Cô chợt rùng mình khi chân chạm phải những dấu chân lạ. Cô đã mang thai kể từ đó. Theo thời gian, cô sinh được một cậu con trai mũm mĩm tên là Joan. Nhưng đứa trẻ đã ba tuổi, vẫn nằm sấp, không thể ngồi và lăn, không thể nói hay cười.
Ngày ấy giặc vào cướp nước ta. Giặc Ân hung hãn, tàn bạo, do tướng An Vương cầm đầu, hình tượng hung tợn. Đi đến đâu chúng đốt nhà, giết người, cướp của. Quân đội hùng mạnh của nhà vua nhiều lần xuất hiện, nhưng không thể chiến đấu. Vua Hồng hết sức lo lắng, vội sai sứ đi tìm các tướng giỏi khắp nước để giúp vua Hồng cứu nước.
Một hôm, sứ giả đến ngôi làng của cậu bé. Nghe loa nói vua muốn tuyển nhân tài, người mẹ vừa dỗ con vừa đùa:
-Em ơi! Nếu con chậm nói, biết lúc nào nên đánh giặc giúp vua!
Không ngờ mẹ lại mở miệng nói:
– Tôi đã gửi một sứ giả đến đây cho bạn!
Nói xong, cô im lặng. Người mẹ vừa mừng vừa sợ, vội báo tin cho hàng xóm. Mọi người đến, và mọi người đều nghĩ đó là một điều kỳ lạ. Cuối cùng cũng người đó nói:
– Nào, lấy người chuyển phát nhanh và xem nó muốn gì.
Khi sứ giả của nhà vua vào nhà, nhìn thấy cậu bé, ông hỏi:
– Ba tuổi con mới biết nói, mẹ nhờ con làm gì?
Câu trả lời rất chín chắn của Gong:
– Hãy đi nói với vua rèn ngựa sắt, kiếm sắt, áo giáp sắt, mũ sắt, và tôi sẽ chiến đấu với những kẻ thù hung ác!
Đám đông đứng nghe lạ lùng. Cho là thần xuất hiện, sứ giả lập tức cưỡi ngựa về tâu vua. Nhà vua vui mừng khôn xiết và ra lệnh cho người thợ rèn thu thập tất cả sắt và rèn ngựa, kiếm, áo giáp và mũ theo yêu cầu của cậu bé. Mọi thứ được rèn đều nặng không thể tưởng tượng được. Hàng chục người cầm gươm nằm bất động. Vị vua anh hùng đã phải cử hàng ngàn quân lính để tìm cách đưa cậu bé đến với cậu.
Nghe tin binh mã kéo đến làng, mẹ tôi sợ quá chạy về kể:
-Em ơi! Trở thành vua không phải là vấn đề của trò chơi. Bây giờ quân lính đang ùa ra sân, em biết làm sao bây giờ?
Nghe đến đây, anh chợt ngồi dậy nói:
– Không lo đánh giặc. Nhưng anh phải cho em ăn nhiều đấy!
Mẹ thổi cơm vội cho em ăn nhưng mẹ nấu được nên em ăn hết một nồi. Mỗi khi ăn hết một hũ cơm lại to ra và đòi ăn thêm. Mẹ tôi càng cho tôi ăn nhiều, tôi càng trở thành một thanh niên khỏe mạnh. Hết gạo, mẹ ra đồng gọi điện thoại. Mọi người đều nóng lòng đổ đầy một sân với gạo, khoai tây, rượu, trái cây và bánh ngọt. Nhưng bạn cho bao nhiêu, ăn bao nhiêu mà vẫn nhất quyết ăn không ngơi tay.
Sau đó lặp lại:
– Mẹ đi tìm vải cho con mặc.
Người ta đổ xô dệt lụa làm quần áo. Chỉ là thân thể to lớn kinh người, quần áo vừa mới may xong, vừa chật vừa ngắn, còn phải dùng vải lụa để khâu lại. Chẳng mấy chốc, ánh đèn rọi vào nóc nhà. Sự kinh ngạc của đám đông vẫn chưa hết, những người lính đã có thể mang theo ngựa, dao, áo giáp và mũ sắt. Bước ra khỏi phòng, vươn vai bỗng cao lớn hơn, chân dài hơn gậy, gầm như sấm:
– Tôi là đại tướng!
