Phân tích Tuyên ngôn Độc lập Hồ Chí Minh, dàn ý chọn lọc và 19 bài văn mẫu hay. 19 bài văn mẫu phân tích lời nói độc lập lần 1 sẽ là nguồn tài liệu hữu ích giúp các bạn học sinh lớp 12 tự học, tự ôn tập nhằm nâng cao kết quả học tập, vượt trội môn văn. Sau đó biết vận dụng những kiến ​​thức, kĩ năng thu được để phân tích những tác phẩm hay.

Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là sự kết tinh cao quý, chói lọi của truyền thống yêu nước, ý chí, ý chí, tinh thần dân tộc và phong trào cách mạng Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập đánh dấu mốc son chói lọi, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Vì vậy, đây là 19 bài phân tích hay nhất về Tuyên ngôn Độc lập, hãy đọc tiếp.

Phân tích Đề cương Tuyên ngôn Độc lập

Đề cương số 1

I. Lễ khai trương

– Hồ Chí Minh Nhà văn: Cuộc đời, Cách mạng và Sự nghiệp Văn học.

– Tóm tắt nội dung, ý nghĩa lịch sử và giá trị văn học của Tuyên ngôn Độc lập.

Hai. Nội dung bài đăng

– Dàn ý bố cục của bản Tuyên ngôn độc lập: Gồm 3 đoạn, bố cục chặt chẽ, logic.

* Cơ sở pháp lý của Tuyên ngôn Độc lập

– Lấy hai bản tuyên ngôn của Hoa Kỳ và Pháp làm cơ sở pháp lý cho việc Việt Nam tuyên bố độc lập:

  • Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người… đều có quyền mưu cầu hạnh phúc”
  • Tuyên ngôn Pháp về Quyền của Con người và Công dân năm 1791: “Tất cả mọi người sinh ra đều tự do…có quyền bình đẳng.”
  • – Ý nghĩa:

    • Thành phố Hồ Chí Minh tôn trọng và sử dụng những tuyên bố có giá trị của hai cơ sở pháp lý được thế giới công nhận là không thể tranh cãi.
    • Dùng biện pháp “gậy ông đập lưng ông”: bác bỏ bằng giáo lý nhà Phật, ngăn cản không cho nó phạm tội khác.
    • Đó là hành động cách mạng, tuyên bố giá trị của nước ta với hai cường quốc Mỹ, Pháp, thể hiện lòng tự hào dân tộc.
    • Lập luận chặt chẽ và sáng tạo: Xuất phát từ quyền con người (quyền tự do, bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc), “mở rộng ra” là quyền tự do bình đẳng của con người trên toàn thế giới.
    • *Cơ sở thực tiễn của Tuyên ngôn độc lập

      – Tội Ác Của Thực Dân Pháp

      • Bộc lộ bản chất công cuộc “khai dân trí” của thực dân Pháp: trên thực tế, chúng thi hành nhiều chính sách dã man về chính trị, văn hóa-xã hội-giáo dục và kinh tế.
      • Bộc lộ bản chất công cuộc “bảo hộ” của thực dân Pháp: Hai lần bán nước cho Nhật (1940, 1945) dẫn đến “hơn hai triệu đồng bào chết đói”,…
      • Làm sáng tỏ luận điệu dối trá của chúng và lên án tội ác của chúng: phản bội Đồng minh, không hợp tác với Việt Minh mà trực tiếp khủng bố Việt Minh,…
      • Nghệ thuật: Xây dựng “Họ + Hành động”: Nhấn mạnh cái ác của Pháp.
      • -Cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta

        • Nhân dân ta hơn 80 năm chống chế độ nô lệ, tham gia Đồng minh chống phát xít, kêu gọi chống Nhật giành lại quê hương từ tay Nhật
        • Kết quả: Đồng thời phá vỡ 3 xiềng xích trói buộc nước ta (Pháp chạy, Nhật đầu hàng, vua Đại thoái vị) lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
        • – Tuyên ngôn độc lập và ý chí bảo vệ chủ quyền dân tộc

          • Dùng những từ có hàm ý tiêu cực để tuyên bố tách hẳn khỏi thực dân Pháp, bãi bỏ mọi hiệp ước đã ký kết và mọi đặc quyền của Pháp ở Việt Nam.
          • Kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam theo quy định của Hội nghị Tehran và Hội nghị Núi Vàng trên nguyên tắc bình đẳng các dân tộc.
          • li>

          • Tuyên bố với thế giới quyền độc lập của dân tộc Việt Nam: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do…”. Thể hiện quyết tâm đoàn kết bảo vệ chủ quyền, độc lập, tự do của Tổ quốc.
          • Văn phong trong sáng rõ ràng là lời thề và là nguồn cảm hứng cho lòng yêu nước của dân tộc.
          • Ba. Kết thúc

            – Tổng kết về giá trị nghệ thuật: lập luận chặt chẽ, lí lẽ thuyết phục, dẫn chứng chắc chắn, hùng biện tốt, ngôn ngữ bình dân, sức biểu cảm chặt chẽ, có thể gọi là bài chính luận kiểu mẫu.

            – Đánh giá chung về giá trị nội dung (giá trị văn học, giá trị lịch sử) của Tuyên ngôn Độc lập: bám sát truyền thống yêu nước, ý chí chống giặc ngoại xâm, lòng tự hào dân tộc; đánh dấu một mốc son trong lịch sử nước ta.

            Đề cương #2

            I. Giới thiệu:

            Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và lai lịch:

            • Tác giả: Hồ Chí Minh – lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, anh hùng cách mạng, nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật lớn. Ông đã để lại nhiều tác phẩm văn học, trong đó tiêu biểu nhất là tiểu luận chính luận với những suy nghĩ phong phú, lập luận chặt chẽ và lập luận hùng hồn.
            • Tác phẩm: “Tuyên ngôn độc lập” là áng văn đầy tâm huyết của Hồ Chí Minh, hội tụ vẻ đẹp tư tưởng, tình cảm của Người, đồng thời cũng là khát vọng mãnh liệt về độc lập, tự do của nhân dân ta.
            • Hoàn cảnh sáng tác: Ngày 26-8-1945, từ chiến khu về Hà Nội, tại ngôi nhà số 48 phố Hàng Hùng, bản “Tuyên ngôn độc lập” được soạn thảo.
            • Hai. Văn bản:

              1. Giá trị nội dung

              Một. Giải thích các nguyên tắc chung về tự do, bình đẳng và bác ái ở tất cả các nước trên thế giới

              – Hồ Chí Minh lấy Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp làm tiền đề cho lập luận tiếp theo của mình”

              – Ý nghĩa câu trích dẫn:

              • Quyền tự do và độc lập là của tất cả các dân tộc chứ không phải của riêng quốc gia nào.
              • Biện pháp “gậy ông đập lưng ông” phản bác những lời bịa đặt của thực dân Pháp.
              • Ngầm cổ vũ niềm tự hào dân tộc bằng cách so sánh ba nền độc lập của Hoa Kỳ và Pháp với nền độc lập của Việt Nam.
              • Hồ Chí Minh đã phát triển từ bình đẳng, tự do cho mọi người đến bình đẳng, tự do cho mọi dân tộc, có nhiều cống hiến to lớn đối với lịch sử tư tưởng nhân loại và phong trào giải phóng dân tộc thế giới.
              • b. Đưa ra chứng cứ để tố cáo tội phạm trước pháp luật và làm rõ tình hình quốc gia

                – Bạn cung cấp bằng chứng chống lại từng tuyên bố sai sự thật của họ:

                • Pháp đòi “khai hóa” Việt Nam: Người kể tội Pháp với dân Việt
                • Pháp đòi “bảo hộ” Đông Dương: Có người chỉ ra rằng Pháp trao Đông Dương cho Nhật hai lần.
                • Người Pháp coi toàn bộ Đông Dương và đặc biệt là Việt Nam là thuộc địa của họ, sau đó chú khăng khăng rằng chúng ta giành độc lập từ tay Nhật chứ không phải Pháp.
                • Pháp tự coi mình đứng về phía Đồng minh và bạn khẳng định rằng Pháp đã phản bội Đồng minh.
                • Dùng đủ loại dẫn chứng: chính trị, văn hóa, kinh tế, giáo dục… Hồ Chí Minh đã vạch trần tội ác, sự dối trá, lố bịch và bản chất thực dân của Pháp.
                • Khẳng định dân tộc ta là dân tộc anh dũng sát cánh cùng quân miền Nam chống chủ nghĩa phát xít. Đồng thời, đối xử tử tế với kẻ thua cuộc cũng là một dân tộc nhân từ, xứng đáng là một dân tộc công bằng và nhân từ.
                • c. Tuyên bố hòa bình cho thế giới

                  – Việt Nam anh dũng đấu tranh chống phát xít, thực dân, phong kiến, dân tộc ta đối xử nhân đạo với quân bại trận, đó đều là những sự thật đã được lịch sử chứng minh. Thừa nhận =>; Một quốc gia cứng cỏi và dũng cảm như vậy sẽ đủ mạnh để kiểm soát một quốc gia tự do.

                  – Tuyên bố chủ quyền thuộc về nhân dân Việt Nam, tuyên bố tách hẳn quan hệ thuộc địa với Pháp.

                  – Lời kêu gọi đoàn kết toàn dân tộc chống âm mưu thực dân, kêu gọi thế giới công nhận quyền độc lập tự chủ của nước ta.

                  – Nêu cao tinh thần quyết tâm bảo vệ hòa bình, độc lập của toàn dân tộc Việt Nam.

                  2. Giá trị nghệ thuật

                  – Thể hiện lập luận chính trị chặt chẽ, súc tích

                  – Lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục, kết cấu mạch lạc

                  – Sử dụng ngôn ngữ vừa trang trọng vừa gần gũi, gợi cảm tác động đến tư tưởng, tình cảm của người nghe.

                  3. Kết luận:

                  Khẳng định lại giá trị của Tuyên ngôn độc lập và làm rõ vị trí của nó trong nền văn học và lịch sử dân tộc

                  Tuyên ngôn Độc lập có giá trị thực tiễn, giá trị pháp lý và giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Tuyên ngôn Độc lập xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn hiện đại.

                  Đề cương số 3

                  1. Lễ khai trương

                  – Giới thiệu về tác giả Hồ Chí Minh

                  + Hồ Chí Minh (1890-1969) là nhà cách mạng, lãnh tụ vĩ đại, nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

                  – Giới thiệu về Tuyên ngôn Độc lập:

                  + Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập và đọc trước công chúng tại Vườn Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình).

                  2. Văn bản

                  2.1 Tổng quan về khai báo

                  – Tình trạng khai sinh:

                  • Chiến tranh thế giới thứ hai đã kết thúc. Phát xít Nhật chiếm nước ta đã đầu hàng đồng minh. Nhân dân ta đã giành được chính quyền trên đất nước
                  • Ngày 26/8/1945, Hồ Chí Minh, người soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập, từ Việt Nam về Hà Nội, nhà số 48.
                  • Ngày 2/9/1945, đại diện chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh nước Việt Nam mới.
                  • – Giá trị nội dung:

                    • Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử tuyên bố trước quốc dân, đồng bào và thế giới rằng nước ta đã chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến, đánh dấu kỷ nguyên độc lập, tự do của nước Việt Nam mới.
                    • Bản tuyên ngôn không chỉ lên án mạnh mẽ tội ác của thực dân Pháp, ngăn chặn âm mưu tái chiếm nước ta của các thế lực thù địch và các tổ chức quốc tế, mà còn thể hiện lòng yêu nước, thương dân, thể hiện khát vọng độc lập, tự do mãnh liệt của tác giả.
                    • 2.2 Cơ sở lý luận của Tuyên ngôn Độc lập

                      – Trích dẫn hai bản tuyên bố của Pháp và Mỹ:

                      • Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ (1776): “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ những quyền bất khả xâm phạm; những quyền này bao gồm quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
                      • Tuyên ngôn Pháp về Quyền của Con người và Công dân (1791): “Tất cả mọi người sinh ra đều tự do, bình đẳng và được hưởng các quyền, đồng thời phải duy trì quyền tự do và bình đẳng của mình.”
                      • ->Những tiền đề lý luận (luận cứ) của Tuyên ngôn Độc lập.

                        – Ý nghĩa câu trích dẫn:

                        • Hồ Chí Minh tôn trọng và suy luận dựa trên hai tuyên bố của Pháp và Mỹ, vì đó là những lập luận được chấp nhận rộng rãi.
                        • Nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”: nói về họ bằng những từ tiếng Pháp để bắt đầu một cuộc tranh luận ẩn ý với họ.
                        • Để lại Tuyên ngôn Cách mạng và Giá trị của hai cường quốc, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc.
                        • Tạo đối số cho mệnh đề tiếp theo.
                        • Từ quyền dân tộc trong hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, Hồ Chí Minh đã mở rộng sang quyền dân tộc: “theo nghĩa rộng là… quyền tự do”. Có thể thấy được sự tài tình, sáng tạo và cách lập luận chặt chẽ của tác giả.
                        • =>Bằng lập luận chặt chẽ và bằng chứng xác thực, Hồ Chí Minh khẳng định quyền bình đẳng và quyền tự do của mọi dân tộc, trong đó có dân tộc Việt Nam, là nguyên tắc chung của bản tuyên ngôn.

                          2.3 Cơ sở thực tiễn của Tuyên ngôn độc lập

                          +) tố cáo tội ác của kẻ thù

                          Bạn cung cấp bằng chứng chống lại từng tuyên bố sai sự thật của họ:

                          – Chúng đòi “khai hóa” Việt Nam-> Ai đã chỉ ra bản chất “dân hóa” của chúng: Những chính sách dã man, dã man đang được thi hành trên mọi lĩnh vực của nước ta từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội.

                          -Chúng tuyên bố “bảo hộ” Đông Dương->Ai đã vạch trần thực chất công cuộc “vệ sinh” của ta: Pháp quỳ gối đầu hàng mở nước ta đón trời, bán nước ta hai lần cho Nhật trong vòng 5 năm.

                          – Vạch ra luận điệu, chỉ ra tội ác của địch: Đầu hàng Nhật, uy hiếp Việt Minh, giết tù chính trị ta

                          • Người Pháp thường coi Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam, là thuộc địa của họ -> bạn khăng khăng rằng chúng tôi giành độc lập từ Nhật chứ không phải Pháp.
                          • Pháp tự cho mình đứng về phe Đồng minh -> bác bỏ việc Pháp phản bội Đồng minh.
                          • Hồ Chí Minh đã vạch trần tội ác, sự dối trá, sự phi lý và bản chất thực dân của Pháp bằng những bằng chứng toàn diện.
                          • Khẳng định dân tộc ta là một dân tộc dũng cảm, đứng về phía quân miền Nam chống chủ nghĩa phát xít.
                          • =>Cấu trúc điệp ngữ “họ + hành động”: Nhấn mạnh sự xấu xa của Pháp.

                            +)Cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta

                            – Nhân dân Việt Nam anh dũng đứng về phe Đồng minh đánh phát xít Nhật, nhân dân Việt Nam giành chính quyền từ tay Nhật thay Pháp.

                            – Kết quả: Ta cùng lúc phá bỏ 3 xiềng xích trói buộc đất nước ta (Pháp thoát, Nhật đầu hàng, Vua Jean Đại đế thoái vị) lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

                            2.4 Sẵn sàng tuyên bố độc lập và bảo vệ chủ quyền quốc gia

                            – Tuyên bố tách khỏi Pháp, bãi bỏ các hiệp ước pháp lý đã ký kết, bãi bỏ mọi đặc quyền pháp lý.

                            – Kêu gọi nhân dân Việt Nam đoàn kết chống âm mưu của thực dân Pháp

                            – Giành được sự ủng hộ của quốc tế: Kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận nền độc lập, tự do của Việt Nam…

                            – Nêu cao tinh thần quyết tâm bảo vệ hòa bình, độc lập của toàn dân tộc Việt Nam

                            =>Lời văn vang và hùng tráng, như một lời thề, khơi dậy tình cảm yêu nước của nhân dân cả nước.

                            3. Kết thúc

                            – Khẳng định lại giá trị của Tuyên ngôn độc lập:

                            • Giá trị nội dung: tuyên bố trước quốc dân, đồng bào và thế giới về sự kết thúc của ách thực dân, phong kiến ​​đối với nước ta; lên án mạnh mẽ tội ác của thực dân Pháp, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm nước ta của các thế lực thù địch và cơ hội quốc tế đất nước của chúng tôi. Nó thể hiện lòng yêu nước, thương dân và khát vọng độc lập, tự do mãnh liệt của tác giả và của cả dân tộc Việt Nam.
                            • Đặc điểm nghệ thuật: luận điểm chính luận chặt chẽ, cô đọng, súc tích; lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục, kết cấu mạch lạc; hình ảnh gợi cảm.
                            • – Cảm nhận của cá nhân về bản tuyên ngôn.

                              Sơ đồ tư duy Tuyên ngôn độc lập

                              Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 1

                              Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, vị cha già của dân tộc, suốt đời phụng sự nhân dân, phục vụ đất nước. Ông không chỉ là nhà chính trị tài ba mà còn là nhà văn, nhà thơ đa tài với kho tàng văn học đồ sộ. Trong hoạt động cách mạng, Người đã nhận ra sức mạnh của văn học và sử dụng nó làm vũ khí đấu tranh chống kẻ thù, cảm hóa quần chúng. Trong vô số tác phẩm để đời của ông, tác phẩm tiêu biểu nhất là “Tuyên ngôn độc lập” được viết khi ông rời Chiến khu trở về Hà Nội. Nó không chỉ ẩn chứa niềm khát khao, khát khao cháy bỏng về độc lập, tự do của dân tộc mà còn tô đậm tội ác của kẻ thù, vạch trần bộ mặt xảo trá của kẻ thù.

                              Ngay từ đầu tác phẩm, Bác đã khéo léo trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp để khẳng định chân lý lịch sử: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng, Tạo hóa đã phú cho họ những quyền bất khả xâm phạm”. trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Thật vậy, mọi người đều bình đẳng, dù giàu hay nghèo, đều có những quyền cơ bản của con người, đó là quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Những điều nêu trên đều được trích dẫn rõ ràng trong các bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và Pháp, tại sao nói một đằng làm một nẻo. Vừa hùng hồn bênh vực quyền con người, vừa ca ngợi, tán dương những lý tưởng cao cả về tự do của con người, nhưng lại chính là bàn tay cướp đi quyền của người khác. Lập luận của bạn không dừng lại ở đó, nó còn mở rộng đến các dân tộc trên thế giới, bất kể dân tộc nào cũng có quyền hưởng tự do và độc lập của mình. Thật vậy, nó không còn là Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam, mà trở thành bản tuyên ngôn chính thức về độc lập và tự do cho các dân tộc nhỏ bé bị áp bức trên thế giới.

                              Viết đến đây, cảm xúc của bạn như bùng cháy, mấy dòng tiếp theo, bạn viết về tội ác của một kẻ đạo đức giả. Chính thực dân Pháp và phát xít Nhật tàn bạo đã đeo đuổi nhân dân ta trong cảnh đói khổ cùng cực. Nước Pháp tự hào nói với thế giới về những thành tựu vĩ đại của mình trong việc bảo tồn và sau đó ghi nhận nó đã khai sáng cho người dân chúng tôi, nhưng thực tế lại hoàn toàn khác. Văn minh đến đâu mà thi hành chính sách bảo hộ ngu dốt của dân, mà bắt dân nổi dậy biểu tình, rồi thẳng tay đàn áp, để cho cuộc nổi dậy tắm trong máu. Bao nhiêu người đã chết vì lương tâm của “cha mẹ tốt”. Không những thế, chúng còn bắt giam nhiều cán bộ cách mạng ở nước ta, tìm mọi cách cản trở việc thống nhất nước ta, bóc lột nhân dân ta một cách cực đoan. Để rồi không chống nổi phát xít Nhật, Người đã đầu hàng và trao cho chúng nước ta hai gông cùm cổ. Bao nhiêu đau thương nhân lên gấp bội, chúng ta phải nộp đủ thứ thuế má, bị bóc lột dã man, và cuối cùng là chết đói vào năm 1945 trên 2 triệu người. Không thể tha thứ được rằng những kẻ quá xấu xa và xảo quyệt mà lại tuyên bố khai sáng và bảo vệ thế giới là vô lý và thái quá.

                              Người Pháp đã gây bao đau khổ cho nhân dân Việt Nam, nhưng thái độ của nhân dân ta đối với nhân dân Pháp thật là khoan dung. Sau cuộc bạo loạn ngày 9 tháng 3, sự trợ giúp nhân đạo của Việt Minh đã giúp nhiều đồng bào Pháp vượt biên, thoát khỏi nhà tù của Nhật và bảo vệ tài sản của họ. Người Việt Nam bản chất lương thiện, chúng ta không thể đổ hết tội lỗi lên người Pháp vì họ cũng là những người có thu nhập thấp, họ cũng là những người chịu nhiều bất hạnh, những kẻ thống trị ác độc mới. Có tội, trời đất không tha.

