trên sự khẳng định chân lý về chủ quyền dân tộc và tư tưởng nhân văn mới “nhân nghĩa cốt ở yên dân”, mang đến cho người đọc những hiểu biết chân thực về liên minh chống xâm lược quân sự. Nguyễn Trãi chia bài cáo làm 4 phần, 4 nội dung chính, trong đó một phần phản ánh sự tàn ác của quân xâm lược nhà Minh trong những năm chúng đô hộ nước ta chiếm một vị trí quan trọng trong bài cáo. năm.

    Giặc cướp nước, âm mưu xâm lược lâu dài, lấy cớ sợ dân bất hòa, nghĩ ra cớ lừa bịp thiên hạ, lọc lõi nhân dân ta, để chúng có cớ lãnh đạo quân sang xâm lược. Thật vậy, nó không phải là con người cũng không phải là đạo đức, và nó vẽ ra mọi thứ. Hơn nữa, ở Trung Quốc, lòng người đầy thù hận, “kẻ ác phản bội tổ quốc cầu vinh”, bán rẻ phẩm giá dân tộc vì chút lợi, tạo cơ sở cho quân thù vào tàn sát đồng bào mình. Ồ, không có loại người nào lại vô tâm như vậy.

    Nhân dân ta chưa một ngày được yên kể từ ngày quân xâm lược xâm lược, chúng ra sức tàn sát và âm mưu diệt chủng những người chống lại chúng một cách hết sức dã man và man rợ. Satan đáng sợ, hút máu. Đó là “lửa đốt dân đen”, “chôn con đỏ đen trong hố sâu tai họa”. Không những thế, anh ta còn tiếp tục “nghịch thiên hạ” và gieo rắc hận thù trong gần 20 năm. Người chết thì chết, nhưng người sống phải tìm mọi cách để bóc lột, hành hạ họ, biến nhân dân ta thành nô lệ, công cụ nói năng, buộc nhân dân ta phải cướp bóc tài nguyên của đất nước mà làm nô lệ cho chúng.

    “Thuế nặng nề núi sạch núi không.

    Người dân bắt buộc phải ra khơi tìm ngọc trai vì quá mệt mỏi với cá mập.

    Ai vào núi đãi vàng thì hại rừng sâu nước độc.

    Cướp nông sản, bắt chim thả lại vào lưới.

    Nhiễu người, mắc bẫy hươu đen, bẫy ở đâu. “

    Nhưng những của hiếm đó đâu dễ tìm, người xuống biển sâu tìm xác không ra, người vào rừng sâu núi thẳm thì quanh quẩn đâu đó. Lại còn bắt dân ta đi tìm chim cực quý, nai đen các loại, giăng lưới, đặt bẫy, có khi không bắt được, sa vào bẫy thú. Ôi, thật tiếc cho sự khốn khổ tột cùng! Kết quả là môi trường tiếp tục bị hủy hoại, hoa cỏ không còn nơi sinh sống, phụ nữ bỗng trở thành góa phụ, những gia đình nông dân yên ấm ly tán. Họ đi đến cánh đồng và biến mất.

    Trái ngược hoàn toàn với cảnh tượng kinh hoàng, khủng khiếp, quân giặc hiện lên trong một hình ảnh ngược lại, “há mồm nhe răng, mồm đầy máu mỡ, nhìn không biết mệt”, quân giặc đã đầy đủ, Họ không ra ngoài khi ai đó thực sự không thể hoàn thành nó. Bọn công nhân vô gia cư cứ chèn ép dân nghèo, cứ đào đất làm nhà, vênh váo quất roi, nhưng lại ra lệnh không thương tiếc. Sự hung ác, tàn bạo của giặc minh được Nguyễn Trãi so sánh với sự khôn lường của thiên nhiên, tre nam sơn biết bao nhiêu cây không kể xiết, Cũng chưa đủ ghi tội, biển đông bao la không đủ gột rửa sự độc ác và mùi bẩn thỉu của họ. Những tội ác mà quân đội gây ra không thể nói nên lời, và thậm chí sau hàng ngàn năm, chúng vẫn sẽ mãi mãi trong biên niên sử của lịch sử mà không bị phai mờ. Nguyễn không còn cách nào khác đành phải thốt lên bằng một giọng đầy đau đớn và phẫn nộ: “Trời đất há có thể tha? Kẻ ác có thể trừng trị, trời đất có mắt, tội ác quân làm sao khỏi bị trừng trị”. Lời hứa trên đất Đại Việt. Vấn đề chính là một cảnh báo bi thảm và đáng ghét cho các đồng minh để kết thúc phần thứ hai của báo cáo.