                              Sau khi vạch mặt thủ phạm, ông bắt tay vào thực hiện mục tiêu chính của mình là tuyên bố nền độc lập của Việt Nam. Khẳng định quyền độc lập của dân tộc Việt Nam với thế giới, dân tộc ta đã trải qua muôn vàn đau thương nhưng vẫn cùng nhau đứng lên đấu tranh đánh đổ xiềng xích của đế quốc, một dũng sĩ với tinh thần bất khuất như vậy cũng nên có quyền có độc lập, tự do của mình. Sau khi thực dân gây ra muôn vàn tội ác, nhân dân ta nay quyết tâm ly khai, cắt đứt quan hệ với thực dân Pháp, đồng thời kêu gọi toàn dân đoàn kết, thống nhất để đánh đuổi giặc ngoại xâm.

                              Xuyên suốt tác phẩm, ông cho ta thấy tài năng văn chương, lối lập luận chặt chẽ, dẫn chứng hùng hồn khiến kẻ thù không thể khuất phục. Đoạn văn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, tố cáo tội ác của kẻ thù, đồng thời chiếm được cảm tình của nhân dân thế giới. Đây là một đề tài chính trị có giá trị lịch sử sâu rộng, đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nước ta và các nước bị áp bức yếu kém trên thế giới.

                              Kết thúc tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” ta thấy một Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời cống hiến cho dân, cho nước, tuổi thanh xuân bay vút lên trời để đổi lấy tự do cho dân tộc. Sau nhiều nỗ lực, chúng tôi đã thực hiện được mong ước này. Nhưng khi Quốc công độc lập, hắn không có ở đó, có lẽ hắn đã hoàn thành sứ mệnh của mình trong thế giới đầy đau thương này, khi sứ mệnh hoàn thành, hắn sẽ trở về nơi ở của mình. . Huyền thoại về người cha vĩ đại của dân tộc sẽ được bất tử và truyền lại cho hàng ngàn thế hệ để chúng ta tôn thờ và noi theo.

                              Phân tích văn bản Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 2

                              Hồ Chí Minh, vị cha già kính yêu ngàn đời của dân tộc ta, là một trong những cây viết lý luận chính trị lớn. Trong số lượng lớn các tác phẩm văn học của Người để lại, Tuyên ngôn độc lập xuất hiện với tư cách là bản chính luận tiêu biểu nhất, là kết tinh của giá trị lịch sử và giá trị thời đại, là tác phẩm bất hủ.

                              Toàn văn bản “Tuyên ngôn độc lập” không dài nhưng rất cô đọng, súc tích và sâu sắc. Tuyên ngôn Độc lập ra đời vào ngày 26 tháng 8 năm 1945, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Việt Nam trở về Hà Nội. Trong ngôi nhà số 48 phố Hàng Hoành, Người đã soạn thảo Tuyên ngôn, rồi thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn độc lập.

                              Hồ Chí Minh đã dùng những luận cứ hùng hồn, lập luận chặt chẽ, lập luận đanh thép để viết một bài báo chính luận mẫu mực. Không chỉ vậy, văn kiện này còn thể hiện lòng yêu nước nồng nàn, lòng tự hào dân tộc mãnh liệt, khát khao độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam trong nước và ý chí kiên cường bảo vệ tự do, độc lập.

                              Mở đầu bản tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo đưa ra luận điểm về quyền con người, quyền công dân. Thứ nhất, Người khẳng định: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ những quyền bất khả xâm phạm, đó là quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đó là những quyền mà mọi con người sinh ra đều phải có. Quyền là những quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm, Hồ Chí Minh đã khéo léo trích dẫn hai bản tuyên ngôn của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng. Họ được Tạo hóa ban cho những quyền bất khả xâm phạm; những quyền này bao gồm quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ); “Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về các quyền; và phải luôn được tự do và quyền bình đẳng” (“Tuyên ngôn Nhân quyền và Công dân của Pháp”). Tại sao người ta chọn Pháp và Hoa Kỳ thay vì các quốc gia khác? Có thể thấy rằng hai quốc gia này đã tiến bộ vào thời điểm đó. Nếu thế giới công nhận Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ có những quyền cơ bản và chúng cũng sẽ công nhận những quyền này ở Việt Nam, anh bắn sau lưng Tuyên bố của ta đi đôi với tuyên bố của hai cường quốc, tạo sức thuyết phục mạnh mẽ hơn trong cộng đồng quốc tế. Âm mưu xâm lược của chúng: “Theo nghĩa rộng, câu này có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.” Người khẳng định chắc nịch: “Đây là hoàn cảnh không ai có thể Lập luận phủ định”. Điều đó có nghĩa là nền độc lập của nước ta có cơ sở pháp lý sâu xa. Thực dân Pháp, đế quốc Mỹ không thể đi ngược lại tổ tiên.

                              Để lập luận thêm sắc bén và thuyết phục, ông đã vạch trần bộ mặt thối nát của thực dân Pháp với những tội ác không thể tha thứ trên ba phương diện: chính trị, kinh tế và xã hội

                              Trước hết, về mặt chính trị, “chúng hoàn toàn không cho nhân dân ta một quyền tự do dân chủ nào”. Chúng thi hành bạo tàn, lập ra ba chế độ khác nhau, chúng xây nhà tù nhiều hơn trường học, chúng giết những người yêu nước, chúng bóp nghẹt dư luận, chúng thi hành những chính sách ngu dân, chúng dùng thuốc phiện, rượu để làm suy yếu nòi giống của chúng ta. Hàng loạt tội ác của thực dân Pháp được liệt kê chân thực với những lập luận xác đáng, thuyết phục dưới ngòi bút sắc bén của Hồ Chí Minh. Hành động của chúng vô cùng dã man, vô nhân tính, thô bạo và đáng lên án.

                              Thứ hai, về kinh tế, chúng bóc lột sức lao động của nhân dân, cướp đoạt ruộng đất, áp đặt hàng trăm thứ thuế vô lý, bào mòn thể lực, tinh thần và thể lực của người dân Việt Nam. Các anh đã vạch trần bản chất dã man, tàn bạo của thực dân Pháp, khoác cho nhân dân thế giới bộ mặt giả dối “bảo vệ nền văn minh”, khơi dậy lòng căm thù và tinh thần đấu tranh chống giặc, xả thân cứu nước. Mọi người.

                              Âm điệu của đoạn này linh hoạt và người dùng có thể sử dụng nó một cách triệt để. Nếu trong phần liệt kê những tội ác và sự tàn bạo của thực dân Pháp, người dùng nêu lên sự mỉa mai và căm thù kẻ thù thì họ phải cắn răng chịu đựng khi miêu tả những hậu quả đối với nhân dân ta. gánh nặng. Càng về sau, giọng điệu trở nên dịu dàng, buồn bã, thương cảm. Đọc lời lên án đó, tôi nghĩ đến Nguyễn Trãi, người cũng đã viết:

                              “Tội ác thay tranh trúc không viết hết nhơ nhớp, thay biển Đông Hải rửa sạch mùi tanh”

                              Hồ Chí Minh không luận tội mà trực tiếp tố cáo những việc làm xấu xa của thực dân Pháp. Giống như một thẩm phán rõ ràng, anh ta đang miêu tả thủ lĩnh của tộc ác, phơi bày nó cho cả thế giới ngưỡng mộ và ném gạch để thu hút ngọc bích.

                              Ai lột mặt nạ thực dân Pháp. Điệp ngữ “Sự thật là..” được lặp đi lặp lại thể hiện sự quyết thắng của quân ta. Chúng tôi lấy lại đất nước của chúng tôi từ người Nhật, không phải từ người Pháp. Cho đến khi kết thúc: “Faran, vào ngày đại chiến, nhà vua thoái vị Dai” ngắn gọn và súc tích, như một lời cổ vũ. Sự tự do mà chúng ta đã giành được là quý giá. Bản tuyên ngôn hầu như chỉ tập trung vào hai điểm chính: một là phủ định hoàn toàn các quyền liên quan đến thực dân Pháp, hai là khẳng định và bảo vệ các quyền độc lập. Người Pháp đã ký ở Việt Nam, tước bỏ mọi đặc quyền của Pháp ở Việt Nam. “

                              Từ lập luận trên, Người như muốn tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và thực tế đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tinh thần và sức lực, tính mạng và Để có được nền độc lập tự do này.” Để có được nền độc lập ấy biết bao người đã phải hy sinh, họ đã định cư nơi đất khách quê người, họ đã bỏ dở tuổi thanh xuân, họ đã từ bỏ cuộc sống êm đềm bên người thân, họ hàng, bè bạn để đi theo tiếng gọi của đất nước chiến đấu, Bảo vệ và giữ gìn những gì chúng ta đã kiếm được. Người đã tuyên bố: “Thật là một nước tự do, độc lập tuyệt vời biết bao”. Trong bài nói này, Hồ Chí Minh đã kết hợp các luận cứ, lập luận sắc bén, lời lẽ sâu sắc, bản lĩnh chính trị cũng rất thuyết phục.

                              Có thể coi Tuyên ngôn Độc lập là bản tuyên ngôn chính trị mẫu mực cho sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lập luận của Người đanh thép, nhịp độ nhanh, giọng điệu uyển chuyển, xoay chuyển nhuần nhuyễn, chỉ ra hàng loạt tội ác man rợ của thực dân Pháp, thể hiện đức hy sinh và tình yêu sâu nặng của Người đối với Tổ quốc, với dân tộc Việt Nam đã tạo thành một lực lượng hùng mạnh. sóng. Tuyên ngôn Độc lập như mở ra một chương mới trong lịch sử của đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do, là bàn đạp để Việt Nam hội nhập thế giới.

                              Phân tích bản Tuyên ngôn Độc lập – Mẫu 3

                              Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà cách mạng vĩ đại mà còn là nhà văn tài hoa của nền văn học nghệ thuật dân tộc. Thơ văn vừa cổ điển vừa hiện đại, giàu tính sáng tạo và có giá trị tư tưởng cao. Nếu như ở thơ trữ tình, ta thấy chất thơ tràn đầy tinh thần lạc quan, tự do thì ở văn chính luận, ta thấy chất thơ cô đọng, cô đọng, lay động mạnh mẽ trái tim người đọc, người nghe. “Tuyên ngôn độc lập” là một trong những tác phẩm chính luận mẫu mực của Người, chứa đựng những tình cảm rạo rực, tư tưởng thời đại và kết tinh tinh hoa của dân tộc Việt Nam.

                              Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đưa đất nước bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do, nhưng vẫn đứng trước thách thức của cảnh “người mất tóc gáy” mà chủ nghĩa đế quốc thực sự đã lợi dụng. Sau đó, ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là bản tuyên ngôn viết cho nhân dân Việt Nam, nhân dân thế giới và dư luận quốc tế.

                              “Đồng bào của tôi, tất cả đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ những Quyền bất khả xâm phạm; và những quyền này bao gồm Quyền sống, Quyền tự do và Quyền mưu cầu Hạnh phúc.”

                              “…tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về quyền, và những quyền đó phải luôn được duy trì bình đẳng”.

                              Cả hai Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1976 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Công dân của Pháp năm 1971 đều bị bác bỏ một cách hợp pháp. Đây là hai văn kiện quan trọng trên thế giới, và thực tế lịch sử đã chứng minh quyền con người là vô cùng quan trọng. Đây là những sự thật có giá trị lớn. Tôi đã sử dụng kỹ thuật tâm lý “lấy gậy đánh vào lưng anh ta”. Âm mưu của Mỹ và Pháp đã bị chặn lại bởi những lời tuyên bố và lời dạy của tổ tiên họ. Nếu họ vi phạm quyền tự do của nhân dân ta, thì đó là vi phạm đạo đức của họ. “Đây là lời khẳng định không ai có thể phủ nhận”, Người khẳng định chắc nịch, kiên quyết lập trường chính nghĩa của dân tộc ta. Đồng thời, khi trích dẫn hai bản tuyên ngôn này, tác giả cũng thể hiện sự đề cao bản tuyên ngôn bất hủ, đồng thời dùng lập luận của mình để dập tắt âm mưu xâm lược của đế quốc, thật là tài tình. So sánh ba bản tuyên ngôn và ba cuộc cách mạng với sự vĩ đại của thế giới. Với tư cách là động lực to lớn thúc đẩy các nước thuộc địa đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân trên thế giới, tác giả đã đưa ra những lập luận sắc bén, nhạy bén, giàu tình cảm với tâm thế tỉnh táo để nhân dân vận dụng.

                              Sau phần cơ sở pháp lý của bản tuyên ngôn, Bác Hồ đưa ra những cơ sở hiện thực, những sự thật lịch sử và những bằng chứng sống động qua hàng chục năm đấu tranh của nhân dân cả nước. Đây là những lập luận thuyết phục nhất vì nó được chứng minh, chứng kiến ​​và tham gia bởi người dân, do đó đã lay động trái tim của hàng triệu người trên thế giới. Lời lên án đầy phẫn nộ và đáng tiếc:

                              “Tuy nhiên, hơn 80 năm qua, thực dân Pháp đã cướp nước ta, đàn áp đồng bào ta dưới ngọn cờ tự do, bình đẳng, bác ái. Hành động của chúng là hoàn toàn trái với nhân đạo và công lý.”

                              <3

                              “Về chính trị, chúng hoàn toàn không cho dân ta một chút tự do dân chủ nào.”

                              Họ thi hành những luật dã man. Chúng đã thiết lập ba chế độ khác nhau ở Bắc, Trung, Bắc để ngăn cản sự thống nhất của nước ta, ngăn cản sự đoàn kết của nhân dân ta.

                              Họ xây nhiều nhà tù hơn trường học. Chúng trực tiếp tàn sát những người yêu nước và yêu nước của chúng ta. Họ tắm cuộc nổi dậy của chúng tôi trong máu.

                              Họ kìm hãm dư luận và thi hành những chính sách ngu xuẩn.

                              Họ làm suy yếu giống nòi của chúng ta bằng thuốc phiện và rượu.

                              Về kinh tế, chúng đã bóc lột đồng bào ta đến xương tủy, bần cùng hóa đồng bào ta, để cho đất nước ta điêu tàn, hoang tàn. Chúng cướp đất đai, hầm mỏ, nguyên liệu.

                              Họ độc quyền in ấn, xuất nhập khẩu tiền giấy.

                              Chúng áp đặt hàng trăm thứ thuế vô lý, làm bần cùng hóa nhân dân ta, nhất là nông dân và thương nhân.

                              Họ không cho tư sản chúng tôi tra cứu. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng dã man”.

                              Bác vạch trần bản chất xu nịnh, thật thà, nhân nghĩa của bọn thực dân nhưng thực chất là muốn đô hộ nước ta, đồng hóa nhân dân ta. Từng lời thốt ra dường như đã xuyên thấu trái tim người đọc, từng lời thấm đẫm máu và nước mắt của nhân dân. Bao nhiêu phẫn nộ, bao nhiêu xót xa, bao nhiêu xót xa được cô đọng lại trong những lập luận và kết luận được trình bày.

                              Ông dùng từ ngữ ngắn gọn mà câu văn như sóng gió, chất chứa ngàn lần đau thương hận thù và hình ảnh gợi mở, dựng lên một giai đoạn lịch sử đau thương nghĩa tình của dân tộc Việt Nam trước mắt thế giới. Bằng những thủ đoạn hèn hạ, đê hèn, chúng đã tố cáo tội ác “trời cấm đất không dung” của Phật giáo, hành động của chúng thật dối trá, lừa lọc và tàn ác.

                              “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta là thuộc địa của Nhật chứ không phải của Pháp. Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

                              p>

                              Sự thật là nhân dân ta lấy lại Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. “

                              Cách mạng Tháng Tám đã giải quyết thành công cùng một lúc hai nhiệm vụ lớn là độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân. Người ra đường khẳng định những thành quả từ sự vươn lên đấu tranh của nhân dân. Đây là một tuyên bố siêu việt không liên quan gì đến Pháp, xóa bỏ hiệp ước với Pháp. đồng thời khẳng định rõ quyền tự do và dân tộc Việt Nam.

                              “Một dân tộc đã anh dũng chiến đấu chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm, một dân tộc đã bao năm anh dũng đứng về phía Đồng minh chống chủ nghĩa phát xít, dân tộc này phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!

                              Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và đã thực sự trở thành một nước tự do, độc lập.

                              Với trí tuệ uyên bác và bản lĩnh tỉnh táo của người cách mạng, Người đã vạch trần bản chất gian dối của kẻ thù. Với lập luận chặt chẽ, bạn đã cung cấp một trường hợp pháp lý thuyết phục. Với lòng yêu dân, yêu nước sâu sắc, Bác Hồ đã khơi dậy lòng tự hào và ý chí đấu tranh của nhân dân toàn thế giới, khẳng định quyền lợi hợp pháp của nhân dân trên toàn thế giới. “Tuyên ngôn độc lập” xứng đáng là một tác phẩm bất hủ của những vĩ nhân, những tâm hồn vĩ đại, những nhân cách lớn. Như nguyễn đăng đã từng bình luận:

                              “Con người ở đây là những lập luận mạch lạc, đưa ra những lập luận và bằng chứng không thể bác bỏ, và đằng sau những lập luận này là một phạm vi văn hóa rộng lớn của tư tưởng.” Kinh nghiệm đấu tranh.

                              Phân tích bản Tuyên ngôn Độc lập – Mẫu 4

                              Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lãnh tụ vĩ đại, mọi khí phách và nhân cách cao cả của Người thể hiện trong sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp quân sự, sự nghiệp ngoại giao, sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp văn hóa… trong tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Nhà văn không chỉ có nhu cầu thỏa mãn thú vui cao cả của một nhà từ thiện, mà trong suốt cuộc đời, thơ văn của ông luôn đóng vai trò quan trọng trong việc phục vụ cuộc kháng chiến chống Nhật và thắng lợi của cách mạng. Có thể nói, trên con đường cách mạng của đời ông, thơ ông đã luôn theo sát và luôn đóng vai trò hỗ trợ. Tiêu biểu cho những tác phẩm văn học song hành với cách mạng là tác phẩm tiêu biểu nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một văn kiện có ý nghĩa lịch sử vô cùng quan trọng, đánh dấu mốc son cho nền độc lập của nước nhà. Tuyên ngôn Độc lập được đọc tại Quảng trường Hà Nội ở Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

                              Bối cảnh lịch sử quan trọng, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật giao nộp vũ khí cho Đồng Minh, nhận thấy thời đại giải phóng đã đến, đảng phát động phong trào vận động nhân dân, đồng bào khởi nghĩa giành chính quyền ở Nhật Bản. Tổng khởi nghĩa thắng lợi, ngày 26-8-1945, Bác Hồ rời Chiến khu về Hà Nội, Người thảo ngay bản Tuyên ngôn Độc lập tại cổng 48 phố Hàng Hoành. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” trước hàng triệu đồng bào Việt Nam tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, chấm dứt hơn 80 năm nô lệ, giành lại độc lập và tự do. chủ quyền của Đế quốc Pháp và phát xít Nhật. Đồng thời, cũng chính thức chấm dứt chế độ phong kiến ​​và chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại hàng nghìn năm trên đất nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do, tự cường. Bản tuyên bố cũng là một đòn giáng mạnh mẽ vào các thế lực thù địch đang âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa, đập tan âm mưu, thủ đoạn của chúng. Động viên, cổ vũ, động viên các dân tộc bị áp bức trên thế giới đứng lên giành lại chính quyền, độc lập, tự chủ cho Tổ quốc mình, được sự đồng tình, thiện chí của toàn thế giới.

                              Là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại, bản thân Tuyên ngôn độc lập cũng là một bài chính luận xuất sắc với lập luận có hệ thống, chặt chẽ, ngắn gọn và thuyết phục. Lối hành văn sắc sảo, uyên bác, cũng như tài năng đặc biệt về thơ trữ tình chính trị chứng tỏ tài năng phi thường của ông trong lĩnh vực văn chính luận.

                              Lập luận đầu tiên bạn đưa ra trong phần đó là đưa ra cơ sở pháp lý dựa trên các tài liệu lịch sử của các quốc gia chính đã được xuất bản để làm tiền đề cho tuyên bố của bạn. Đầu tiên, ông trích dẫn một đoạn văn ấn tượng trong Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ (1776), được coi là chân lý của thời đại: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ quyền sống, quyền tự do và quyền tự do cá nhân”. mưu cầu hạnh phúc… Sau đó, bằng sự sáng tạo và tài tình của mình, Người đã mở rộng quan điểm của mình đồng thời nhấn mạnh, làm trọng tâm nhận định: “Mọi người trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, đó là dân tộc nào? “Quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do” khẳng định tính phổ quát của chân lý được nêu trong Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, rằng không chỉ bất kỳ con người nào mà tất cả các dân tộc trên thế giới đều phải được đối xử công bằng và được hưởng các quyền con người như quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Để tiếp tục bổ sung và khẳng định tính đúng đắn của lập luận trên, tôi xin mượn và trích dẫn một đoạn trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (1791) mà Người tâm đắc, nhấn mạnh bằng từ “bình đẳng”. và “liberty”, với mục đích Chứng minh rằng không chỉ bạn hay Mỹ, mà ở Pháp, người ta cũng chia sẻ quan điểm này. Có thể thấy, việc mượn cớ của hai đế quốc hùng mạnh nhất lúc bấy giờ, một là tuyên bố giặc xâm lược nước ta, là một đòn giáng mạnh vào âm mưu và cũng là đòn giáng mạnh vào luận điệu xảo trá của kẻ thù. Nhìn trộm và trở về nhà. Không những thế, với vị thế của hai đế quốc lớn là Mỹ và Pháp, giá trị của bản tuyên ngôn càng được củng cố, tin cậy hơn, thuyết phục hơn. Cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết cơ sở pháp lý bằng một câu ngắn gọn, đanh thép: “Đó là những sự thật, không ai chối cãi được”. Nó thể hiện sức mạnh, sự quyết liệt trong nghệ thuật quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh và khát vọng đem lại tự do, bình đẳng, công bằng, bác ái cho dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Những lí lẽ và dẫn chứng chọn lọc, không những tác động sâu sắc đến toàn thể dân tộc Việt Nam mà còn làm nhân dân Pháp và quân đội Pháp cảm động, ngầm phê phán và thức tỉnh lương tâm quân Pháp, chính quyền của họ đã vi phạm những điều mà tổ tiên họ đã lập ra, khiến cho phe cánh Pháp phải suy nghĩ về sự phản bội của mình là làm mất uy tín của cha mình. đồng thời khơi dậy được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.

                              Vừa nêu và khẳng định tính đúng đắn của căn cứ pháp lý, ông vừa tiến hành lập luận trên cơ sở thực tiễn nhằm đập tan âm mưu, luận điệu xảo quyệt của thực dân Pháp nhằm biến nước ta thành thuộc địa, với tư cách “khai sáng văn minh” hay “chủ nghĩa bảo hộ”. “,…Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra những bằng chứng vô cùng xác đáng và rõ ràng: “Tuy nhiên, cách đây hơn 80 năm, thực dân Pháp đã cướp nước ta và áp bức đồng bào ta dưới ngọn cờ tự do, bình đẳng, bác ái. . Hành động của chúng hoàn toàn đi ngược lại nhân đạo và công lý”. văn minh hóa” ta bằng cách “tuyệt đối không cho dân ta một quyền tự do dân chủ nào”, cứ xây nhà tù nhiều hơn trường học, giết chóc, tàn sát đồng bào ta một cách dã man, đem thuốc phiện kinh khủng, lạm dụng rượu chè để phá hoại và hạ thấp nhân dân ta. Chạy bộ. Không biết cái gì Thực dân Pháp “dân sự hóa” bằng những trò bẩn thỉu, kinh tởm này, về kinh tế, chúng biến nhân dân ta nghèo nàn, bần cùng hóa, biến Đất nước ta xơ xác, tiêu điều” thành “dân sự hóa”, rồi đánh đủ thứ thứ thuế vô lý để đàn áp nhân dân ta. Vì vậy, Bác đã đưa ra những bằng chứng rõ ràng, sắc bén này cho thực dân Pháp, đặc biệt là bọn đảo chánh của những kẻ cầm quyền luôn rao giảng “văn minh” để lừa bịp nhân dân ta và thế giới hòng chinh phục và đồng hóa nhân dân ta. Tuy nhiên, chúng quá coi thường dân tộc Việt Nam và quá ngang nhiên tham gia vào cuộc “khai hóa văn minh” điên cuồng, dẫn đến sự phơi bày không thể chối cãi.

                              Bên cạnh học thuyết “khai hóa” lố bịch, thực dân Pháp tiếp tục rêu rao học thuyết “bảo hộ”, nhưng thủ đoạn này không thể che giấu được âm mưu của chúng. Hồ Chí Minh đã nhanh chóng bác bỏ chúng, đưa ra những bằng chứng hết sức thuyết phục và rõ ràng rằng Pháp tuy mang tiếng bảo hộ nhưng thực chất Pháp đã hai lần dâng nước ta cho phát xít Nhật trong 5 năm. Kết quả là hơn 2 triệu đồng bào chết đói, không những mang tiếng bảo vệ mà còn không chịu cùng ta kháng Nhật cứu nước, thậm chí còn tham gia khủng bố gây tổn thất nặng nề cho quân và dân ta. Mọi người. Họ cũng tàn sát các tù nhân chính trị. Với quá nhiều bằng chứng về hành động vô liêm sỉ của thực dân Pháp, nói đến “bảo hộ” là nực cười, chúng không thấy xấu hổ hay sao? Có thể nói, với luận cứ sắc bén, trí tuệ và tài tình, Người đã sử dụng hai luận cứ chủ yếu là “khai hóa” và “bảo hộ” để vạch trần âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt của thực dân Pháp, không ai phủ nhận đã giáng cho thực dân Pháp một đòn đau. Sự giả hình trên khuôn mặt của kẻ thù. Cuối cùng, để kết thúc phần cơ sở thực tế, Người nhấn mạnh hai sự thật: “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta là thuộc địa của Nhật chứ không phải của Pháp. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh, nhân dân ta đã nổi dậy giành nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, “sự thật là nhân dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp”. Xác minh rằng Việt Nam hoàn toàn không có “văn minh” và “bảo hộ” của người Pháp, hoàn toàn tách khỏi người Pháp, rồi tuyên bố độc lập.

                              Sau khi làm rõ cơ sở pháp lý và làm rõ cơ sở thực tiễn với các lập luận và dẫn chứng chặt chẽ, ngắn gọn, súc tích, Chủ tịch Anh đã sử dụng biện pháp tu từ. Hồn, thép, kết cấu lặp lại không ngừng nhấn mạnh và tập trung vào hai vấn đề chính là “độc lập” và “độc lập”. Liberty tuyên bố độc lập dân tộc: “Nước Việt Nam được hưởng quyền tự do và độc lập, và thực tế đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tinh thần và sức lực, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập!” lời nói là từ Lòng yêu nước trong tim, yêu đồng bào, yêu hòa bình, cháy bỏng không chỉ vì mình mà còn vì người khác, lời nói của cả dân tộc Việt Nam. Để tuyên bố với thế giới rằng Việt Nam là một nước độc lập có chủ quyền, nhân dân Việt Nam quyết tâm bảo vệ bằng mọi giá nền độc lập cao quý và thiêng liêng này.

                              Có thể thấy, “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh không chỉ là một bản chính luận xuất sắc với những lập luận sắc bén, thuyết phục mà còn là một văn kiện lịch sử quan trọng – bản tuyên ngôn về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Việc khẳng định nền độc lập của đất nước sau hơn 80 năm nô lệ đã đánh dấu một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử đất nước, mở ra một kỷ nguyên mới độc lập, tự do, tự cường.

                              Phân tích văn bản Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 5

                              Lãnh tụ vĩ đại của đất nước ta không ai khác chính là Bác Hồ. Danh nhân văn hóa thế giới khiến ai cũng phải nghiêng mình ngả mũ là ai. Người đã để lại một kho tàng tác phẩm cho nền văn học nước nhà. Tuyên ngôn Độc lập là một trong số đó.

                              Tác phẩm được vẽ tại Hàng 48 ngày 26-8-1945. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, bác tôi đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” tại quảng trường Ba Đình, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Tuyên bố có kết cấu ba phần: căn cứ pháp lý – căn cứ thực tế – khẳng định.

                              Bản Tuyên ngôn mở đầu bằng những câu nói bất hủ trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp. Cả hai bản tuyên bố đều đề cập đến quyền tự do, quyền sống và quyền bình đẳng của con người. Bất cứ ai đánh giá cao những từ trong hai tài liệu này đánh giá cao chúng. Người khẳng định: “đó là những sự thật không ai có thể phủ nhận”. Bởi đó là kết quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám tiến bộ, một chân lý nhân văn đầy tính nhân văn. Nhà văn đấu tranh cho nhân quyền. Từ hai bản tuyên ngôn ông vận dụng một cách sáng tạo. Bắt đầu từ quyền con người, Người đề xuất quyền của cả dân tộc. Tầm nhìn xa trông rộng của Người đã khẳng định mạnh mẽ: “Nói một cách khái quát, điều này có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Trích dẫn hai bài báo này rất hiệu quả. Nó như “gậy ông đập lưng ông”, đập tan mọi ngụy biện của kẻ thù và tố cáo tội ác của kẻ thù. Đồng thời, Bác Hồ đã đặt cạnh tuyên bố của Việt Nam với tuyên bố của Pháp và Hoa Kỳ theo cách này, khơi mào một cách hiệu quả phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Phần mở đầu kết thúc bằng câu khẳng định: “Đây là những sự thật không ai có thể phủ nhận.”

                              Căn cứ thực tế của bản tuyên ngôn không gì khác ngoài tội ác của bọn thực dân và lập trường chính nghĩa của chúng ta. Để dằn mặt bộ mặt thối nát của thực dân Pháp, Người đã dùng một câu đối có hai mặt. Bạn đã đảo ngược câu hỏi: “hơn 80 năm trước”. Các đồng chí đã vạch trần những luận điệu xảo quyệt của thực dân Pháp và đánh phủ đầu chúng. Tội ác của bọn thực dân đã bị phơi bày trên nhiều phương diện như chính trị, văn hóa, kinh tế. “Về chính trị, chúng hoàn toàn không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành luật pháp man rợ, thiết lập ba chế độ khác nhau ở Bắc, Trung, Nam và chúng xây dựng nhà tù. Không chỉ trường học, chúng trực tiếp tàn sát những người yêu nước, yêu Tổ quốc. chúng tắm cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu, chúng thi hành chính sách ngu dân, dùng rượu, thuốc phiện, rượu chè để làm cho nòi giống ta tốt đẹp hơn, thực dân Pháp gọi là văn minh, văn minh, tự do, bình đẳng, bác ái và ngược lại, về kinh tế, chúng bóc lột đồng bào ta đến tận xương tủy, bỏ mặc đồng bào ta bần cùng, bỏ nước ta hoang tàn.

                              Chúng đã đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý nhằm bần cùng hóa nhân dân ta, nhất là nông dân và thương nhân. Chúng không để cho giai cấp tư sản của chúng ta nắm đầu. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng dã man. Để thấy tội ác chồng chất của chúng, bạn sử dụng phương pháp kết hợp lặp đi lặp lại các cấu trúc cú pháp liệt kê. Cách viết mạnh mẽ của người đàn ông thể hiện rõ lòng căm thù khơi dậy lòng căm thù khủng khiếp ở người đọc, người nghe. Đặc biệt là hình ảnh “tắm cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu”. Hình ảnh này rất gợi cảm. Nhưng tội ác của họ vẫn chưa kết thúc. Hai lần trong năm năm bán nước ta cho Nhật. Mùa thu năm 1940, Nhật vào Đông Dương, Pháp “quỳ gối đầu hàng”. Từ đó, nhân dân ta bị xiềng xích hai mặt của Pháp và Nhật hành hạ, khiến hơn hai triệu người từ Quảng Trị đến Tokyo chết đói. Họ cũng trực tiếp đàn áp và đe dọa Việt Minh. Tội ác của chúng đã làm cho nhân dân ta khốn khổ.

                              Tôi có lập trường chính đáng của mình. Đồng bào ta vẫn giữ thái độ nhân đạo, khoan hồng. Thực tế là từ mùa thu năm 1940, nước ta bị biến thành thuộc địa của Nhật. Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, nhân dân cả nước đã nổi dậy giành chính quyền. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Đại thoái vị, nhân dân ta đã phá mấy lớp xiềng xích thực dân gần 100 năm, lập nên nước Việt Nam độc lập. Bằng một giọng điệu gấp gáp, nhiều từ khẳng định: “Sự việc là thế…”, người đã thành công khẳng định rằng chúng ta công bằng, pháp luật không có, chúng ta có độc lập tự do là tất yếu.

                              Phần cuối cùng của bản tuyên ngôn là lời tuyên bố. Bản tuyên bố này là lời tuyên bố với nước Pháp, với quân Đồng minh, với nhân dân Việt Nam và toàn thế giới. Đồng thời, khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do của nhân dân ta: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và sức lực, tính mạng và tài sản của mình để giữ vững quyền tự do, độc lập đó”.

                              Bản “Tuyên ngôn Độc lập”, cũng như “Hòa bình giữa biển đảo”, “Sông núi nước Nam”, là bản anh hùng ca ngàn xưa của dân tộc ta.

                              Phân tích Tuyên bố độc lập – Mẫu 6

                              Mùa thu năm 1945, cả nước tưng bừng. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã giải phóng dân tộc Việt Nam thoát khỏi xiềng xích nô lệ, áp bức, vượt qua ngưỡng cửa bóng tối, tiến tới ánh sáng của độc lập, tự do. Sáng 2-9, vào một buổi sáng trong lành, trước hàng triệu đồng bào ở Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam mới. Việt Nam dân chủ. Bản tuyên ngôn được viết trong tâm trạng vui vẻ nhất. Bằng tất cả tâm hồn, suy nghĩ và những cảm xúc mãnh liệt, Người đã truyền đến trái tim của hàng trăm triệu người một sự chấn động sâu sắc và thấm thía, đồng thời tuyên bố một cách chắc chắn và dũng cảm với thế giới về sự tồn tại độc lập của nước ta.

                              Toàn văn bản tuyên bố không dài, chưa đến một nghìn chữ nhưng hết sức cô đọng, súc tích. Bản Tuyên ngôn được chia thành ba phần rõ rệt, mỗi phần một ý, được kết nối với nhau một cách nhuần nhuyễn theo một bố cục chặt chẽ và mạch lạc… Phần đầu của Tuyên ngôn nêu sự thật về quyền con người và quyền công dân. Tác giả trích dẫn hai bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới là Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp với dụng ý sâu sắc. Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ ra đời sau Hoa Kỳ; bản Tuyên ngôn Độc lập giành thắng lợi.

                              Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền cũng ra đời từ thắng lợi của Cách mạng Pháp, một cuộc cách mạng của thị dân và nông dân chống lại áp bức và bất công. Bản thân hai bản tuyên ngôn trên đã nói lên sự thật, tiêu biểu cho sự tiên phong cách mạng của các nước có ảnh hưởng quan trọng trên thế giới, là công lý quốc tế, không ai có thể phủ nhận tính đúng đắn của chúng. Có thể thấy sự thấu hiểu và cân nhắc của chủ tọa khi viện dẫn những sự thật này. Không những thế, Người còn vận dụng một cách sáng tạo: “Theo nghĩa rộng, đó là: các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Khái niệm ấy được chuyển hóa thành khái niệm tổ quốc, điều hiếm thấy hơn nữa là ngay đầu đoạn này cũng trích dẫn “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền”, toát lên sức chiến đấu mạnh mẽ và tiềm tàng của “Tuyên ngôn của Độc lập”. Vì chính quyền hợp pháp phục vụ công lý. Các chính phủ theo tinh thần của Tuyên ngôn Nhân quyền đang hành động ngược lại; “Tuy nhiên, hơn tám mươi năm qua, thực dân Pháp đã giương cao ngọn cờ tự do… hành động của họ hoàn toàn trái ngược với nhân loại và công lý. “Rõ ràng, qua cách lập luận như vậy, một sự thật đã được phơi bày rõ ràng: bản chất của thực dân Pháp ở Việt Nam trái ngược với nhân đạo và chính nghĩa, xin kết thúc phần này một cách ngắn gọn đầy khẳng định và thuyết phục.

                              Theo nghĩa rộng, phần thứ hai liệt kê cô đọng những tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra trong gần một trăm năm đô hộ nước ta. Trước hết, chúng tước đoạt quyền tự do chính trị của nhân dân ta “tuyệt đối không cho nhân dân ta một quyền tự do dân chủ nào…”, “chúng trực tiếp tàn sát tù chính trị ở miền xuôi và miền núi”, “chúng thi hành luật pháp dã man”, “chúng lập ba khác nhau Chế độ Trung Nam, Bắc Bắc không cho nước ta thống nhất, dân ta không đoàn kết”… Chỉ trong 20 câu, chúng đã xé toạc vỏ bọc lừa bịp “bảo vệ văn minh” của chúng để che đậy những việc làm xấu xa của mình. Từ những hành động dã man của thực dân Pháp như uy hiếp Việt Minh, giết hại tù chính trị… tác giả dẫn chúng ta đến hành động nhân đạo. Chúng ta chống chủ nghĩa phát xít, chúng ta đứng trên mặt trận dân chủ chống phát xít, chúng ta có vai trò và địa vị xứng đáng trước quốc tế, chủ yếu là do sức mạnh của chính dân tộc.

                              Quyền tự do vừa giành được là vô giá mà nhân dân ta đã phải hy sinh biết bao xương máu mới có được. Tuy nhiên, vẫn còn không ít các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang muốn thủ tiêu sự sống của nước Việt Nam non trẻ vừa mới hình thành, hiểu rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân tuyên bố một cách long trọng và dứt khoát.

                              Đây là đoạn độc thoại đầu tiên tuyên bố với thế giới về sự ra đời của một quốc gia mới, đánh dấu một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do của một dân tộc bất khuất, kiên cường. Đây là chiến thắng đầu tiên của một cường quốc thực dân châu Á. Ngược lại, Tuyên ngôn được coi là một luận cứ chính trị mẫu mực, hùng hồn và hấp dẫn về lý lẽ, bằng lời lẽ dễ hiểu, hình ảnh dễ hiểu, chính xác, mạnh mẽ, câu văn ngắn gọn nhưng hùng hồn, vừa răn đe vừa vạch mặt kẻ thù. , truyền cảm hứng, truyền cảm hứng, và xây dựng sự đồng thuận quốc tế.

                              Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 7

                              Trong số các tác phẩm của ông, có nhiều kiệt tác sánh ngang với các bản anh hùng ca dân tộc, mà tiêu biểu nhất là Tuyên ngôn độc lập. Giọng văn hùng hồn, đau xót, lập luận sắc bén, mạch lạc, có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người đọc, người nghe – “Tuyên ngôn độc lập” là kết quả của bao nhiêu xương máu, bao nhiêu sinh mạng hy sinh của các anh hùng dân tộc Việt Nam trong ngục tù, tập trung ở đảo xa Trên trại, trên máy chém, trên chiến trường. Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao hy vọng, nỗ lực và niềm tin của hơn 20 triệu người dân Việt Nam (Trần dân tiến).

                              Tuyên ngôn Độc lập bắt đầu bằng một tuyên bố thẳng thắn. Ai là người đưa ra cơ sở pháp lý, “sự thật không thể chối cãi”. Đây là những câu nói nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ. 1776 Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ: “Con người sinh ra… để mưu cầu hạnh phúc”. Để làm nổi bật tính phổ quát của các quyền, ông cũng đề cập đến những lời trong Tuyên ngôn về Quyền của Con người và Công dân của Pháp năm 1791: “Con người sinh ra với…các quyền.” Cách trình bày bằng chứng này vừa khéo léo vừa dứt khoát. Khéo léo vì nó thể hiện sự tôn trọng chân lý chung cho dù nó do các quốc gia thù địch gây ra. Cách trình bày bằng chứng này cũng hàm ý chỉ trích. Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ – những kẻ xâm lược đã chà đạp lên sự thật, lương tâm và lý tưởng của tổ tiên. Đó là cách kẻ thù lấy cớ của kẻ thù để đánh vào lưng kẻ thù bằng một cây gậy lớn. Ông nói thêm rằng cả hai tuyên bố của Pháp và Mỹ đều nhấn mạnh đến quyền con người. Những câu nói nổi tiếng của những người sáng lập các phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Đồng thời so sánh bản tuyên ngôn của nước ta với hai bản tuyên ngôn trên.

                              Bác bỏ lập luận đó là lên án chủ nghĩa thực dân Pháp. Những lời bất hủ trong Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đã trở thành cơ sở pháp lý để bác bỏ những lời buộc tội thực dân Pháp. “Và hơn 80 năm đã trôi qua… với nhân nghĩa và chính nghĩa” Sau khi tóm tắt chung tội ác của thực dân Pháp, bản tuyên ngôn đưa ra những ví dụ cụ thể để vạch trần những hiện thực “bảo hộ” của thực tế. Dân luật trước toàn thể nhân loại: “Về chính trị, họ tuyệt nhiên không cho… một chút dân chủ nào”. Cách trần thuật của tác giả hùng hồn, sắc sảo. Cùng một cách lập luận: “Họ làm…”, “Họ làm…”. “Chúng trực tiếp giết…” Có thể thấy, thực dân Pháp đã tích lũy tội ác đối với nhân dân ta. Tác giả đã dùng những hình ảnh để làm nổi bật sự tàn bạo của thực dân Pháp: “Chúng thẳng tay tàn sát những người yêu nước… chúng tắm trong… cuộc thảm sát”.

                              Về kinh tế, Người cũng tố cáo thực dân Pháp nói chung và nói riêng là “chúng bóc lột nhân dân ta… uổng phí”. Bác quan tâm đến những người như thế này: “Nông dân nghèo đi”, “Chúng không để cho giai cấp tư sản của chúng ta ngóc đầu lên”. Lập luận là ông ấy muốn đảm bảo sự hỗ trợ của Nhóm Thống nhất Lớn để bảo vệ nền độc lập. Xuyên suốt đoạn văn, tác giả chỉ dùng một chủ ngữ là “họ” để chỉ bọn thực dân Pháp, nhưng vị ngữ cứ thay đổi: “xử tử”, “bộ”, “trực tiếp giết”, “tắm” là chỉ một người. Kẻ thù là thực dân Pháp, nhưng tội ác của chúng trên đất nước ta thì nhiều không đếm xuể. Lập luận chặt chẽ, ví dụ cụ thể khiến kẻ thù bất lực.