    Nguyễn Trãi đã sử dụng giọng văn đầy đau đớn, xót xa không chỉ vạch trần âm mưu xâm lược nước ta mà còn phản ánh những hành động dã man, dã man của chúng đối với nhân dân Đại Việt. Đồng thời, khi trở thành người đứng về phía nhân dân và lên án tội ác của kẻ thù, khi quyền sống của nhân dân bị nhân dân chà đạp và phớt lờ, ông cũng tỏ ra vô cùng cảm thương và trở thành kẻ thù. Phần thứ hai là bản cáo trạng mạnh mẽ của quan tòa đối với những kẻ phạm tội, đây cũng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc nổi dậy Linshan sau đó.

    5. Ngô lạc phân tích 2 giai đoạn – mẫu 4

    Nếu người Trung Quốc biết rằng sông núi nước Nam là bản tuyên ngôn thứ nhất, thì ngô đồng thảo của Nguyễn Chí chính là áng văn anh hùng ca cổ đại – bản tuyên ngôn thứ hai của quốc gia. Nguyễn Trãi đã dùng tài văn chương và chính trị của mình để viết bản cáo chung đánh giặc Minh. Đặc biệt phần thứ nhất và phần thứ hai của bản báo cáo đã khẳng định chủ quyền quốc gia và vạch rõ âm mưu xâm lược nước ta của kẻ thù.

    Trước hết, nhà Nguyễn đề cao tư tưởng nhân nghĩa, khẳng định độc lập chủ quyền của nước ta. Theo nguyễn trãi, lòng nhân ái là:

    “Có nhân trước có dân, sau có bạo”

    Tư tưởng về bản chất con người được Nguyễn Thiếp tiếp thu từ Nho giáo và đúc kết thành một quan niệm. Tác giả tin rằng nhân nghĩa là hòa bình và hạnh phúc của mọi người. Nhưng muốn cho dân được sống yên ổn thì phải dùng bạo lực, tức là phải trừ nội thù, ngoại thù.

    Sau khi tôn trọng quan niệm nhân nghĩa, nhà Nguyễn bắt tay bảo vệ chủ quyền của nước ta:

    “Giống như nước Đại Việt xưa của chúng ta

    Nền văn minh đã được khai báo

    Núi, sông, đường phân chia

    Phong tục miền bắc và miền nam khác nhau

    Lập nền độc lập từ triệu, định, ly, trần

    Với Hán, Đường, Tống, mỗi người đều xưng đế

    Đôi khi điểm mạnh và điểm yếu khác nhau

    Nhưng anh hùng nào cũng có”

    Đà Việt là một quốc gia được truyền từ đời này sang đời khác với một nền văn hóa lâu đời. Biên giới đã được phân định rõ ràng từ thời cổ đại. Phong tục của hai nước cũng khác nhau. Tác giả gắn thời đại nước ta với thời đại tương ứng ở Trung Quốc để khẳng định chủ quyền dân tộc. Có thể thấy, nhà Nguyễn đã chủ trương khẳng định chủ quyền của nước ta trên nhiều lĩnh vực như văn hóa, biên giới và thời đại. Thủ pháp nghệ thuật đối lập, tương phản được kết hợp với câu văn hàm súc thể hiện rõ quan điểm của tác giả. Tuy mạnh yếu khác nhau nhưng anh hùng nào cũng có kiệt tác của riêng mình. Để chứng minh cho câu nói “Đời nào cũng có anh hùng” và để khẳng định chủ quyền của mình đối với vùng đất này, ông Nguyễn đã đưa ra hàng loạt tư liệu lịch sử đánh giặc:

    “Vậy

    Cứu hoàng cung, thất bại

    Hàng triệu lợi ích lớn phải diệt vong

    Cửa chết bắt sống xe làm

    sông bạch đằng giết chết bà

    Quá khứ còn đó, chứng cứ còn đó

    Salvation, Summoning, Doa, Omar đều là những cái tên quan trọng của kẻ địch. Chúng là những kẻ cầm đầu đạo quân lớn xâm lược nước ta. Nhưng những cuộc chiến tranh phi lý không bao giờ có kết thúc tốt đẹp. Đặc biệt, họ tham lam, thích làm lớn nên dễ thất bại, phá sản. ấp tự, bạch đằng là nơi ta ở, không chỉ là nơi đánh giặc, mà còn là mồ chôn xác chúng.

    Sau khi nhà Nguyễn tuyên bố chủ quyền quốc gia trên các lĩnh vực triều đại, văn hóa, biên giới, lịch sử…, ông đã vạch trần âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa của kẻ thù. Minh:

    “Ngay bây giờ:

    Mọi người thật phiền phức

    Để lại nỗi bất bình của người dân trong nước

    Quân đội thật điên rồ

    Kẻ ác còn hãnh diện bán nước”

    Tác giả chỉ ra nguyên nhân là do nước hồ có vấn đề nên giặc lấy cớ tiêu diệt nước hồ để xâm lược Đại Việt. Không chỉ bọn ngoại xâm âm mưu thủ đoạn, mà bọn phản quốc cũng đang ngóc đầu dậy phản bội tổ quốc, cầu vinh. Họ đã nghe theo những kẻ xâm lược và chấp nhận những người theo họ.