                              Tội ác lớn nhất của thực dân Pháp là nạn đói lớn năm 1945: “Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương mở thêm căn cứ để cùng đồng minh đấu tranh, thực dân Pháp cúi đầu đầu hàng. đất nước mở cửa đón hàng, từ đó nhân dân ta bị hai xiềng xích là Pháp và Nhật hành hạ, từ đó nhân dân ta càng thêm khốn khổ, nghèo đói, kết quả là từ cuối năm ngoái đến đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Tô-ky-ô, hơn hai triệu đồng bào chết đói.”

                              Tác giả cũng không bỏ qua những tội ác khác của thực dân Pháp như “bán cho… Nhật trong vòng 5 năm”, tội trực tiếp uy hiếp Việt Minh, tội “giết gần hết tù chính trị Việt Nam”. “.hãy im lặng và cao.”

                              Ai tố cáo thực dân Pháp một cách hùng hồn, đanh thép như vậy là đã vạch trần bản chất man rợ của thực dân Pháp, phơi bày “nền văn minh” và “sự bảo hộ” của chúng trước nhân dân. Đồng bào hãy khơi dậy lòng căm thù của nhân dân ta chống thực dân Pháp.

                              Tác giả đã thể hiện sức mạnh dân tộc trong cuộc đấu tranh chống ách thống trị của thực dân phong kiến, giành độc lập “Pháp chạy, Nhật đầu hàng… thành lập thể chế dân chủ cộng hòa”. Đoạn văn này đầy hùng biện. Chỉ dùng chín chữ “Pháp Hưng, Hưng Hưng, Vương Lệnh Đại thoái vị”, một giai đoạn lịch sử bấp bênh nhưng vô cùng huy hoàng của nước ta đã được dựng lại. Tác giả ca ngợi truyền thống bất khuất của dân tộc, nhằm khơi dậy lòng tự hào dân tộc, khơi dậy ý chí chiến đấu, quyết tâm chống lại âm mưu của thực dân Pháp.

                              Sau đó, Người giải thích nguyên nhân chính đáng của việc xây dựng một nước Việt Nam mới. Việt Minh là tổ chức cách mạng của cả dân tộc Việt Nam. Việt Minh đứng về phe Đồng minh, đánh thực dân, phát xít Nhật, giành chính quyền từ tay Nhật. Hai lần ông nhấn mạnh nền độc lập của đất nước với một sự ám chỉ mạnh mẽ: “Sự thật là…”.

                              Trên cơ sở đó, Người đã tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuyên bố cắt đứt hoàn toàn quan hệ với thực dân Pháp và xóa bỏ chúng ở Việt Nam…”

                              Vòng cuối tượng trưng cho cả một dân tộc vừa giành được độc lập, tự do. Người đã từng thề “bảo vệ nền độc lập tự do bằng tất cả tinh thần và sức lực, tính mạng và của cải của mình” – bản “Tuyên ngôn độc lập” là kiệt tác của Hồ Chí Minh. Bằng tâm huyết và tài năng, ông đã thể hiện dũng khí của một dân tộc vùng lên chống đế quốc, thực dân phong kiến, đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Với việc công bố “Tuyên ngôn độc lập”, lần đầu tiên Việt Nam xuất hiện trên trường quốc tế với tư cách là một nước tự do, độc lập, nhân dân thế giới cũng thấy rõ quyết tâm bảo vệ độc lập, tự cường của nhân dân Việt Nam.

                              Tuyên ngôn Độc lập trước hết là một văn kiện lịch sử. Đó là văn bản quan trọng nhất của nước ta. Để có được bản “Tuyên ngôn độc lập”, biết bao đồng bào, đồng chí đã hy sinh trong cuộc đấu tranh 80 năm chống Pháp. Bản Tuyên ngôn Độc lập là một mốc son lịch sử chấm dứt một thời nước mất, dân tộc ta sống kiếp trâu ngựa, nô lệ dân tộc, mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do.

                              Hệ thống lập luận chặt chẽ, lập luận sắc bén, giọng văn hùng hồn, là bản tuyên ngôn sánh ngang với thế giới, là bản anh hùng ca của dân tộc. của nguyễn trãi.

                              Phân tích văn bản Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 8

                              Bản “Tuyên ngôn Độc lập” là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử do đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh viết. Tác phẩm này là văn kiện tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ​​ở nước ta và mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do.

                              Tuyên ngôn độc lập ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử hết sức đặc biệt. Bản tuyên ngôn này ra đời trong thời điểm chính quyền cách mạng mới đứng trước nhiều thách thức và các thế lực phản động đang cấu kết với nhau hòng tước đoạt thành quả của chúng ta. Tuy nhiên, bản Tuyên ngôn ra đời có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với dân tộc ta.

                              Trong phần Cơ sở pháp lý của Tuyên ngôn Độc lập, Người đã bác bỏ nguyên văn một đoạn trong Tuyên ngôn của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Lấy đó làm cơ sở pháp lý, lấy những nguyên tắc cơ bản quan trọng nhất làm tiền đề, Người đã hoàn thiện và phát triển tư tưởng của toàn bộ tác phẩm thành luận điểm: từ quyền bình đẳng cho mọi người đến quyền bình đẳng cho mọi người. thế giới. Đây là sự sáng tạo dũng cảm, mưu lược và thông minh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nó là sản phẩm của sự suy luận sắc bén, sáng tạo và những đóng góp to lớn của con người. Nó có ý nghĩa thiết thực không chỉ đối với cách mạng Việt Nam mà còn đối với phong trào giải phóng dân tộc thế giới. Ngoài ra, ông trích dẫn Tuyên bố, tập hợp đầy đủ các phần tóm tắt hùng hồn của nó, đề cao các quyền tự do và bình đẳng của con người—những quyền cơ bản và hợp pháp mà không con người nào có được. sự thật.

                              Sử dụng hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của nhân loại, hai cường quốc trên thế giới để âm mưu thôn tính nước ta, một mặt chúng muốn tăng thêm sức thuyết phục cho bản tuyên ngôn độc lập của nước ta. Mặt khác, nó cũng thể hiện sự tài tình của tác giả. Ông không chỉ giữ vững truyền thống bình đẳng, tự do, nhân văn và tinh thần tự do tiến bộ của nhân dân Mỹ và Pháp mà còn đóng vai trò ngăn chặn âm mưu xâm lược của chúng. Đó là nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”. Ông cũng sử dụng những lập luận sắc bén nhất, câu văn ngắn gọn và sắc bén, giọng nói sang sảng và hùng hồn. Đây là tiếng nói khẳng định đầu tiên trong cuộc đấu tranh vì chính nghĩa của dân tộc.

                              Trong cáo trạng, bị cáo đã đưa ra những lý lẽ, chứng cứ cụ thể về mọi mặt. Từ chính trị, kinh tế đến quân sự, văn hóa, không thể kể hết những áp bức, bóc lột mà nhân dân ta phải gánh chịu. Đây được coi là bản án chi tiết lên án tội ác của thực dân Pháp. Sự dã man, tàn ác, nhẫn tâm của thực dân Pháp đã tái hiện nhiều lần, tái hiện một cách sinh động hình ảnh quá khứ của đất nước Việt Nam ta. Tiếp đó, Người kể về quá trình giành độc lập, tự do của nhân dân ta. Ông kể những câu chuyện anh hùng, nhân nghĩa của dân tộc ta. Đó là cuộc chiến tranh chính nghĩa, anh dũng của cả dân tộc. Nhân danh tổ quốc, Người bày tỏ quyết tâm đập tan âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Quyết tâm được thể hiện bằng những từ khó quên, và Shanhe kiên quyết thề.

                              Phần cuối của bản tuyên ngôn là phần tổng kết toàn bộ: Tuyên ngôn độc lập khẳng định quyết tâm giữ vững nền độc lập. Đồng chí nhắc lại độc lập, tự do là quyền tất yếu của dân tộc Việt Nam và là sự thật lịch sử không ai có thể phủ nhận. Câu văn ngắn gọn, sắc sảo nhưng thể hiện được niềm tự hào, tự tôn dân tộc của tác giả. Bản “Tuyên ngôn Độc lập” cũng rất quan trọng. HCM giải quyết cùng lúc hai vấn đề: độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân.

                              Có thể nói, “Tuyên ngôn độc lập” là một bản chính luận ngắn gọn, đanh thép, lập luận chặt chẽ, thể hiện trí tuệ và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ đó, Tuyên ngôn Độc lập được coi là “thiên cổ hùng văn”.

                              Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 9

                              Ngày 2-9-1945 là sự kiện trọng đại ghi dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử dân tộc trong lòng nhân dân Việt Nam. Hơn 60 năm đã trôi qua, nhưng mỗi lần xem lại bộ phim tư liệu, tôi lại nhớ về cái năm tháng đứng giữa Quảng trường Ba Đình nghe Bác Hồ nói chuyện trìu mến mà lòng trào dâng niềm vui sướng, tự hào. “Hơi ấm” tôi có nghe rõ không? Đọc Tuyên ngôn độc lập – một văn kiện lịch sử đặc sắc – một áng văn chính luận hoành tráng.

                              Toàn văn bản “Tuyên ngôn độc lập” không dài, chỉ chưa đầy một nghìn chữ nhưng lại vô cùng cô đọng, súc tích. Bản tuyên ngôn được chia làm ba đoạn rõ rệt, mỗi đoạn một ý, liên kết với nhau một cách nhuần nhuyễn theo một bố cục mạch lạc.

                              Phần một, bản tuyên ngôn vạch ra sự thật về quyền con người và quyền công dân. Tác giả trích dẫn hai bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới là Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp. Tuyên ngôn độc lập của Mỹ ra đời sau cuộc đấu tranh giành độc lập thành công của nước Mỹ. Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền cũng ra đời từ thắng lợi của Cách mạng Pháp, cuộc cách mạng của công nông chống lại áp bức, bất công. Lời lẽ của hai bản tuyên ngôn trên đây tự nó là sự thật, là kết quả của các cuộc cách mạng đã diễn ra. Bản chất tiên phong của các quốc gia có ảnh hưởng nhất trên thế giới khiến cho sự đúng đắn của họ không thể phủ nhận. Có thể thấy sự thấu hiểu và cân nhắc của chủ tọa khi viện dẫn những sự thật này. Không những thế, Người còn vận dụng một cách sáng tạo: “Chơi câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Đáng chú ý hơn nữa, ngay ở đầu đoạn này, nó cũng trích Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền. Thể hiện khả năng đấu tranh và hành động đối kháng mạnh mẽ: “Tuy nhiên, hơn 80 năm qua, thực dân Pháp đã cướp nước ta và áp bức đồng bào ta nhân danh tự do, bình đẳng và bác ái”. Rõ ràng, qua cách lập luận như vậy, sự thật đã lộ rõ ​​là bản chất của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam là hoàn toàn trái ngược với nhân đạo và chính nghĩa. Phần này kết thúc bằng một tuyên bố ngắn gọn, thuyết phục: “Đây là những sự thật không ai có thể phủ nhận.”

                              Phần thứ hai liệt kê ngắn gọn tội ác của thực dân Pháp trong gần một trăm năm đô hộ nước ta. Thứ nhất, chúng tước đoạt quyền tự do chính trị của nhân dân ta và “không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào cả”. Tiếp theo là “chúng đã thi hành luật pháp man rợ, ngăn cản sự thống nhất của đất nước ta, ngăn cản sự đoàn kết của nhân dân ta…” Toàn bộ đoạn văn dày đặc những lời lên án và tố cáo mạnh mẽ, tội ác toàn diện của bọn cướp. Từng câu, từng chữ đều bộc lộ bản chất của kẻ xâm lược. Thực dân Pháp thực hiện chính sách hủy diệt văn hóa ngu xuẩn, đó là thông qua “nhà tù nhiều hơn trường học” để hủy hoại bản sắc dân tộc, ý thức lịch sử và truyền thống dân tộc. Chúng đàn áp dã man những người yêu nước, “nhúng tắm cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu”, tước đoạt trắng trợn, vô lý quyền thiêng liêng nhất của loài người: quyền sống. Đây là bản chất của văn minh, cái gì gọi là mang lại văn minh cho người bản xứ dốt nát. Chúng còn “bóc lột dân la đến tận xương tủy…chúng cướp bóc của dân không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu…chúng áp đặt hàng trăm thứ thuế vô lý để bắt nhân dân ta tin chúng…chúng bóc lột công chúng”. Con đường rất tàn nhẫn. “Chúng hành động hết sức dã man. Hơn nữa, khi bị Nhật tước vũ khí, chúng đã chạy trốn, đầu hàng và hai lần bán nước ta cho Nhật. Sự thật lịch sử đã vạch trần sự xảo quyệt và hèn nhát của quân xâm lược. Chỉ hai mươi trong một câu, tác giả xé bỏ vỏ bọc dối trá “bảo vệ nền văn minh” mà chúng dùng để che đậy hành động xấu xa của mình, tác giả dùng liên tiếp những từ ngữ cao siêu tinh tế: hắn, tuyệt đối không, độc ác, thẳng tay giết người, tắm rửa… một vũng máu, bóc lột đến tận xương tuỷ… …ngôn ngữ linh hoạt, sắc bén, đầy hình ảnh cụ thể, chính xác, giàu sức gợi và thể hiện được sự căm phẫn sâu sắc trước tội ác dã man đó. đồng nghĩa, như một nhát búa đập vào lớp vỏ lộng lẫy mà bọn thực dân đã rót bấy lâu nay, vang vọng, nhấn mạnh và trở về. Đi về như thấm nhuần ký ức, như kết tội, luận tội, đồng thời thể hiện sức mạnh của mình, sức mạnh của công lý. So với hành vi vô nhân đạo của thực dân Pháp, cuộc đấu tranh của nhân dân ta đầy tính nhân đạo và chính nghĩa.Từ những hành động dã man của thực dân Pháp uy hiếp Việt Minh và giết hại những người tù chính trị, tác giả dẫn dắt ta thấy được sự nhân đạo và những việc làm nhân hậu của quân và dân ta: Giúp nhiều người Pháp chạy qua biên giới, cứu nhiều người Pháp thoát khỏi nhà tù của Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản của chính họ… Thông điệp chân lý là… Thắng lợi của ta đã được khẳng định: chúng ta đã giành lại nước ta từ tay thực dân Pháp đô hộ và bán cho phát xít Nhật, chúng ta là những người chống phát xít, đứng về phía mặt trận dân chủ chống phát xít, có vai trò và địa vị xứng đáng trước thế giới, chủ yếu là vì quyền tự chủ của dân tộc, cho nên các nước tiên tiến trên thế giới phải đồng lòng ủng hộ nhân dân ta về mặt pháp lý Được hưởng quyền tự do, độc lập. vua thoái vị” ngắn gọn, súc tích, nghe như cổ vũ. Câu này cũng có thể là một điển hình cho phong cách Hồ Chí Minh, ngắn gọn, chính xác, mạnh mẽ, ý nghĩa Sâu sắc và dài hơi. Thông báo với thế giới một đất nước mới còn đau khổ nhiều, tác giả rất sắc sảo và triệt để trong việc sử dụng các cụm từ thoát ly hoàn toàn, xóa bỏ tất cả, xóa bỏ tất cả, để nhấn mạnh sự cưỡng chế tuyệt đối phủ nhận mọi ràng buộc với nhà nước của người Pháp, cắt đứt sợi dây cuối cùng trói buộc Việt Nam, và ra đi đất nước hoàn toàn tự do đứng lên thiết lập chế độ mới.

                              Sự tự do mà bạn vừa giành được là vô giá. Để có được nó, nhân dân ta đã phải hy sinh, đổ máu. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn không ít kẻ thù trong và giặc ngoài đang muốn giết chết sức sống non trẻ của non trẻ Việt Nam. Nhận rõ điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân tuyên bố một cách trịnh trọng và dứt khoát: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và đã thực sự trở thành một nước tự do, độc lập. và sức lực, tính mạng và của cải Nêu cao quyền tự do, độc lập Đó là tinh thần dân tộc hào hùng, quyết hy sinh tất cả để bảo vệ độc lập, tự do Ba chữ tự do, độc lập dường như khắc sâu trong tâm trí hàng triệu người Việt Nam nhân dân, như tiếng hô hào hùng xung trận, chói tai, chói tai. Tuyên một lời thề thiêng liêng nghe đanh thép, vừa là lời cổ vũ nhân dân ta, vừa là lời cảnh cáo kẻ thù.

                              Đây là bản Tuyên ngôn Độc lập, lần đầu tiên tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của một quốc gia mới, đánh dấu buổi bình minh của một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do của một dân tộc bất khuất, kiên cường. Nó đánh dấu chiến thắng đầu tiên của một quốc gia ở châu Á. Mặt khác, Tuyên ngôn còn là một luận cứ chính trị mẫu mực, với những luận cứ và luận điểm mạnh mẽ, hấp dẫn, dễ tiếp cận, chính xác và có sức thuyết phục trong ngôn từ và hình ảnh. Ngắn gọn mà sắc bén, giản dị mà hùng hồn, nó không chỉ cảnh tỉnh kẻ thù, mà còn vạch mặt kẻ thù, truyền cảm hứng và khích lệ tinh thần của nhân dân, cô đọng sự đồng thuận của quốc tế.

                              Chắc chắn rằng, Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa chân lý lịch sử dân tộc và thế giới mà còn có ý nghĩa thời đại. Bản tuyên ngôn vừa mang tính lịch sử vừa mang tính văn học. Vì vậy, nó mãi là áng văn bất hủ và là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam yêu nước.

                              Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 10

                              Độc lập là ước mơ, nguyện vọng của bao thế hệ, bao dân tộc. Bản “Tuyên ngôn độc lập” đã thực hiện được ước nguyện ngàn năm và trở thành áng văn hào hùng của dân tộc Việt Nam.

                              Phần một, bản tuyên ngôn vạch ra sự thật về quyền con người và quyền công dân. Tác giả trích dẫn hai bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới là Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp thật ý nghĩa. Lời lẽ của hai bản tuyên ngôn trên đây tự nó là sự thật và là kết quả của các cuộc cách mạng tiên phong ở các nước có ảnh hưởng nhất trên thế giới, vì vậy không thể phủ nhận tính đúng đắn và giá trị của hai bản tuyên ngôn này. Ngoài việc đưa ra những dẫn chứng sâu sắc, Hồ Chí Minh còn vận dụng những lập luận hết sức thuyết phục và những suy luận logic. “Theo nghĩa rộng, có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng; mọi dân tộc đều có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.” khái niệm. Phải chăng ngay đầu đoạn này, cũng là một câu trích trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền nêu lên sức chiến đấu to lớn và tiềm năng hành động theo hướng ngược lại: “Tuy nhiên, hơn 80 năm trước, bọn thực dân đã sử phương thức giương ngọn cờ tự do, bình đẳng, bác ái để cướp nước, áp bức đồng loại, pháp luật Việt Nam hoàn toàn trái ngược với nhân đạo, công lý, kết thúc phần này bằng một câu ngắn gọn nhưng hùng hồn: “Đây là những sự thật không thể chối cãi. “

                              Rộng hơn, phần thứ hai liệt kê ngắn gọn những tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra trong gần một trăm năm đô hộ nước ta. Thứ nhất, chúng tước đoạt quyền tự do chính trị của nhân dân ta và “không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào cả”. Tiếp theo là “chúng đã thi hành luật pháp man rợ, ngăn cản sự thống nhất của đất nước ta, ngăn cản sự đoàn kết của nhân dân ta…” Toàn bộ đoạn văn dày đặc những lời lên án và tố cáo mạnh mẽ, tội ác toàn diện của bọn cướp. Từng câu, từng chữ đều bộc lộ bản chất của kẻ xâm lược. Thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân, phá hoại văn hóa, xóa bỏ bản sắc dân tộc, ý thức lịch sử và truyền thống dân tộc thông qua “nhà tù nhiều hơn trường học”. Chúng thẳng tay đàn áp những người yêu nước, “nhúng tắm cuộc khởi nghĩa của chúng ta trong bể máu”, tước đoạt trắng trợn, vô lý quyền thiêng liêng nhất của con người: quyền được sống. Đây là bản chất của văn minh, cái gì gọi là mang lại văn minh cho người bản xứ dốt nát. Chúng còn “bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy…chúng cướp ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu…chúng áp đặt hàng trăm thứ thuế vô lý làm cho nhân dân ta bị bần cùng hóa…chúng bóc lột chúng tôi. Công nhân chúng tôi vô cùng dã man”, chúng hành vi rất vô nhân đạo và vô nghĩa. Hơn nữa, khi bị Nhật tước vũ khí, họ đã chạy trốn, đầu hàng và “hai lần bán nước cho Nhật”. Đây là bản chất bảo vệ của họ, và sự thật lịch sử đã tiết lộ bản chất xảo quyệt và hèn nhát của họ. Sự hèn nhát của quân xâm lược.

                              20 câu ngắn gọn của tác giả đã phơi bày sự dối trá, lừa bịp của “dân bảo hộ” mà thực dân Pháp bấy lâu nay che đậy cho những việc làm xấu xa của chúng. Tác giả sử dụng liên tục các từ ngữ cao siêu tinh tế: anh, tuyệt đối không được phép, dã man, trực tiếp giết chóc, tắm rửa, vũng máu, bóc lột đến tận xương tủy…, ngôn ngữ linh hoạt, sắc bén, sắc bén, đầy cụ thể, chính xác, gợi tả hình ảnh, thể hiện niềm khao khát những cơn thịnh nộ sâu sắc của một tội ác man rợ. Thông tin của “họ” xuất hiện dày đặc, lồng trong các câu song song, đồng nghĩa, như búa bổ vào vỏ hoa mà thực dân lâu ngày rót vào, gây xúc động, nhấn mạnh rồi trở lại, như thấm nhuần ký ức, như lên án luận tội và đồng thời cho chúng ta thấy sức mạnh của công lý. Đối lập hoàn toàn với những hành động dã man, vô nhân đạo của thực dân Pháp là cuộc đấu tranh nhân đạo, chính nghĩa của nhân dân ta. Từ những vụ giết hại dã man những người tù chính trị của thực dân Pháp như bọn khủng bố Việt Minh, tác giả hướng dẫn chúng ta thấy được những hành động nhân đạo, hào hùng của quân và dân ta: giúp nhiều người Pháp vượt biên, giải cứu nhiều người Pháp thoát khỏi nhà tù Nhật, bảo vệ tài sản tính mạng của họ Thông điệp sự thật là… khẳng định chiến thắng của chúng ta: Chúng ta đã giành lại đất nước từ tay Nhật, một đất nước thực tế đã bị Pháp cướp và bán cho phát xít Nhật. Chúng ta đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, đứng về phía mặt trận dân chủ chống phát xít, có vai trò, địa vị trước quốc tế, chủ yếu là vì quyền tự chủ của dân tộc. Vì vậy, các quốc gia tiên tiến trên thế giới phải đồng lòng ủng hộ quyền tự do và độc lập của nhân dân ta một cách hợp pháp. “Pháp chạy, ngày vua tâu vua thoái vị” ngắn gọn ngọt ngào nghe như tiếng hoan hô. Cũng có thể lấy câu này làm ví dụ tiêu biểu cho phong cách ngắn gọn của Hồ Chí Minh. Chính xác và mạnh mẽ, đầy ý nghĩa.. tuyên bố với thế giới về sự thành lập của một quốc gia mới, tuy đau khổ rất nhiều, nhưng tác giả sử dụng rất sắc sảo và triệt để các cụm từ hoàn toàn thoát tục. , xóa tất cả, xóa tất cả nhấn mạnh sự phủ định tuyệt đối mọi lệ thuộc trong quan hệ với Pháp, cắt đứt sợi dây cuối cùng ràng buộc Việt Nam, để đất nước vùng lên hoàn toàn tự do để thiết lập một chế độ mới.

                              Sự tự do mà bạn vừa giành được là vô giá. Để có được nó, nhân dân ta đã phải hy sinh, đổ máu. Tuy nhiên, lúc bấy giờ vẫn còn nhiều kẻ thù trong và ngoài tìm cách bóp nghẹt sức sống non trẻ của nước Việt Nam. Nhận rõ điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân ta tuyên bố một cách trịnh trọng và dứt khoát: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và đã thực sự trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem hết tinh thần và sức lực, tính mạng và của cải để bảo vệ quyền tự do, độc lập. Đó là tinh thần dân tộc anh dũng, quyết hy sinh tất cả để bảo vệ độc lập, tự do. Ba chữ tự do, độc lập đã khắc sâu trong tâm trí hàng triệu người Việt Nam , như tiếng hô hào hùng xung trận , đinh tai, chói tai. Tuyên một lời thề thiêng liêng nghe đanh thép, vừa là lời động viên quân dân ta, vừa là lời cảnh cáo kẻ thù.

                              Đây là bản Tuyên ngôn Độc lập, lần đầu tiên tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của một quốc gia mới, đánh dấu buổi bình minh của một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do của một dân tộc bất khuất, kiên cường. Nó đánh dấu chiến thắng đầu tiên của một quốc gia ở châu Á. Mặt khác, “Tuyên ngôn” là một bài chính luận tiêu biểu, có cơ sở, lập luận chặt chẽ, giàu tình cảm, ngắn gọn, súc tích, không chỉ cảnh tỉnh kẻ thù mà còn vạch trần bộ mặt ngụy trang của địch, cổ vũ tinh thần, xây dựng sự đồng thuận quốc tế.

                              Chắc chắn rằng, Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa chân lý lịch sử dân tộc và thế giới mà còn có ý nghĩa thời đại. Bản tuyên ngôn vừa mang tính lịch sử vừa mang tính văn học. Vì vậy, nó mãi là áng văn bất hủ và là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam yêu nước.

                              Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 11

                              Bản “Tuyên ngôn độc lập” là một trong những tác phẩm bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các tác phẩm có giọng văn hùng hồn, chặt chẽ, lập luận sắc bén, mạch lạc, có sức thuyết phục vô cùng lớn đối với người đọc, người nghe. Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của biết bao xương máu, bao nhiêu sinh mạng của các anh hùng Việt Nam đã đổ ra trong tù ngục, trại tập trung nơi hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao hy vọng, nỗ lực và niềm tin của hơn 20 triệu người dân Việt Nam (Trần dân tiến).

                              Mở đầu bản tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu cơ sở pháp lý, “sự thật không ai chối cãi được”. Đây là những câu nói nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ. Cách trình bày bằng chứng này vừa khéo léo vừa dứt khoát. Khéo léo vì nó thể hiện sự tôn trọng chân lý chung cho dù nó do các quốc gia thù địch gây ra. Cách trình bày bằng chứng này cũng hàm ý chỉ trích. Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ – những kẻ xâm lược đã chà đạp lên sự thật, lương tâm và lý tưởng của tổ tiên. Đó là cách kẻ thù lấy cớ của kẻ thù để đánh vào lưng kẻ thù bằng một cây gậy lớn. Cả hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đều nhấn mạnh quyền con người, từ đó ông mở rộng quyền của các quốc gia. Những câu nói nổi tiếng của những người sáng lập các phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Đồng thời so sánh bản tuyên ngôn của nước ta với hai bản tuyên ngôn trên.

                              Bác bỏ lập luận đó là lên án chủ nghĩa thực dân Pháp. Những lời bất hủ trong Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đã trở thành cơ sở pháp lý để bác bỏ những lời buộc tội thực dân Pháp. “Tuy nhiên, hơn 80 năm đã trôi qua…Nhân nghĩa và công lý” Sau khi kết luận chung về tội ác của thực dân Pháp, bản tuyên bố nêu những ví dụ cụ thể để vạch rõ thực tế “bảo hộ”. Luật dân sự trước toàn thể nhân loại: “Về chính trị họ tuyệt đối không cấp… bất kỳ nền dân chủ nào”. Cách trần thuật của tác giả hùng hồn, sắc sảo. Cùng một cách lập luận: “Họ làm…”, “Họ làm…”. “Chúng trực tiếp giết…” Có thể thấy, thực dân Pháp đã tích lũy tội ác đối với nhân dân ta. Tác giả đã dùng những hình ảnh để làm nổi bật sự tàn bạo của thực dân Pháp: “Chúng thẳng tay tàn sát những người yêu nước… chúng tắm trong… cuộc thảm sát”.

                              Về kinh tế, Người cũng tố cáo thực dân Pháp nói chung và nói riêng là “chúng bóc lột nhân dân ta… uổng phí”. Bác quan tâm đến những người như thế này: “Nông dân nghèo đi”, “Chúng không để cho giai cấp tư sản của chúng ta ngóc đầu lên”. Lập luận là ông ấy muốn đảm bảo sự hỗ trợ của Nhóm Thống nhất Lớn để bảo vệ nền độc lập. Trong suốt bài viết, tác giả chỉ dùng một chủ ngữ duy nhất là “chúng” để chỉ bọn thực dân Pháp, nhưng các vị ngữ thì luôn thay đổi: “xử”, “đặt”, “trực tiếp diệt”, “tắm”… chỉ một kẻ thù duy nhất là thực dân Pháp. Thực dân Pháp hoạt động, nhưng tội ác của họ ở nước ta là vô số. Lập luận chặt chẽ cùng với ví dụ cụ thể khiến kẻ thù bất lực. Tội ác lớn nhất của thực dân Pháp là nạn đói lớn năm 1945: “Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, mở thêm căn cứ chống đồng minh, thực dân Pháp đầu hàng mở cửa cho ta”. Quốc gia chấp nhận ngày sinh nhật. Từ đó, dân tộc ta bị hai xiềng xích: Pháp và Nhật hành hạ. Từ đó, nhân dân ta ngày càng lầm than, bần cùng. Kết quả là từ cuối năm ngoái đến đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Tokyo, hơn 2 triệu đồng bào chết đói. Tác giả cũng không bỏ qua những tội ác khác của thực dân Pháp như tội “năm năm bán cho Nhật”, tội thẳng tay đàn áp Việt Minh, tội “giết hàng loạt tù chính trị ở Ampe và các nơi khác trên thế giới”. ” và “cao bằng”. Ai tố cáo thực dân Pháp một cách hùng hồn, đanh thép như vậy là vạch trần bản chất man rợ của thực dân Pháp, phơi bày trước thế giới “nền văn minh” và “sự bảo hộ” của chúng, khơi dậy lòng căm thù Pháp trong nhân dân ta. thực dân.

                              Tác giả thể hiện sức mạnh dân tộc trong cuộc đấu tranh chống thực dân phong kiến, giành độc lập “Pháp chạy, Nhật hàng…Dân chủ cộng hòa”. Đoạn văn này đầy hùng biện. Chỉ sử dụng chín ký tự “Fa Xing, Xing Xing, Wang Ling Dai thoái vị”, một giai đoạn lịch sử bấp bênh và vô cùng huy hoàng của nước ta đã được dựng lại. Tác giả ca ngợi truyền thống bất khuất của dân tộc, nhằm khơi dậy lòng tự hào dân tộc, khơi dậy ý chí chiến đấu, quyết tâm chống lại âm mưu của thực dân Pháp.

                              Sau đó, Người giải thích nguyên nhân chính đáng của việc xây dựng một nước Việt Nam mới. Việt Minh là tổ chức cách mạng của cả dân tộc Việt Nam. Việt Minh đứng về phe Đồng minh, đánh thực dân, phát xít Nhật, giành chính quyền từ tay Nhật. Hai lần ông nhấn mạnh nền độc lập của đất nước với một sự ám chỉ mạnh mẽ: “Sự thật là…”. Trên cơ sở đó, Người tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuyên bố cắt đứt hoàn toàn quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ địa vị của chúng ở Việt Nam…”

                              Cuối cùng, thay mặt toàn thể dân tộc vừa giành được độc lập, tự do, Người xin thề “sẽ đem hết tinh thần và sức lực, dùng tính mạng và tài sản của mình để bảo vệ nền tự do, độc lập ấy”. Tuyên ngôn Độc lập là kiệt tác của Hồ Chí Minh. Bằng tâm huyết và tài năng, ông đã thể hiện dũng khí của một dân tộc vùng lên chống đế quốc, thực dân phong kiến, đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Với việc công bố Tuyên ngôn Độc lập, Việt Nam lần đầu tiên nổi lên trên vũ đài quốc tế với tư cách là một quốc gia tự do và độc lập.

                              Tuyên ngôn Độc lập vừa là một văn kiện lịch sử vừa là một luận cương chính trị mẫu mực. Nó chấm dứt thời kỳ nô dịch, thời dân tộc ta sống trong ngựa trâu, nô lệ nhà nước, mở ra một thời đại mới: thời đại độc lập, tự do.

                              Bản “Tuyên ngôn độc lập” xứng đáng là bản tuyên ngôn của thế giới và là bản hùng ca của dân tộc với hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn, bi tráng.

                              Phân tích Tuyên bố Độc lập – Mẫu 12

                              “Sáng hôm nay 2/9, Hoa Đô nắng đẹp, Sanding hàng tỷ con tim chờ đợi… Đàn chim cũng chợt ngừng hót tình yêu”

                              (theo chú, bạn tốt)

                              Đó là một buổi sáng mùa thu lịch sử Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Các tác phẩm chính luận của Người, đặc biệt là Tuyên ngôn Độc lập thể hiện trí tuệ sắc bén, ngòi bút bút chiến và khả năng lập luận xuất sắc của Hồ Chí Minh.

                              Mở đầu “Tuyên ngôn độc lập”, ta thấy cách đặt câu hỏi của Hồ Chí Minh rất bất ngờ và độc đáo. Vì không ôn lại lịch sử vẻ vang của dân tộc mà chỉ trích dẫn những câu nói bất hủ trong Tuyên ngôn năm 1776 của Hoa Kỳ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp, có thể thấy sự nhạy bén và trí tuệ của Hồ Chí Minh trong giai đoạn lịch sử này. hội thoại. Vì hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ ở thế kỷ XVI là di sản trí tuệ của nhân loại, đánh dấu hòa bình của cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến ​​nên những quyền cơ bản của con người trong pháp luật có sức thuyết phục đối với người đọc, người nghe. Hồ Chí Minh mở đầu bản tuyên ngôn của mình bằng hai bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại, không chỉ thể hiện sự hiểu biết về văn hóa, trân trọng những thành tựu văn hóa nhân loại mà còn thể hiện sự khôn ngoan, khôn khéo, quyết đoán của Người. Một cách khéo léo, anh ấy thể hiện sự tôn trọng đối với Tuyên bố về Luật pháp và Cái đẹp, nhưng vì đây cũng là dạng gậy, nên anh ấy đã quyết tâm đấm vào lưng anh ấy. Thật vậy, không có gì thú vị và phù hợp hơn để bác bỏ những lời tuyên bố của kẻ thù hơn là buộc họ phải lộ diện bằng những lý lẽ của riêng mình. Hồ Chí Minh nhắc nhở họ không được làm hoen ố ngọn cờ chính nghĩa mà tổ tiên họ đã giành được qua bao năm đấu tranh. Với câu này, bạn đặt ba bản tuyên ngôn ngang hàng với ba bản tuyên ngôn độc lập khơi gợi niềm tự hào dân tộc, như Nguyễn Trãi đã từng viết trong Đại diễn văn:

                              Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao thế hệ đã dựng nền độc lập, sánh vai Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên có một mặt mạnh;

                              (ngô đóng chai, nguyễn trãi)

                              Một cái tài tình nữa của Hồ Chí Minh là ở chỗ Người “chắt lọc”, cho thấy Người đã vận dụng nhuần nhuyễn tinh hoa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cách đây hơn một thế kỷ để nâng nó lên một phạm vi rộng lớn hơn, bao quát hơn. Từ những quyền chung của con người trong Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, ai là người đề xuất quyền của các quốc gia. “Quyền sung sướng, quyền tự do… của tất cả các dân tộc trên thế giới nói chung” không chỉ có nghĩa là quyền bình đẳng của mỗi cá nhân mà còn là quyền bình đẳng, quyền tự chủ, tự quyết của tất cả các dân tộc trên thế giới. Chính Người đã “chắt lọc” một nhân vật văn hóa nước ngoài trong cuốn sách “Hồ Chí Minh là người phát triển nhân quyền và lợi ích” thành lợi ích dân tộc và “chắt lọc” những ý kiến ​​có ý nghĩa to lớn đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của thế giới. Từ những phân tích trên, có thể thấy chương mở đầu rất ngắn gọn, súc tích, lập luận đầy đủ, bố cục chặt chẽ. Hai trích dẫn bổ sung cho nhau – một lập luận trí tuệ sáng tạo. Khẳng định mạnh mẽ: “Đó là những chân lý không ai có thể phủ nhận” để nêu bật đạo lý chính trị sâu sắc: quyền sống, quyền tự do dân tộc.

                              Xuất phát vào tình hình thực tế Việt Nam, Hồ Chí Minh tiếp tục bênh vực quyền độc lập dân tộc. Ở phần này, “Tuyên ngôn độc lập” như một bản cáo trạng đanh thép đối với hai tội ác lớn của thực dân Pháp: xâm lược dân tộc Việt Nam và phản bội Nhật. Tố cáo tội ác của thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp ba yếu tố theo cách riêng của Người: lí lẽ, dẫn chứng và nhịp điệu tu từ. Trước hết, về lập luận, Người viết: “Tuy nhiên, hơn 80 năm qua, thực dân Pháp đã cướp nước ta, áp bức đồng bào ta dưới ngọn cờ tự do, bình đẳng, bác ái. và công lý”. Luận cứ ngắn gọn, lập luận phản bác được hình thành bằng sự tương phản, đối lập, kết hợp với các động từ mạnh “cướp”, “áp bức”. Ai cho đủ độ tương phản để vạch mặt kẻ thù. Đây là sự đối lập giữa khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” của chúng với thực tế “cướp nước, áp bức đồng bào”, chỉ cần nhìn thoáng qua câu nói này là có thể thấy được bản chất của chủ nghĩa thực dân Pháp. Khác với hành động, khẩu hiệu thì đẹp nhưng hành động thì tham lam.

                              Thực dân Pháp cứ nói “tuyên truyền bảo vệ”, nhưng Hồ Chí Minh chỉ rõ đây không phải là công mà là tội. Trong 80 năm cai trị đất nước, chúng ta đã gây ra biết bao tội ác ghê tởm làm đau lòng nhân dân Việt Nam. Bạn đưa ra những ví dụ cụ thể, phong phú được chắt lọc từ những sự thật không thể phủ nhận. Người liệt kê năm tội chính trị là tước đoạt quyền tự do dân chủ, chia rẽ pháp quyền dã man, giết hại các sĩ phu yêu nước, trói buộc dư luận và thi hành chính sách ngu dân, đầu độc nhân dân ta bằng rượu và thuốc phiện. Và 5 tội ác kinh tế: bóc lột không có quyền in tiền, sưu cao thuế nặng, áp bức và kiểm soát của giai cấp tư sản… Hơn 2 triệu người Việt Nam đã chết đói năm 1945 do sự bóc lột này. Giáo dục văn hóa, chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học. ách thống trị của thực dân Pháp không chỉ gây ra tội ác về mọi mặt của đời sống mà còn gây ra mọi tầng lớp “bần cùng hóa nông thương, kìm hãm giai cấp tư sản của ta trỗi dậy, nhân lên tàn bạo bóc lột quần chúng”. Thực dân Pháp rao giảng thành tích bảo vệ Đông Dương, thay mặt nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh tố cáo sự hèn hạ, hèn hạ và vô liêm sỉ của thực dân Pháp, tội phản bội Tổ quốc ta hai lần, phản bội Tổ quốc ta hai lần. Trong khi bị đánh bại và chạy trốn, họ cũng đã giết một số lượng lớn tù nhân chính trị ở Saddle Heights vì lương tâm. Vì vậy, họ không có quyền nói đến việc bảo vệ Việt Nam. Điểm mạnh của văn chính luận nằm ở cách lập luận, vì vậy nó thường nghiêng về những lập luận có xu hướng trở nên khô khan, giáo điều. Nhưng những luận điểm chính luận của Hồ Chí Minh trong “Tuyên ngôn độc lập” lại có sức thuyết phục và làm người đọc vô cùng xúc động, bởi Người đã vận dụng nhuần nhuyễn biện pháp liệt kê, kết hợp với các động từ mạnh và các phép tu từ để làm nổi bật sự tích tội ác của thực dân Pháp. Hơn nữa, với kiểu cấu trúc câu “14 câu, mỗi câu có một chữ “họ” (chế lan viên) nặng như búa tạ kết hợp với ngôn ngữ giản dị mà chọn lọc, Hồ Chí Minh không chỉ lên án thực dân Pháp mà còn khẳng định rằng họ Không có quyền nói về việc bảo vệ Việt Nam.

                              Trong Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh cũng ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng của nhân dân Việt Nam. Còn kẻ thù, tay còn vấy máu Việt Nam, nhưng “Việt Minh giúp Pháp vượt biên, cứu Pháp khỏi nhà tù Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản của họ”. Qua ba động từ “cứu, giúp, đùm”, Hồ Chí Minh đã thể hiện tinh thần bao dung trước sự suy yếu đến tuyệt vọng của kẻ thù. Việt Minh thể hiện tinh thần dân tộc Việt Nam:

                              <3

                              (ngô đóng chai, nguyễn trãi)

                              Hồ Chủ tịch diễn lại sự kiện thể hiện tinh thần chiến đấu anh dũng của dân tộc ta: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua xin Đại đế thoái vị”. Chỉ trong 9 chữ đã tái hiện lại toàn bộ những sự kiện trọng đại của dân tộc đó, khí thế của Cách mạng tháng Tám đã giải phóng xiềng xích của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít bị quét sạch, thù trong và giặc ngoài đều bị dẹp yên. . Trước khi ra đời nước Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng đã cầu cứu Đồng minh: “Chúng tôi cho rằng Đồng minh đã công nhận nguyên tắc bình đẳng dân tộc ở Tehran và Kim Sơn trước đây, và kiên quyết không công nhận nền độc lập của nhân dân Việt Nam. đưa ra là thuyết phục các nước Đồng minh thừa nhận trên thế giới tại cuộc họp Độc lập và quyền bình đẳng cho tất cả các nước, nếu nền độc lập của Việt Nam không được thừa nhận, các nước Đồng minh sẽ trở thành những kẻ phản quốc, phản bội chính mình.Một nước Việt Nam anh dũng đứng về phía Đồng minh chống phát xít Nhật, còn thực dân Pháp thì phản bội Đồng minh. Đồng minh phải công nhận Việt Nam Độc lập của dân tộc. Nước nào anh dũng chống phát xít thì nước đó phải được tự do, độc lập.