    Tội ác mà chúng đã gây ra cho nhân dân Đại Việt không phải là nhỏ, chúng đang rắp tâm đẩy nhân dân ta đến cảnh khốn cùng, tiếc thay, chúng đã lấy sạch núi sông, sông nước và tất cả sức lực của nhân dân ta. Đại Việt. Tiếng Việt:

    “Ngọn lửa thiêu sống người da đen

    Chôn cậu bé đỏ trong hố thảm họa

    Dối trá ngập trời, vạn người bị lừa

    Mối thù hàng thập kỷ

    Thất bại của con người và trời đất.

    Thuế nặng sạch núi không xuể.

    Người dân bắt buộc phải ra khơi tìm ngọc trai vì quá mệt mỏi với cá mập.

    Ai vào núi đãi vàng thì hại rừng sâu nước độc.

    Giặt nông sản, bắt chim bằng lăng, trốn trong lưới.

    Nhiễu người, mắc bẫy hươu đen, bẫy ở đâu.

    thậm chí gây hại cho côn trùng và thực vật

    nhún vai thay cho góa phụ nghèo”

    Họ “nướng người da đen” và chôn “người da đỏ” trong hầm để lấy tài nguyên thiên nhiên cho họ. Chúng lừa trời gạt người, làm mọi cách để vơ vét tài nguyên của nước ta. Tội ác của chúng đã làm bại hoại nhân loại, hủy diệt cả thế giới, nhân dân oán hận chúng nhiều năm nhưng chúng bất lực. Không chỉ cướp bóc tài nguyên mà chúng còn đánh hàng trăm thứ thuế đẩy nông dân vào cảnh bần cùng. Mọi người buộc phải xuống biển để tìm kiếm ngọc trai, và bất chấp sự hiện diện của cá mập xung quanh, mọi người có thể bị xé xác bất cứ lúc nào. Có người lên núi đãi vàng bất chấp rừng thiêng nước độc. Hiện trạng của đất nước hiện ra trước mắt với một bức tranh thê thảm, đâu đâu cũng là cạm bẫy, cây cỏ chết hết huống chi là con người. Từ tài sản đến cây trồng vật nuôi đều không chịu nổi sự tàn ác của kẻ thù. Khốn nạn cho góa phụ.

    Trái ngược hoàn toàn với nỗi thống khổ của người dân Đại Việt, quân xâm lược chẳng khác gì một bầy răng máu khủng khiếp:

    “Một đứa trẻ há hốc mồm, cười toe toét, mũm mĩm, không biết mệt,”

    Nay xây nhà, mai dựng đất, phụng sự thân nào?

    Gánh nặng

    Từ bỏ toàn bộ ngành nông nghiệp.

    Tàn ác, tre đực không nhớ hết tội

    Bẩn, nước biển đông không rửa sạch mùi!

    Trời đất làm sao dung tha? Ai nói rằng những người bình thường có thể chịu đựng được? “

    Trông chúng như những con quỷ mập ú, đáng sợ. Với cái mồm to và hàm răng hung ác đó, chúng bắt dân ta dựng nhà bằng mai rồi lấy bùn đắp lên. Rồi ai phục vụ họ cho vừa, cân và đánh lạc hướng cả ngành trồng trọt. Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ các câu “tàn bạo sao…” và “bẩn thỉu…” để nhấn mạnh thái độ khinh miệt, căm thù tội ác của quân thù. Tội ác của chúng phương Nam trăm tre nào nhớ hết, nước biển đông cũng không gột rửa được mùi hôi thối. Tội ác tày trời không thể tha thứ, lòng người sẽ dậy sóng.

    Như vậy, phần một và phần hai của bài cáo đều khẳng định chủ quyền của dân tộc Đại Việt. đồng thời vạch rõ âm mưu xâm lược của kẻ thù. Tội ác của họ đã được công khai. Tội ác của họ không thể được tha thứ. Bài tường thuật sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như so sánh, miêu tả, đối chiếu kết hợp với lối hành văn tự do, phóng khoáng thể hiện rõ điều tác giả muốn trình bày.

    Vui lòng tham khảo thêm phần tài liệu của hoatieu.vn để biết thêm thông tin hữu ích.

Kiểm tra tiếng Anh trực tuyến

Bạn đã biết trình độ tiếng Anh hiện tại của mình chưa?
Bắt đầu làm bài kiểm tra

Nhận tư vấn lộ trình từ ACET

Hãy để lại thông tin, tư vấn viên của ACET sẽ liên lạc với bạn trong thời gian sớm nhất.