                              Kết thúc “Tuyên ngôn độc lập”, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Độc lập, tự do vừa là quyền, vừa là chân lý bất khả xâm phạm, cần được cộng đồng quốc tế công nhận”. thực sự tự do và độc lập. dân tộc. “Bác Hồ đã động viên, khích lệ đồng bào rằng “cả nước Việt Nam quyết giữ vững quyền tự do, độc lập bằng tất cả tinh thần và sức lực, tính mạng và tài sản của mình”. Giọng điệu hùng hồn ở đoạn cuối rất đặc sắc. :

                              “Nghịch ngợm và xâm phạm như kẻ xấu và kẻ xấu”

                              (Sông núi nước Nam)

                              Ý chí độc lập và lời cảnh báo trước kẻ thù trong các bài thơ thường được Bác vận dụng sáng tạo trong thể loại văn xuôi chính luận độc đáo.

                              Bản “Tuyên ngôn Độc lập” là một văn kiện chính trị và lịch sử đồ sộ, tuyên bố chấm dứt chế độ phong kiến ​​của đất nước, mở ra một kỷ nguyên mới độc lập, tự do của dân tộc. Đây có thể gọi là “bài thơ thần thánh” của thời đại mới. Nhưng đó cũng là một bản tuyên ngôn chính trị hiện đại, có giá trị độc đáo, thể hiện lời kêu gọi mang tính nhân văn: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, lời kêu gọi yêu nước, nhân đạo thể hiện tư tưởng vĩ đại – Hồ Chí Minh.

                              Phân tích Tuyên bố Độc lập – Mẫu 13

                              Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là một văn kiện chính trị lịch sử vĩ đại, tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ​​trên đất nước ta, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do của dân tộc. Đến với “Tuyên ngôn độc lập” người đọc sẽ thấy được tài hùng biện của Hồ Chí Minh.

                              Phần mở đầu của Tuyên ngôn Độc lập rất đặc biệt. Thay vì ôn lại lịch sử vẻ vang của dân tộc, Người lại trích dẫn những câu nói bất hủ trong Tuyên ngôn năm 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp, điều đó cho thấy sự khôn ngoan sắc sảo của Hồ Chí Minh trong cuộc đối thoại lịch sử này. .Vì hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ ở thế kỷ XVI là di sản trí tuệ của nhân loại, đánh dấu hòa bình của cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến ​​nên những quyền cơ bản của con người trong pháp luật có sức thuyết phục đối với người đọc và người nghe. Hồ Chí Minh mở đầu bản tuyên ngôn của mình bằng hai bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại, không chỉ thể hiện sự hiểu biết về văn hóa, trân trọng những thành tựu văn hóa nhân loại mà còn thể hiện sự khôn ngoan, khôn khéo, quyết đoán của Người. Một cách khéo léo, anh ấy thể hiện sự tôn trọng đối với Tuyên bố về Luật pháp và Cái đẹp, nhưng vì đây cũng là dạng gậy, nên anh ấy đã quyết tâm đấm vào lưng anh ấy. Thật vậy, không có gì thú vị và phù hợp hơn để bác bỏ những lời tuyên bố của kẻ thù hơn là buộc họ phải lộ diện bằng những lý lẽ của riêng mình. Hồ Chí Minh nhắc nhở họ không được làm hoen ố ngọn cờ chính nghĩa mà tổ tiên họ đã giành được qua bao năm đấu tranh. Với câu này, bạn đặt ba bản tuyên ngôn ngang hàng với ba bản tuyên ngôn độc lập khơi gợi niềm tự hào dân tộc, như Nguyễn Trãi đã từng viết trong Đại diễn văn:

                              Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao thế hệ đã dựng nền độc lập, sánh vai Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên có một mặt mạnh;

                              (ngô đóng chai, nguyễn trãi)

                              Một cái tài tình nữa của Hồ Chí Minh nằm ở chữ “chắt lọc”, điều này cho thấy Người đã vận dụng một cách khéo léo tinh hoa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc hơn một thế kỷ trước để chắt lọc nó ở mức độ lớn hơn, khái quát hơn. Từ những quyền chung của con người trong Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, ai là người đề xuất quyền của các quốc gia. “Quyền sung sướng, quyền tự do… của tất cả các dân tộc trên thế giới nói chung” không chỉ có nghĩa là quyền bình đẳng của mỗi cá nhân mà còn là quyền bình đẳng, quyền tự chủ, tự quyết của tất cả các dân tộc trên thế giới. Chính Người đã “chắt lọc” một nhân vật văn hóa nước ngoài trong cuốn sách “Hồ Chí Minh là người phát triển nhân quyền và lợi ích” thành lợi ích dân tộc và “chắt lọc” những ý kiến ​​có ý nghĩa to lớn đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của thế giới. Từ những phân tích trên, có thể thấy chương mở đầu rất ngắn gọn, súc tích, lập luận đầy đủ, bố cục chặt chẽ. Hai trích dẫn bổ sung cho nhau – một lập luận trí tuệ sáng tạo. Lời khẳng định chắc nịch: “Đây là sự thật không ai có thể phủ nhận” nêu bật đạo lý chính trị sâu sắc: quyền sống và quyền tự do của dân tộc Việt Nam.

                              Tiếp đó, Hồ Chí Minh khẳng định quyền độc lập dân tộc bằng những lí lẽ và dẫn chứng rất thuyết phục dựa trên thực tiễn.

                              Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp theo cách riêng của Người, kết hợp ba yếu tố: lí lẽ, dẫn chứng và nhịp điệu tu từ. Trước hết, về lập luận, Người viết: “Tuy nhiên, hơn 80 năm qua, thực dân Pháp đã cướp nước ta, áp bức đồng bào ta dưới ngọn cờ tự do, bình đẳng, bác ái. và công lý”. Luận cứ ngắn gọn, lập luận phản bác được hình thành bằng sự tương phản, đối lập, kết hợp với các động từ mạnh “cướp”, “áp bức”. Ai cho đủ độ tương phản để vạch mặt kẻ thù. Đây là sự đối lập giữa khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” của chúng với thực tế “cướp nước, áp bức đồng bào”, chỉ cần nhìn thoáng qua câu nói này là có thể thấy được bản chất của chủ nghĩa thực dân Pháp. Khác với hành động, khẩu hiệu thì đẹp nhưng hành động thì tham lam.

                              Thực dân Pháp cứ nói “tuyên truyền bảo vệ”, nhưng Hồ Chí Minh chỉ rõ đây không phải là công mà là tội. Trong 80 năm cai trị đất nước, chúng ta đã gây ra biết bao tội ác ghê tởm làm đau lòng nhân dân Việt Nam. Bạn đưa ra những ví dụ cụ thể, phong phú được chắt lọc từ những sự thật không thể phủ nhận. Người liệt kê năm tệ nạn chính trị là tước đoạt quyền tự do dân chủ, chia cắt dã man, giết hại các chiến sĩ yêu nước, kìm hãm dư luận, thi hành chính sách ngu dân, đầu độc nhân dân bằng rượu và thuốc phiện. Và 5 tội ác kinh tế: bóc lột không có quyền in tiền, sưu cao thuế nặng, áp bức và kiểm soát của giai cấp tư sản… Hơn 2 triệu người Việt Nam đã chết đói năm 1945 do sự bóc lột này. Giáo dục văn hóa, chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học. ách thống trị của thực dân Pháp không chỉ gây ra tội ác về mọi mặt của đời sống mà còn gây ra mọi tầng lớp “bần cùng hóa nông thương, kìm hãm giai cấp tư sản của ta trỗi dậy, nhân lên tàn bạo bóc lột quần chúng”. Thực dân Pháp rao giảng thành tích bảo vệ Đông Dương, thay mặt nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh tố cáo sự hèn hạ, hèn hạ và vô liêm sỉ của thực dân Pháp, tội phản bội Tổ quốc ta hai lần, phản bội Tổ quốc ta hai lần. Trong khi bị đánh bại và chạy trốn, họ cũng đã giết một số lượng lớn tù nhân chính trị ở Saddle Heights vì lương tâm. Vì vậy, họ không có quyền nói đến việc bảo vệ Việt Nam. Điểm mạnh của văn chính luận nằm ở cách lập luận, vì vậy nó thường nghiêng về những lập luận có xu hướng trở nên khô khan, giáo điều. Nhưng những luận điểm chính luận của Hồ Chí Minh trong “Tuyên ngôn độc lập” lại có sức thuyết phục và làm người đọc vô cùng xúc động, bởi Người đã vận dụng nhuần nhuyễn biện pháp liệt kê, kết hợp với các động từ mạnh và các phép tu từ để làm nổi bật sự tích tội ác của thực dân Pháp. Câu văn trở nên sống động với phép so sánh, nhân hoá, ẩn dụ có giá trị “nhà tù nhiều hơn trường học”, “chúng tắm cuộc khởi nghĩa ta trong bể máu”… người đọc như đang xem một thước phim ghi lại cảnh ngộ của nhân dân ta trong một thước phim quay chậm, từ đó có thể thấy được tội ác của kẻ thù. Đồng thời, sử dụng cấu trúc câu bắt đầu bằng từ “họ” khẳng định mạnh mẽ rằng người Pháp không có quyền bảo hộ Việt Nam.

                              Các tác phẩm không chỉ tố cáo tội ác của thực dân Pháp mà còn thể hiện tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc ta bằng những luận điểm, luận cứ, luận chứng chặt chẽ. Hồ Chí Minh là minh chứng cho truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Cùng với kẻ thù, Việt Minh đã “giúp Pháp qua biên giới, cứu Pháp khỏi ngục tù, bảo vệ tính mạng và tài sản của họ”. Qua ba động từ “cứu, giúp, đùm” ta thấy được tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc Việt Nam.

                              Sau đó, ông tái hiện chiến công của dân tộc: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua xin Đại vương thoái vị”. Chỉ chín chữ ấy thôi đã tái hiện hết những sự kiện trọng đại của dân tộc ấy, khí thế Cách mạng Tháng Tám đã củng cố gông cùm thực dân, dẹp tan bức tranh phát xít, dẹp yên thù trong, giặc ngoài. Khi nhà nước Việt Nam ra đời, Hồ Chí Minh cũng đã giành được sự ủng hộ của các nước đồng minh: “Chúng tôi tin rằng các nước đồng minh đã công nhận nguyên tắc bình đẳng dân tộc tại cuộc gặp Ya và Qian Jinshan, không thể không công nhận nền độc lập của Việt Nam. Người Việt Nam.” Lập luận mà ông đưa ra nhằm thuyết phục các nước Đồng minh rằng cuộc họp vừa công nhận nền độc lập và quyền bình đẳng của tất cả các nước trên thế giới, và nếu nền độc lập của Việt Nam không được công nhận thì các nước Đồng minh sẽ trở thành những kẻ phản quốc, phản bội chính mình. Tiếp theo là một lập luận sâu sắc: “Một nước Việt Nam anh dũng đứng về phía đồng minh chống phát xít Nhật, còn thực dân Pháp phản bội đồng minh. Đồng minh phải công nhận quyền độc lập của dân tộc. Nước nào anh dũng đứng lên chống phát xít, nước đó phải được tự do và độc lập”.

                              Cuối cùng, kết thúc Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh khẳng định: “Độc lập, tự do vừa là quyền, vừa là chân lý bất khả xâm phạm, cần quốc tế công nhận nước Việt Nam. Quyền tự do, độc lập thực chất đã trở thành một nước tự do, độc lập. ” . Bác Hồ đã động viên, khích lệ tinh thần của nhân dân rằng “Cả nước Việt Nam quyết tâm bảo vệ quyền tự do, độc lập bằng tất cả tinh thần và sức lực, tính mạng và tài sản của mình”. Có thể thấy tinh thần yêu nước của người Việt Nam mạnh mẽ như thế nào.

                              Vì vậy, “Tuyên ngôn độc lập” xứng đáng là một bản tuyên ngôn chính trị mẫu mực lúc bấy giờ. Bản Tuyên ngôn Độc lập để lại giá trị to lớn cho dân tộc Việt Nam.

                              Phân tích Tuyên bố Độc lập – Mẫu 14

                              Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Các tác phẩm chính luận nói chung và “Tuyên ngôn độc lập” nói riêng của Người bộc lộ nhiều tư tưởng.

                              Bản “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ vẻn vẹn một nghìn chữ nhưng phản ánh giá trị to lớn. Người chia Tuyên ngôn thành ba phần: Cơ sở pháp lý, Cơ sở thực tế và Tuyên ngôn độc lập.

                              Mở đầu, bạn trích dẫn hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của nhân loại. Đó là Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp. Đó là kết quả của hai cuộc cách mạng tư sản chống chính quyền phong kiến. Động thổ của hai cường quốc có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới khiến không ai có thể phủ nhận tính đúng đắn và thuyết phục của chúng. Hơn nữa, ông trích dẫn một cách sáng tạo: “Theo nghĩa rộng, nó có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Các đồng chí đã nâng quyền con người ngang hàng với quyền của các quốc gia. Phần này kết thúc bằng a brief Kết luận bằng một tuyên bố hùng hồn: “Đây là những sự thật không ai có thể phủ nhận. “

                              Phần thứ hai, Hồ Chí Minh đưa ra những căn cứ thực tế thuyết phục bằng những lí lẽ, dẫn chứng về mọi mặt của đời sống. Thứ nhất, chúng tước quyền tự do chính trị của nhân dân ta: “tuyệt đối không cho nhân dân ta một quyền tự do dân chủ nào”. Tiếp theo: “Chúng thi hành những luật lệ tàn bạo, hòng ngăn cản sự thống nhất của nước ta, ngăn cản đồng bào ta đoàn kết”. Thực dân Pháp theo đuổi chính sách ngu xuẩn hủy diệt văn hóa, hủy diệt bản sắc dân tộc thông qua “nhà tù nhiều hơn trường học”. Chúng thẳng tay đàn áp những người yêu nước đã “nhúng cuộc khởi nghĩa của ta trong vũng máu”, tước đoạt trắng trợn, vô lý quyền thiêng liêng nhất của loài người – quyền sống. Chúng còn “bóc lột dân la đến tận xương tủy…chúng cướp bóc của dân không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu…chúng áp đặt hàng trăm thứ thuế vô lý để bắt nhân dân ta tin chúng…chúng bóc lột công chúng”. Con đường rất tàn nhẫn. “Đây là những hành động vô nhân đạo. Dù đã bị quân Nhật tước vũ khí, chúng vẫn trốn chạy, đầu hàng và hai lần bán nước ta cho quân Nhật. Chỉ trong hai mươi câu, tác giả đã xé toang lớp “bảo vệ nền văn minh” mà chúng từng che đậy vạch trần những việc làm xấu xa của chúng. Một sự giả tạo dối trá. Một loạt từ ngữ vô cùng tinh vi: tàn sát dã man, dã man, tắm… vũng máu, bóc lột đến tận xương tuỷ… đặc biệt là sự ám chỉ “chúng nó” trong mười bốn câu – “câu nào cũng tốt”. Búa tạ.”

                              Đối lập với nòi giống gian ác của kẻ thù là tinh thần nhân đạo của dân tộc Việt Nam. Việt Minh đã “giúp nhiều người Pháp vượt biên, giải cứu nhiều người Pháp khỏi nhà tù của Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản của họ.” “Sự thật là…” Câu này khẳng định Việt Nam lấy lại nước từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. “Pháp chạy, Nhật hàng, vua xin Đại đế thoái vị” Câu văn ngắn gọn 9 chữ này đã ghi lại tất cả những sự kiện trọng đại của dân tộc Việt Nam.

                              Cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt nhân dân ra tuyên bố trang trọng và dứt khoát: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và thực chất đã trở thành một nước tự do, độc lập và giàu mạnh để bảo vệ quyền hưởng tự do và độc lập. Đó là tinh thần dân tộc hào hùng, quyết hy sinh tất cả để bảo vệ độc lập tự do. Ba chữ “độc lập tự do” như khắc sâu vào tâm trí hàng trăm triệu người dân Việt Nam, như hồi còi xung trận oai hùng chói tai và chói tai.Lời tuyên bố này như lời thề son sắt của dân tộc ta “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

                              Có thể thấy “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử vô cùng quý giá. Tác phẩm đã được so sánh với “thơ thần” thời chống Pháp.

                              Phân tích Tuyên bố Độc lập – Mẫu 15

                              Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là một văn kiện chính trị – lịch sử vĩ đại, tuyên bố chấm dứt chế độ phong kiến ​​trên đất nước, mở ra một kỷ nguyên mới độc lập, tự do cho dân tộc. Đây có thể gọi là “bài thơ thần thánh” của thời đại mới.

                              Chủ tịch chia bố cục của Tuyên ngôn thành ba phần chính: Cơ sở thực tế, Cơ sở pháp lý và Tuyên ngôn độc lập. Đây trước hết là cơ sở pháp lý của Tuyên ngôn. Khác với cha ông chúng ta xưa nay thường nhìn lại những trang sử vẻ vang của dân tộc, Bác Hồ đã trích dẫn những lời bất hủ trong Tuyên ngôn năm 1776 của Hoa Kỳ và Tuyên ngôn Nhân quyền năm 2005 của Pháp. Năm 1791, Hồ Chí Minh quả là đã rất nhạy bén và sáng suốt trong cuộc đối thoại lịch sử này. Vì hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ ở thế kỷ XVI là di sản trí tuệ của nhân loại, đánh dấu hòa bình của cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến ​​nên những quyền cơ bản của con người trong pháp luật có sức thuyết phục đối với người đọc, người nghe. Hồ Chí Minh đã trích dẫn hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của nhân loại làm cơ sở pháp lý cho bản tuyên ngôn của mình, không chỉ thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về văn hóa mà còn thể hiện trí tuệ và quyết tâm của Người. Cái khôn của ông là tôn trọng Tuyên bố Pháp-Mỹ, nhưng cũng kiên quyết, vì đây cũng là dạng “gậy ông chống gậy”. Không có gì thuyết phục hơn việc hạ bệ kẻ thù theo cách riêng của họ. Ai nhắc họ đừng làm hoen ố ngọn cờ chính nghĩa mà tổ tiên họ đã phải bao năm đấu tranh mới giành được. Với câu này, bạn đặt ba bản tuyên ngôn ngang hàng và ba bản tuyên ngôn độc lập ở hai vế đối nhau để gợi niềm tự hào dân tộc. Đặc biệt là ba nhân vật “nối dài”, bản chất con người cao quý và đẹp đẽ. Khái quát về quyền con người từ hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, người đã nâng nó lên thành quyền của các quốc gia. “Nói rộng ra… tất cả các dân tộc trên thế giới… đều có quyền sung sướng và tự do”. Điều này có nghĩa là không chỉ các cá nhân có quyền bình đẳng mà các dân tộc trên thế giới đều có quyền bình đẳng, quyền tự chủ và tự quyết. Chính ý kiến ​​“chiết xuất” của bạn có ý nghĩa to lớn đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc thế giới. những người phát triển quyền con người như một lợi ích quốc gia. Tóm lại cơ sở pháp lý là lời khẳng định chắc nịch: “Đó là những sự thật không ai có thể phủ nhận”, nêu bật đạo lý chính trị sâu sắc: quyền sống, quyền tự do của dân tộc Việt Nam.

                              Thứ hai là cơ sở thực tế, Hồ Chí Minh đã đưa ra những lí lẽ và dẫn chứng hết sức thuyết phục. Trước sự công khai tuyên bố thực dân Pháp, ông đã chứng tỏ đây không phải là công mà là tội. Về lập luận, Người viết: “Tuy nhiên, hơn 80 năm qua, thực dân Pháp đã cướp nước ta, áp bức đồng bào ta dưới ngọn cờ tự do, bình đẳng, bác ái. Hành động của chúng là hoàn toàn trái với nhân đạo và công lý”. Luận cứ ngắn gọn, lập luận phản bác được hình thành bằng sự tương phản, đối lập, kết hợp với các động từ mạnh “cướp”, “áp bức”. Ai cho đủ độ tương phản để vạch mặt kẻ thù. Đây là sự tương phản giữa khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” của chúng với thực tế “cướp nước, áp bức đồng bào”. Bản chất của thực dân Pháp đã thể hiện rõ lời nói không bằng việc làm, khẩu hiệu là cao đẹp, hành động là tham lam. Trong tám mươi năm cai trị đất nước, chúng ta đã gây ra bao tội ác ghê tởm làm khổ dân tộc Việt Nam. Một loạt các ví dụ thuyết phục. Ông liệt kê năm tệ nạn chính trị: tước quyền tự do dân chủ, chia cắt dã man, giết hại các chiến sĩ yêu nước, trói buộc dư luận và chính sách ngu dân, đầu độc nhân dân ta bằng rượu và thuốc phiện. Năm tội ác kinh tế: bóc lột, tước quyền in tiền, sưu cao thuế nặng, áp bức, khống chế của giai cấp tư sản… Hậu quả của sự bóc lột này là hơn 2 triệu người Việt Nam chết đói năm 1945. Văn hóa, giáo dục: Nhà tù nhiều hơn trường học. Chế độ thực dân Pháp đã tạo ra tội ác không chỉ trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, mà còn chống lại mọi tầng lớp: “Nông và thương nhân trở nên bần cùng hóa và không cho giai cấp tư sản của chúng ta ngẩng đầu lên, và chúng bóc lột công nhân một cách tàn nhẫn.” Nhân dân, Hồ Chí Minh đã hai lần tố cáo sự hèn hạ, hèn hạ, vô liêm sỉ của thực dân Pháp cũng như tội ác phản bội Tổ quốc ta, qua hành động nhận mặt trời quỳ gối đầu hàng hoặc bỏ trốn. Thời gian tốt nhất để phản bội đất nước của chúng tôi. Trong khi bị đánh bại và chạy trốn, họ cũng đã giết một số lượng lớn tù nhân chính trị ở Saddle Heights vì lương tâm. Vì vậy, họ không có quyền nói đến việc bảo vệ Việt Nam.

                              Đối lập với tội ác của thực dân Pháp là tinh thần chiến đấu anh dũng của dân tộc ta. Hồ Chí Minh đã chứng minh truyền thống của dân tộc Việt Nam là nhân nghĩa. Cùng với kẻ thù, Việt Minh đã “giúp Pháp qua biên giới, cứu Pháp khỏi ngục tù, bảo vệ tính mạng và tài sản của họ”. Qua ba động từ “cứu, giúp, đùm” ta thấy được tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc Việt Nam:

                              <3

                              (ngô đóng chai, nguyễn trãi)

                              Câu “Phật giáo chạy, Nhật đầu hàng, vua thoái vị” rất đặc sắc. Chỉ trong 9 chữ đã tái hiện tất cả những sự kiện lịch sử trọng đại của Việt Nam, đó là khí thế của Cách mạng Tháng Tám giúp thực dân xiềng xích, họa phát xít bị quét sạch, thù trong và ngoài nước được bình định. Minh cũng giành được sự ủng hộ của các đồng minh: “Chúng tôi tin rằng các đồng minh đã công nhận nguyên tắc bình đẳng dân tộc ở Tehran và Hội nghị Kim Sơn trước đây, và kiên quyết không công nhận nền độc lập của nhân dân Việt Nam.” Lập luận mà ông đưa ra nhằm thuyết phục các nước đồng minh vừa công nhận nền độc lập và quyền bình đẳng của tất cả các nước trên thế giới tại hai hội nghị rằng bây giờ không công nhận nền độc lập của Việt Nam là phản bội chính họ. Tiếp theo là lập luận sâu sắc: “Việt Nam là nước anh dũng đứng về phía Đồng minh chống phát xít Nhật, còn thực dân Pháp thì phản bội Đồng minh. Đồng minh phải công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. Nước nào dũng cảm chống phát xít thì nước đó phải được tự do và độc lập.”

                              Bản tuyên ngôn kết thúc bằng bản Tuyên ngôn độc lập. Hồ Chí Minh khẳng định với thế giới. Độc lập, tự do vừa là quyền, vừa là chân lý bất khả xâm phạm cần được cộng đồng quốc tế công nhận: “Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và thực tế đã trở thành một nước tự do, độc lập”. Bác Hồ đã động viên, khích lệ tinh thần đồng bào: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và sức lực, tính mạng và của cải để bảo vệ quyền tự do, độc lập”. Lời tuyên bố hùng hồn ấy như thể hiện niềm tự hào dân tộc sâu sắc.

                              Với việc công bố bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã để lại cho hậu thế một văn kiện lịch sử vô cùng quý giá. Tuyên ngôn nêu lên truyền thống yêu nước, ý chí quật cường chống giặc ngoại xâm, lòng tự hào dân tộc, đánh dấu một mốc son trong lịch sử dân tộc ta.

                              Phân tích Tuyên bố độc lập – Mẫu 16

                              Người đọc (và tác giả) của Tuyên ngôn Độc lập nói rằng ông nói đúng, đi thẳng vào vấn đề, xác định một sự thật là khẳng định chủ quyền.

                              Nước Việt Nam là của người Việt Nam. Sự thật luôn đơn giản đối với người khôn ngoan và có thiện chí. Nhưng đối với những người có tà niệm, bị tư lợi làm cho mù quáng, điếc tai, không còn muốn thấy sự thật, mà muốn nghe sự thật, thì khó mà tiếp thu được. phải được giải thích. Tốt nhất là dựa vào những lập luận đã có từ lâu.

                              Điều đầu tiên nghe thấy là 1 triệu đồng bào biểu tình, 25 triệu đồng bào cả nước kéo về thủ đô cách mạng… Tất nhiên chúng ta hiểu rằng đất nước ta là của chúng ta. Chúng ta đã biết điều đó từ lâu, từ bốn thiên niên kỷ dựng nước và giữ nước. Chúng tôi đã nhiều lần khẳng định rằng “Hoàng đế Nam Quốc Sơn Hà Nam” hay:

                              “Giống như nước Đại Việt xưa của chúng ta

                              Văn minh tự xưng lâu dài

                              Núi sông đã chia

                              Miền Bắc và miền Nam có phong tục khác nhau”

                              (một bát bỏng ngô)

                              Nhưng trong số 25 triệu ấy, cũng có những người hoang mang vì cuộc nổi dậy đến quá nhanh, không thể bình tĩnh để xóa ngay những lời dối trá đã tung ra suốt 8 năm. lặp đi lặp lại. Một số sự thật vẫn còn mới mẻ sau khi nghe chúng hàng nghìn lần.

                              Mặt khác, khán giả không chỉ là người Việt Nam.

                              Còn có “đồng minh”, có Mỹ, trùm tư bản quốc tế, trở thành đế quốc đầu sỏ sau Thế chiến I. Có những móng vuốt giơ lên ​​vui vẻ và những chiếc răng nanh nhe ra. Thành phố Hồ Chí Minh của ngày hôm nay và Nguyễn Ái Quốc của ngày hôm qua đều xa lạ với họ. Chấp nhận ngay lời tổ tiên, những lời tuyên bố trịnh trọng trong bối cảnh lịch sử trọng đại mà họ chưa biết. Họ cố tình quên nhắc lại. Nhớ lại những lời chính nghĩa của những người Mỹ bị áp bức và làm nhục ở Việt Nam gần hai trăm năm trước. Câu nói nổi tiếng của vị thủ tướng anh hùng Lian vẫn còn văng vẳng bên tai: “Chỉ cần Hoa Kỳ sản xuất ra len và móng ngựa sắt, chính phủ sẽ ngay lập tức đưa quân đến lấp đầy đất nước.”

                              Mười lăm năm sau, bản tuyên ngôn của nước Mỹ là bản tuyên ngôn của nước Pháp, là gánh nặng mà người dân Pháp không thể gánh nổi, là lời tuyên bố của một số quý tộc và tu sĩ không thể chịu đựng được bản án. Sự bạo ngược của nhà vua: “Tôi làm, đó là luật”.

                              Hồ Chí Minh không chỉ lấy lại lời hay của người xưa mà còn giải thích, bình luận, tổng kết lên một tầm cao hơn, rộng hơn, mới hơn. Xuất phát từ hạnh phúc cá nhân, Người đặt vấn đề “quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do” ở các nước. Không chỉ một người bình đẳng về quyền với người khác, mà tất cả các quốc gia đều được tạo ra bình đẳng về mọi mặt, nghĩa là một quốc gia, dù nhỏ bé, dù da đen hay da vàng, đều có quyền bình đẳng. Một số lượng lớn người da trắng ở các nước tiên tiến nhất của Châu Âu và Mỹ. Cuộc đấu tranh này cũng là mục tiêu lớn, nội dung lớn của thời đại chúng ta, thời đại bắt đầu từ Cách mạng Tháng Mười mà tính chất của nó sẽ được khẳng định tại Đại hội 81 ở Mát-xcơ-va năm 1960. -va. Thực tiễn cách mạng đã quy định tầm nhìn thiên tài và cách nghĩ của một nhà lãnh đạo đã từng đại diện cho các dân tộc thuộc địa và bảo vệ họ không mệt mỏi trong các hội nghị quốc tế.

                              Đoạn mở đầu rất súc tích. Hai câu này bổ sung cho nhau một cách hoàn hảo.

                              Một nhận xét, một kết luận, được bao bọc chặt chẽ.

                              “Còn…”

                              Chỉ cần một lớp chuyển tiếp để xem qua nội dung của đoạn sau. Giống như than thở, đó là lời chỉ trích gay gắt đối với những người Yanmian cố tình làm điều sai trái. Bằng cách này, bản án chế độ thực dân Pháp 20 năm trước một lần nữa được đưa ra trước công chúng Việt Nam và quốc tế.

                              Vẫn là lập trường dân tộc chủ nghĩa rộng rãi của tác giả, vẫn là lòng căm thù bọn đạo tặc được thể hiện bằng ngôn từ cô đọng và sắc bén. Những động từ, tính từ, trạng từ quá nặng nề không diễn tả được bản chất của chúng (giết người trắng trợn, trói buộc dư luận, cướp bóc không ruộng đất, hàng trăm thứ thuế vô lý…) Vẫn thấy xót xa cho chúng. Dân tộc trong câu than thở giàu chất trữ tình, giàu hình ảnh (làm cho dân ta bần cùng, nước ta điêu tàn, khởi nghĩa ta tắm trong bể máu). Vẫn có những giọng điệu mỉa mai, đanh đá, trí thức (như vậy chẳng những chúng không “bảo vệ” được ta mà ngược lại, chúng đã hai lần bán nước ta cho Nhật trong 5 năm).

                              Bản tuyên ngôn này chỉ tóm tắt hai loại tội phạm chính trị và kinh tế cũng đủ nhắc nhở mọi người cảnh giác và là luận cứ cho lập luận của bản tuyên ngôn: pháp luật không có quyền nói. Về việc “bảo vệ” Việt Nam.

                              Thực dân Pháp cũng như mọi kẻ áp bức khác, khi cầm quyền thì hống hách, tàn bạo, khi thất bại thì hèn hạ, mất tất cả, mất cả nhục nhã, chà đạp lên nhân phẩm, chỉ để cứu lấy một chút mạng sống… Quỳ xuống mặt đất mỗi ngày, bao nhiêu tội ác họ đã gây ra. Đối với những người Việt Nam vẫn tự cho mình là “được bảo vệ” và “văn minh” thì họ lại đeo thêm một cái xiềng xích lên đầu họ. Kết quả bi thảm, cụ thể là lịch sử viết bằng máu của Việt Nam và nhân loại không thể xóa nhòa bằng thời điểm hai triệu người chết đói “từ Quảng Trị đến Tokyo”.

                              Vì lợi ích của phe Đồng minh, chúng đã phản bội phe Đồng minh, biến Việt Minh phe Đồng minh thành kẻ thù chính, “đe dọa trần trụi”.

                              Nhiều động từ miêu tả được dùng để hình dung sự thất bại của chúng: quỳ gối đầu hàng, mở cửa mà hành quân, tháo chạy… Trong các sự việc được miêu tả ở câu cuối bài, dùng từng chữ, từng nét. Thảm họa nào cũng có lý (thậm chí, nghiệt ngã là giết hàng loạt tù nhân chính trị…).

                              Đối lập với sự đê tiện, man rợ, đó là lòng thủy chung và cách ứng xử văn minh của dân tộc ta. Chỉ là một hiện tượng lịch sử. Nhưng đưa vào đây là một nét chấm phá nghệ thuật làm nổi bật sự khác biệt bản chất giữa ta và thù, khẳng định thêm tính nhân đạo của dân tộc ta. Với những người tay còn vấy máu, nhân dân và cách mạng Việt Nam vẫn đang giúp đỡ, cứu giúp, đùm bọc họ. Ba động từ thể hiện ba hình thức quan hệ với kẻ thù, ba trạng thái cụ thể của bản chất con người Việt Nam. Những người còn sống muốn vượt biên thoát khỏi thảm họa phát xít Nhật đều được giúp đỡ. Chúng tôi thúc đẩy họ và giúp họ vượt qua ranh giới giữa mong muốn và thực tế. Giải cứu những người bơ vơ, tuyệt vọng, bị giam cầm trong nhà tù Nhật Bản, chờ ngày tận thế… Chúng ta phá lồng cứu con mồi tử thần. Bảo vệ dành cho những người vẫn còn nguy cơ. Chúng tôi cứu họ, và sau đó chúng tôi tiếp tục bảo vệ, không chỉ mạng sống, mà cả tài sản. Đây là sự chu đáo của người Việt Nam.

                              Như vậy, tiếng Việt và tiếng Pháp như trên, ai bảo vệ ai? Người Pháp có quyền gì đối với Việt Nam không?

                              Thêm một sự thật hiển nhiên: sau khi Nhật chiếm Lạng Sơn và vào Việt Nam tháng 9 năm 1940, Pháp đã đầu hàng Nhật và bán chủ quyền nước ta cho Nhật. Về mặt pháp lý, một mặt hàng được bán cho người khác thuộc về người đó. Rồi tôi đã lấy lại được những gì đã mất từ ​​tay người Nhật. Vì vậy, xét về mọi mặt, Phật giáo hoàn toàn không liên quan gì đến Việt Nam. Tuyên ngôn có thể mạnh dạn tuyên bố “hoàn toàn tách rời khỏi Pháp.”

                              Từ ngữ, sự lặp lại (Sự thật là mùa thu…Sự thật là con người ta…) Suy nghĩ tiêu cực song hành về mặt nhấn mạnh (Nhật bản, không phải pháp luật) như chồng lớp rào cản, gột sạch mọi thứ bắt Pháp ảo tưởng về chủ quyền Việt Nam. Các trạng từ liên quan đến pháp: thoát khỏi hoàn toàn, xóa bỏ tất cả, xóa sạch mọi thứ, ngọt ngào như một thanh kiếm sắc bén trên một sợi dây thừng rối rắm.

                              Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời không phải ngẫu nhiên. Chủ nghĩa anh hùng vĩ đại của Việt Nam đã phát triển như vậy. Chủ nghĩa anh hùng này đã “lật đổ nền quân chủ mấy mươi năm” qua nhiều cuộc nổi dậy, lật đổ ngai vàng cuối cùng thuộc về triều Nguyễn đang suy tàn. Bảo Đại buộc phải thoái vị làm nông dân.

                              Chủ nghĩa anh hùng “đánh đổ gông cùm thực dân gần trăm năm” bằng gươm giáo, dùng máu xương của các chiến sĩ như Zhang Ding, Pan Dingfeng, Huang Heshan, v.v., là tài sản bất khuất.

                              “Pháp chạy, Nhật đầu hàng, vua xin Đại đế thoái vị”. Trong một trong những câu hiếm hoi trong văn học, cô ấy tóm tắt các sự kiện lịch sử.

                              Những cảnh về chiều kích giai cấp thống trị thật thấm thía, nhưng những pha hành động lấy cảm hứng từ các diễn viên lịch sử trên sân khấu Việt Nam thật ngoạn mục. Một người đàn ông đang chạy trốn lao thẳng vào vực thẳm của sự diệt vong. Một người giơ tay đầu hàng. Một người đàn ông ngã khỏi ngai vàng và trao trả con dấu và thanh kiếm của mình với đôi tay run rẩy.

                              Động từ nhanh đến chậm. Nhịp điệu câu văn nhanh dần, chậm dần rồi dừng, như đoàn tàu lịch sử từ xa đến, chậm dần rồi dừng mãi.

                              Ách thực dân, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quân phiệt, tất cả những thứ rác rưởi đã bị cuốn phăng nhường chỗ cho một đất nước mới, một chế độ mới. Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á – Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.

                              Không ai cãi được lẽ phải, sự thật mà lực lượng Đồng minh đã thừa nhận ở Tehran và trong những tài liệu còn chưa cạn của Hội nghị quốc tế Colossus, những hành động dũng cảm đã được thực hiện vào năm ngoái, cũng có cùng mục tiêu với lực lượng Đồng minh : tiêu diệt chủ nghĩa phát xít và củng cố Quyền mới tồn tại ở Việt Nam.

                              Nhưng quan trọng và cơ bản nhất là quyết tâm sắt đá của một dân tộc với tinh thần bốn ngàn năm bất khuất, thể hiện qua tiếng nói của vị chủ tịch nước đầu tiên: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập”.

                              Ba đoạn cuối của Tuyên ngôn Độc lập là những đoạn đanh thép: ý chí thép Hồ Chí Minh, ý chí thép Việt Nam.

                              Sức thép trong tranh chấp buộc quân đồng minh phải công nhận nền độc lập của dân tộc Việt Nam, trói buộc họ bằng lời nói. “chúng tôi tin…”. tin có ý nghĩa tu từ. Nó mềm mại, nhưng mạnh mẽ. Tin tưởng có nghĩa là tôn trọng họ và đánh giá cao những phẩm chất tốt đẹp của họ. Đó là cách ép buộc họ phải tự trọng, buộc họ không được mâu thuẫn trong lời nói và việc làm, “không thể phủ nhận” nền độc lập của dân tộc Việt Nam. “Không thể”, hai tiêu cực nghe có vẻ chắc chắn hơn một tích cực.

                              Chất đanh thép trong những câu tiếp theo là hệ quả của một phép tam đoạn luận độc đáo ở chỗ có mặt ẩn nhưng mặt rõ. Một dân tộc bất khuất, không ngừng chiến đấu với mọi xiềng xích nô lệ của Pháp, Nhật, đất nước này nhất định phải được độc lập. Các quốc gia liên minh bao gồm các quốc gia tự do. Một quốc gia đứng về phe Đồng minh, cùng chung lý tưởng và cùng nhau chiến đấu. Đất nước đó phải được tự do. Dân tộc đó là người Việt Nam. Cho nên dân tộc Việt Nam phải được độc lập, nước Việt Nam phải được tự do.

                              Quốc tịch, tự do, độc lập. Những lời thiêng liêng ấy trở về với những tính từ, trạng từ da diết: 80 năm, nay, những lời khẳng định: phải là những nhịp phách mạnh mẽ trong bản trường ca về quyền sống.

                              Sự đanh thép trong đoạn cuối là một tuyên bố thực tế nghiêm túc và quyết tâm bảo vệ nó bằng mọi giá. “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm bảo vệ quyền tự do, độc lập bằng tất cả tinh thần và sức lực, tính mạng và tài sản của mình.” Từng lời, từng chữ đều có giá trị, để rồi lời thề thiêng liêng vang lên từ hàng triệu cái miệng, ngày càng mạnh mẽ trong cuộc thủy triều bốn nghìn năm bất khuất. Bản tuyên ngôn kết thúc chắc chắn như một lời thách thức. Bị lòng tham mù quáng, kẻ thù của Việt Nam lao thẳng vào thép Việt Nam mà không có sự khôn ngoan, ý thức sâu sắc về nỗi kinh hoàng mà Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cảnh báo.

                              Phân tích Tuyên bố Độc lập – Mẫu 17

                              Hồ Chí Minh là nhà cách mạng, nhà văn, nhà thơ của dân tộc Việt Nam. Mỗi tác phẩm của ông đều thể hiện một thái độ chính trị riêng biệt và một tình cảm yêu nước mạnh mẽ. Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo năm 1945 sau khi Cách mạng Tháng Tám của nước ta thành công, trao quyền làm chủ nước nhà về tay nhân dân lao động, đánh đuổi phát xít Nhật ra khỏi đất nước. Sự thành lập của nó là kết quả của nhiều thành tựu to lớn, khi tổ tiên của chúng ta đã hy sinh rất nhiều sinh mạng và xương máu để kiểm soát đất nước này. Trong phần Tuyên ngôn độc lập ở đầu bài, tác giả đã nêu thẳng cơ sở pháp lý, lập luận chặt chẽ khiến không thể chối cãi.

                              Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn chứng từ hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ. Tác giả muốn nhắc hai đế quốc này tại sao những gì họ viết trong hiến pháp và tuyên ngôn của nước họ lại không được thực hiện ở các nước khác. Chúng làm ngược lại, đem áp bức, bóc lột sang nước khác để áp bức, Hồ Chí Minh lợi dụng lý lẽ của kẻ thù. Cả hai tuyên bố của Pháp và Mỹ đều nhấn mạnh đến quyền con người. Chú tôi nói nhiều về quyền dân tộc và đề xướng phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Khi giặc đến nước ta đàn áp nhân dân ta, bóc lột tài sản vật chất của ta, chúng đã khéo léo vạch trần tội ác của kẻ thù.

                              Không có gì văn minh hay dân chủ ở đây về những gì họ đã làm với đất nước chúng ta. Vì vậy tác giả kêu gọi nhân dân đứng lên đấu tranh. Chúng có chế độ sưu cao, thuế nặng, bóc lột xương tủy nhân dân ta. Chúng trực tiếp tàn sát đồng bào ta, giết hại đồng bào ta yêu nước. Bằng việc nêu bật tội ác của thực dân Pháp, tác giả đã nêu cao tình cảm dân tộc, khơi dậy lòng yêu nước ở mỗi dân tộc.

                              Chính thực dân Pháp đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945, cướp đi sinh mạng của 2 triệu đồng bào ta. Đưa nước ta cho Nhật, để dân ta nghèo nàn lạc hậu. Thực dân Pháp còn thẳng tay đàn áp phong trào yêu nước của nhân dân ta và giết hại. Những người tù chính trị làm khổ đồng bào ta, nhất là An Bạch, cao bằng…

                              Bằng ngôn ngữ hùng hồn, tác giả đã tố cáo, vạch trần tội ác man rợ của thực dân Pháp đối với nhân dân ta. Khám phá bộ mặt của nền văn minh của họ thực sự chỉ là bóc lột. Hồ Chí Minh đã khơi dậy lòng căm thù giặc và lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam, tác giả cũng ca ngợi phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân chống thực dân, phong kiến ​​trong thời kỳ cách mạng qua bản “Tuyên ngôn độc lập” tháng 8 năm 1945, phát xít Nhật đầu hàng.

                              Thông qua bản “Tuyên ngôn độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vạch ra những nhiệm vụ và phương hướng của nhân dân ta trong thời kỳ tiếp theo, thực dân Pháp quyết không từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta. .Nhân dân ta phải đoàn kết, tiếp tục đấu tranh giải phóng đất nước khỏi ách nô lệ này. Trên cơ sở những gì đã xảy ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đọc bản khai sinh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuyên bố nước Việt Nam là một nước độc lập hoàn toàn không lệ thuộc vào thực dân Pháp. Thực dân Pháp không có quyền lực đối với nước ta. Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập, Người tuyên thệ sẽ bảo vệ nền độc lập tự do bằng tất cả tinh thần và sức lực, tính mạng và tài sản của mình. “

                              Với việc công bố Tuyên ngôn Độc lập, Việt Nam bước vào vũ đài chính trị quốc tế với tư cách là một quốc gia độc lập và tự do. Bản Tuyên ngôn Độc lập này đã được những người tiến bộ trên thế giới thừa nhận và tôn trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bản “Tuyên ngôn độc lập” bằng ngôn ngữ cô đọng nhất, lời lẽ đanh thép, thể hiện rõ thái độ, lập trường, quan điểm của nhân dân Việt Nam. Trong chặng đường sắp tới, tầm nhìn chiến lược vĩ đại của Hồ Chí Minh đã được thể hiện.

                              Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 18

                              Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ thiên tài, anh hùng giải phóng dân tộc, giải phóng Việt Nam khỏi ách nô lệ mà còn là nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc. các thể loại khác nhau. Đặc biệt trong số các tác phẩm của Hồ Chí Minh, “Tuyên ngôn độc lập” ra đời năm 1945 là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất, tiêu biểu cho phong cách văn học của Người.

                              Mở đầu tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập”, tác giả Hồ Chí Minh đã khéo léo đặt cơ sở pháp lý về quyền con người, quyền dân tộc làm nền tảng vững chắc cho toàn bộ bản tuyên ngôn. Hồ Chí Minh đã khéo dẫn chiếu hai tuyên bố của hai cường quốc thế giới là Pháp và Mỹ. Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 tuyên bố rằng “tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ một số quyền bất khả xâm phạm: trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. của Con người và Công dân tuyên bố rằng “tất cả mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về quyền; và phải duy trì tự do và bình đẳng về quyền”. Việc trích dẫn nguyên văn hai bản tuyên bố của Pháp và Mỹ có tác động và ý nghĩa to lớn. Nó không chỉ góp phần đảm bảo tính khách quan của bản tuyên ngôn mà còn thể hiện sự trân trọng, đề cao của tác giả đối với những giá trị tiến bộ đã được cả nhân loại công nhận. Ngoài ra, tác giả đã sử dụng câu trích dẫn này để vận dụng thành công chiêu “gậy ông đập lưng ông” để đánh bại ý đồ xâm lược nước ta của kẻ thù. Đặc biệt chương mở đầu còn thể hiện rõ nét óc sáng tạo, tài năng và lập luận sắc bén của Hồ Chí Minh, suy ra từ việc đề cập đến quyền con người trong hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ. “Quyền dân tộc” được hiểu theo nghĩa rộng là: trên thế giới các dân tộc đều sinh ra bình đẳng, nước nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

                              Bên cạnh việc nêu cơ sở pháp lý, Hồ Chí Minh còn nêu cơ sở thực tiễn của Tuyên ngôn. Có thể thấy, từ phần một sang phần hai, tác giả đã khéo léo sử dụng quan hệ từ “trở về”, qua đó phần nào bộc lộ sự đối lập giữa lý lẽ và hành động của thực dân Pháp. Sau đó, Người đã tổng kết và lên án sâu sắc tội ác của thực dân Pháp đối với nước ta. Tác giả sử dụng biện pháp liệt kê để phác họa một cách sinh động tội ác man rợ của thực dân Pháp trên các lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị. Trước hết, trên lĩnh vực chính trị, thực dân Pháp thi hành những chính sách ngu dân và đưa ra hàng loạt “luật pháp man rợ” mà tác giả liệt kê nhằm “lập ba chế độ khác nhau ở ba miền Bắc Trung Nam” nhằm ngăn cản nhân dân ta. từ thống nhất, thống nhất đất nước, “nhà tù nhiều hơn trường học”, “dư luận bị kìm hãm”… Càng trở nên xơ xác, hoang tàn”. Để chứng minh cho luận điểm trên, tác giả Nguyễn Ái Quốc một lần nữa liệt kê cụ thể những chính sách mà thực dân Pháp đã thi hành nhằm cướp ruộng đất của nhân dân, “độc quyền in tiền xuất nhập khẩu”, áp đặt hàng trăm thứ thuế vô cùng vô lý, dã man. bóc lột công nhân… Chính những chính sách đó của thực dân Pháp đã để lại hậu quả nặng nề cho nhân dân và đất nước ta. Khi “từ năm ngoái đến đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Tokyo, hơn 2 triệu đồng bào chết đói”. Qua đó có thể thấy tội ác của thực dân Pháp đối với nước ta là không thể tả xiết. Đặc biệt, trong cách tiếp cận cấu trúc, tác giả đã làm nổi bật tội ác của thực dân Pháp, những tội ác đi ngược lại công lý và quyền lợi mà chúng đã tuyên bố. Ngoài ra, tác giả còn chỉ ra sự thật về chính sách bảo hộ mà thực dân Pháp thực hiện ở nước ta về kinh tế – chính trị dưới chiêu bài khai hóa, nhất là trong hai năm đô hộ dưới chiêu bài bảo hộ. Pháp đã hai lần phản bội nước ta. Đất nước là Nhật Bản. Cuối cùng, trên cơ sở thực tiễn, Bác đã nói lên sự thật về cách mạng Việt Nam. Khi “Việt Minh kêu gọi Pháp đoàn kết chống Nhật” thì cuộc cách mạng của chúng ta là một cuộc cách mạng chính nghĩa. Đặc biệt, ta còn thực hiện những chính sách khoan hồng, nhân đạo đối với người Pháp như “giúp đỡ nhiều người Pháp vượt biên”, “giải cứu nhiều người Pháp khỏi nhà tù của Nhật”. Tác giả Hồ Chí Minh đã trình bày tội ác man rợ của thực dân Pháp và sự thật về cách mạng nước ta với những dẫn chứng cụ thể, cặn kẽ. Từ đó, Người nhắc lại hai lần ở cuối phần hai của tác phẩm “Nhân dân ta lấy lại Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp”, khẳng định thực dân Pháp không có quyền trả lại Việt Nam.

                              Trên cơ sở pháp lý và thực tế đã nêu, phần cuối cùng của tác phẩm là Tuyên ngôn độc lập. Trong một tuyên bố rất ngắn gọn, tác giả khẳng định đất nước và nhân dân ta đã hoàn toàn “từ bỏ Pháp, xóa bỏ mọi hiệp ước của Việt Nam và mọi đặc quyền của đại bác”, tuyên bố nước Việt Nam là một nước tự do, độc lập. Tuy ngắn gọn nhưng lời tuyên bố thể hiện quyết tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là của nhân dân Việt Nam và Nhà nước Việt Nam bảo vệ nền độc lập dân tộc.

                              Tóm lại, bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được tuyên bố với những luận điểm chặt chẽ, những luận cứ chặt chẽ và bằng chứng thuyết phục, đánh dấu sự mở đầu của dân tộc Việt Nam trong một kỷ nguyên mới. Đồng thời, nó cũng giúp chúng ta hiểu vì sao Tuyên ngôn Độc lập được coi là “mẫu mực của các bài văn chính luận của mọi thời đại”.

                              Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 19

                              Tháng 8 năm 1945, cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp thắng lợi trên cả nước. Để khẳng định thắng lợi và vinh quang của ngày lập nước, Hồ Chí Minh đã bắt tay thảo bản “Tuyên ngôn độc lập”, chính thức đứng một mình trước hàng vạn đồng bào tại Quảng trường Ba Đình, tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. “Tuyên ngôn độc lập” không chỉ có ý nghĩa lịch sử to lớn mà còn có giá trị văn học sâu rộng.

                              Tóm lại, Tuyên ngôn độc lập là văn kiện tuyên bố quyền độc lập, quyền tự do thiêng liêng của một dân tộc. Bản tuyên bố chủ quyền quốc gia cô đọng những quyền lợi và yêu cầu thiết tha của dân tộc, đồng thời thể hiện bản lĩnh của dân tộc trong toàn bộ quá trình hình thành và phát triển lịch sử. Một trong những vấn đề quan trọng, trọng tâm của Tuyên ngôn độc lập là nêu cơ sở pháp lý cho nền độc lập của dân tộc ta.

                              Từ khi công nhận quyền con người, các bạn đã mở rộng và khẳng định quyền của người dân. trong đó có người Việt Nam. Với hai bản tuyên bố của người Pháp và người Mỹ, các bạn đã tạo tiền đề cần thiết cho tính không thể phủ nhận của bản tuyên bố của chúng tôi.

                              Mở đầu bản tuyên ngôn, Người đã nêu một chân lý xuyên suốt lịch sử tiến hóa của loài người: đó là chân lý về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Từ chân lý này lại nảy sinh chân lý khác, chân lý về quyền của con người: “Tất cả mọi người trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng. quyền con người đối với quyền dân tộc , Tuyên ngôn Độc lập đặt cơ sở vững chắc, nói lên những chân lý không thể phủ nhận để khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta.

                              Để khẳng định tính đúng đắn và sức thuyết phục của bản tuyên ngôn, một lần nữa tôi trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Hoa Kỳ vào thế kỷ XVI, bởi đó là hai bản tuyên ngôn có giá trị tích cực và tiến bộ. .Dựa trên vấn đề quyền con người được hai bản tuyên ngôn trên khẳng định và ghi nhận, Bác Hồ đã xác lập quyền của dân tộc ta. Đây là thủ đoạn “gậy ông đập lưng ông” sắc bén của Hồ Chí Minh. Nói cách khác, sử dụng lời nói và vũ khí của kẻ thù để đánh bại kẻ thù.

                              Trích dẫn hai câu nói trên, bạn đã tế nhị đặt nước ta ngang hàng với các nước lớn trên thế giới. Đây là cách duy nhất, ngắn nhất để bạn xác nhận tuyên bố của chúng tôi. Đây là cách dễ dàng nhất để đi vào lòng người.

                              Trong các nguyên tắc về quyền của các quốc gia mà Tuyên ngôn Độc lập dựa vào để lập luận, các khía cạnh pháp lý và đạo đức khá rõ ràng. Phong cách chất vấn của Hồ Chủ tịch rất thông minh và chặt chẽ. Không phải ngẫu nhiên mà ở phần đầu bản tuyên ngôn của mình, Hồ Chí Minh đã nhắc đến nội dung của Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền của Pháp (1789). Trong cuộc đấu tranh giải phóng ở Mỹ và cách mạng tư sản ở Pháp, giai cấp tư sản của hai nước này cũng đóng vai trò cách mạng, tiến bộ, có thể đoàn kết các lực lượng cách mạng, lật đổ chế độ thực dân Anh, đấu tranh giành độc lập cho nước Mỹ. , và xóa bỏ chế độ dân chủ tư sản.Hệ thống pháp luật phong kiến ​​- Vì vậy, tinh thần và nội dung cơ bản của hai bản tuyên ngôn trên có ý nghĩa tích cực, được thế giới đồng tình và thừa nhận rộng rãi.

                              Vì vậy, việc viện dẫn hai bản Tuyên ngôn này sẽ tạo cơ sở pháp lý chính đáng và vững chắc cho Tuyên ngôn Độc lập của chúng ta. Và, trích dẫn các tuyên bố của Pháp và Mỹ, cũng nêu bật một trong những chiến thuật sắc bén của Hồ Chí Minh: Lấy gậy đánh vào lưng. Để cho thiên hạ biết rằng nếu thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa thì đó là phản bội truyền thống tốt đẹp của cha ông. Một người đàn ông có lương tâm và nhân phẩm sẽ không bao giờ làm điều này.

                              Bác bỏ, phủ nhận quyền lợi của thực dân Pháp đối với nhân dân ta, từ đó chặn đứng âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp. Bạn khẳng định rằng Việt Nam giành độc lập từ tay Nhật chứ không phải Pháp. Pháp tuyên bố “bảo hộ” Việt Nam nhưng thực chất Pháp đã hai lần bán nước ta cho Nhật (lần thứ nhất vào năm 1940; lần thứ hai vào năm 1945). Chính phủ Pháp cũng cho rằng họ đến Việt Nam để “khai thác văn minh”, nhưng họ phủ nhận bằng những lập luận chặt chẽ, sắc bén và chọn những ví dụ điển hình để chứng minh rằng trong hơn 80 năm qua, pháp luật của bọn thực dân đã thực hiện những chính sách thâm độc, ngu dân. Con người đã làm cho đất nước chúng ta yếu đi và đất nước chúng ta ngày càng yếu đi. Đồng chí cũng vạch trần những tội ác man rợ mà thực dân Pháp đã gây ra đối với nhân dân ta trong mấy chục năm qua.

                              Mở đầu phần hai, Hồ Chủ tịch vạch trần tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta trong hơn 80 năm qua. Cách tiếp cận tội phạm của luật ngắn gọn và đầy đủ, bao quát các khía cạnh chính trị, văn hóa, xã hội và kinh tế. Cùng với giọng văn đanh thép đầy căm giận, ngôn ngữ hình ảnh giản dị mà sâu sắc, gợi cảm, mạnh mẽ càng làm cho câu văn thêm xúc động, thấm nhuần vào lòng người mối thù truyền kiếp. Thực dân Pháp: “Chúng thi hành những luật lệ dã man…chúng xây dựng nhiều nhà tù hơn trường học…chúng tắm máu cuộc nổi dậy của chúng ta…chúng bóp nghẹt dư luận và thi hành những chính sách ngu xuẩn…chúng làm suy yếu dân tộc chúng ta bằng thuốc phiện và rượu… .đã bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, để cho đồng bào ta nghèo đói, thiếu thốn, nước ta điêu tàn.” Mỗi hình ảnh so sánh hay ẩn dụ; mỗi từ ngữ chọn lọc ở đây, dường như trong tâm trí người đọc, cuốn sách đều gợi lên một bức tranh sống động của máu và nước mắt, gây xúc động mạnh cho người đọc.

                              Khi kết tội thực dân Pháp phản bội nước Nhật, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thẳng thắn vạch trần lập trường phản động, vô nhân đạo của chúng, đồng thời khẳng định lập trường chính nghĩa, nhân đạo của nhân dân. Thực dân: “Thực dân Pháp đầu hàng, mở cửa nước ta đón trời… Trong 5 năm, chúng hai lần bán nước cho Nhật… Dù thua bỏ chạy, chúng tàn sát dã man Số tù chính trị Yên Bái chết và Cao Bằng”. Lập trường nhân đạo của dân tộc ta còn được thể hiện sâu sắc trong câu nói dứt khoát của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việt Nam đã giúp… cứu… và che chở”. Điều này phản ánh rất thực việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cao truyền thống nhân văn, văn minh của dân tộc ta lên hàng đầu.

                              Dứt khoát phủ nhận mọi quan hệ thuộc địa giữa nước ta với thực dân Pháp, đồng thời kiên quyết khẳng định đường lối cách mạng dân tộc dân chủ của nhân dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn cứ vào hàng loạt sự kiện chính trị trong thực tiễn lịch sử Việt Nam khoảng 5 năm (1940-1945), vận dụng phương pháp suy luận nhân quả để rút ra những kết luận cần thiết. Nó phải được coi là đương nhiên, không ai có thể phủ nhận nó.

                              Vì vậy, cùng với những lập luận chặt chẽ, thuyết phục, là nghệ thuật diễn đạt hết sức tài tình của Hồ Chí Minh. Đôi khi người ta dùng những cấu trúc đặc biệt, câu nhịp nhanh để gợi diễn biến nhanh của sự việc (Pháp chạy, chèo thuyền, vua Đại thoái vị).

                              Theo thực tế lịch sử đã chứng minh, ở cuối phần thứ hai của Tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định một cách khẳng định quyền của dân tộc Việt Nam được hưởng độc lập, tự do, bình đẳng với các dân tộc, bộ tộc trên thế giới. Tuyên bố này dựa trên hai lý do: pháp lý và thực tế. Cơ sở pháp lý ở đây gần gũi và thiết thực hơn – không phải là tuyên bố lịch sử của Pháp và Mỹ thế kỷ 18, mà là nguyên tắc bình đẳng dân tộc đã được các nước đồng minh trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á thừa nhận. heran và cựu kim sơn (i-ran và san francisco). Nhưng cơ sở thực tế là 80 năm đấu tranh cách mạng của dân tộc ta: “Anh dũng chống ách nô lệ Pháp, đứng cùng Đồng minh chống phát xít mấy năm”. Một chính nghĩa hoàn toàn phù hợp với công lý và lẽ phải, phù hợp với các nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia đã được Đồng minh công nhận.

                              Bản Tuyên ngôn Độc lập kết thúc bằng lời tuyên bố mạnh mẽ của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự ra đời của một nước Việt Nam mới độc lập, tự do. Trong “Tuyên ngôn độc lập”, bên cạnh khía cạnh lập luận còn có khía cạnh thứ hai, đó là sự vận dụng mạnh mẽ quyết tâm giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia của nhân dân Việt Nam. Đây là hai phương diện tạo nên chỉnh thể hoàn chỉnh của bản Tuyên ngôn Độc lập. Khía cạnh thứ nhất: Biểu tình, khẳng định chủ quyền quốc gia, dân tộc; bác bỏ mọi âm mưu, hành động xâm lược. Khía cạnh thứ hai: trữ tình, thể hiện ý chí và khát vọng quan tâm, là sự biểu diễn nghĩa cử dũng cảm của dân tộc. Hai mặt này luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, thể hiện sự quan tâm giữ vững độc lập, tự do của Tổ quốc. Tuyên ngôn Độc lập là kết tinh vẻ đẹp của văn học nghệ thuật. Đây là một tác phẩm rất ngắn gọn, súc tích (chỉ khoảng ba trang) nhưng chứa đựng nội dung tư tưởng lớn, liên quan đến sinh tử của một quốc gia.

                              Nói đến văn chính luận không thể không nói đến nghệ thuật nghị luận, lập luận chặt chẽ, thuyết phục của tác phẩm Tuyên ngôn độc lập. Những dẫn chứng nêu trong Tuyên ngôn độc lập rất tiêu biểu, chọn lọc (như tố cáo, tố cáo thực dân Pháp, bị bác bỏ về nhiều mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, văn hóa. Rất đặc sắc.

                              Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một văn kiện lịch sử quý giá mà còn là một tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị. Tuyên ngôn Độc lập cũng là sự kết tinh tinh khiết và đầy đủ nhất. Những tác phẩm văn học giàu tính cách mạng, như vở kịch nổi tiếng “Con rồng tre” và “Bản án chế độ thực dân Pháp” trước Cách mạng tháng Tám của Hồ Chí Minh, có thể coi là một tác phẩm văn học hiếm có trong nền văn học nước nhà. Kế thừa và tiếp nối truyền thống tốt đẹp của người anh hùng dân tộc “Cáo” và thể loại tuyên ngôn, các đại diện tiêu biểu bao gồm bài thơ “Núi và sông nước Nam”, truyền thuyết về Li Shangjie và bài thơ “Thiên cổ anh hùng”, bài thơ “lớn” nổi tiếng của Ruan Ti cáo” lọ”.

                              Nghệ thuật bình luận chính trị của Hồ Chủ tịch về Tuyên ngôn Độc lập là mẫu mực. Nội hàm tư tưởng sâu sắc, lập luận chặt chẽ, văn phong ngắn gọn, rõ ràng.

                              Có thể nói, Tuyên ngôn Độc lập là sự kết tinh cao đẹp, chói lọi của truyền thống yêu nước, ý chí, ý chí, tinh thần dân tộc và phong trào cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, đánh dấu mốc son chói lọi, mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước Việt Nam. Lịch sử dân tộc: kỷ nguyên độc lập, tự cường dân tộc.

Kiểm tra tiếng Anh trực tuyến

Bạn đã biết trình độ tiếng Anh hiện tại của mình chưa?
Bắt đầu làm bài kiểm tra

Nhận tư vấn lộ trình từ ACET

Hãy để lại thông tin, tư vấn viên của ACET sẽ liên lạc với bạn trong thời gian sớm nhất.