Khi đó hắn mặc áo giáp sắt, đầu đội mũ sắt, tay cầm kiếm, bước đi như bay. Sau đó, anh từ biệt mẹ và dân làng, và nhảy lên ngựa. Con ngựa sắt đột ngột chồm lên, phun ra một khối lửa đỏ rực. Giữa xô đẩy, chiến mã phi nước đại như bay, từng bước vắt vẻo trên hàng chục cây sào, rung chuyển trời đất. Trong nháy mắt, phi ngựa xông tới doanh trại địch đã áp sát mấy khu rừng. Thanh kiếm gió vung như tia chớp. Chỉ cần một đạo quân địch ra tay, bọn họ nhất định sẽ chết. Ngựa gầm lên trong ngọn lửa, đốt cháy hàng trại và khu rừng. Khói mù mịt, gào khóc như ri.
Nhưng tướng giặc là An Vương vẫn hô hoán quân, trận chiến càng ác liệt, xác chết trong rừng càng nhiều. Đột nhiên, thanh kiếm bị gãy. Hắn không thèm để ý, dùng tay phải nhổ những rừng trúc hai bên đường, dùng tay phải đập phá những đám tre đang cố chấp lệnh của tướng quân. Chẳng bao lâu quân địch tan tác, An Vương bị giết. Kẻ thù còn sót lại cầu xin nguồn cung cấp. Quân đội hùng mạnh của nhà vua và dân làng chỉ cần lao ra và trói họ lại. Trong vòng chưa đầy một ngày, gió đã giải quyết hoàn toàn vấn đề về nước. Khi đó, chiến mã đã đến chân núi Shuoshan. Lúc này, Jiang cởi bỏ áo giáp và mũ, cùng người và ngựa bay thẳng lên trời.
Sau khi chiến thắng, nhà vua sai lập đền thờ trong làng để ghi ơn người anh hùng, phong ông là Thần Động Vương.
Cho đến ngày nay, chúng ta vẫn còn thấy dấu tích của những dãy ao tròn trải dài từ Jinying, Dapa cho đến núi Sóc, tương truyền là dấu chân của những chú ngựa thánh. Những khu rừng bị ngựa sắt phun lửa đốt cháy giờ được gọi là Làng Cháy. Những cây tre bị giặc nhổ bật gốc bị cháy xanh ngả vàng, có đốm, ngày nay loài tre ấy vẫn còn, người ta gọi là tre ngà (hay ngà voi).
Điều tra
Câu chuyện trên hẳn là từ một thần thoại xa xưa, vì nghệ thuật thần thoại còn khá rõ ràng. Sau đó, câu chuyện thần thánh này cũng được người dân ở một số nơi ở Bắc Ninh và bắc Bắc Giang bịa đặt, thêm vào một số tình tiết thần kỳ và phi thần kỳ để làm phong phú thêm câu chuyện. .Ví dụ:
Thắng trận xong, nhà hiền triết đến một nơi, buộc ngựa vào hai cọc đá lớn rồi ngồi nghỉ. Ở làng này hiện còn một cột đá cao khoảng ba thước, rộng sáu tấc, treo thẳng đứng trên một bệ đá tự nhiên hình bầu dục. Con ngựa sắt mệt mỏi sùi bọt mép biến thành bãi cát trắng lấp lánh dưới ánh mặt trời. Bãi này nay thuộc xã ngọc xá huyện que võ, cách xa sông nên gọi là bãi nhạn sa.
Hay là Shengqiong qua cầu bên sông đi ngang qua một thôn nọ, có một bà lão bán nước máy. San-joon dừng lại để xin đồ uống. Bà lão dâng bầu rượu. Sau khi nhà hiền triết uống xong, anh ta khen ngợi bà lão có lòng tốt, đặt tên cho quả bầu trong làng và nói rằng khi hạn hán sẽ có mưa. Kể từ đó, mỗi khi có hạn hán nghiêm trọng, tại đây sẽ tổ chức lễ cầu mưa (lúc này gồm 7 thôn gọi là phổ cử), nhân dân thường cúng tế thần làng và đến Sóc Sơn xin nước. vv
Cao huy đình đã sưu tầm nhiều câu chuyện như vậy trong cuốn sách “Những anh hùng làng”.
Sau đây là một số phiên bản của những câu chuyện thiêng liêng, tất cả đều ở dạng truyện cổ tích.
1 trở thành tướng. Vào thời vua Hồng, có một cặp vợ chồng sống ở làng Yanyue với rất ít con. Một hôm, khi chồng đang lên núi, thần núi (thần núi) báo mộng cho chàng nghe một giấc mơ khiến đất đá sinh ra một đứa trẻ (do đá mẹ thụ thai trong ba năm), bỗng nhiên có một một tiếng sét, hòn đá trong ao bỗng nứt ra, xuất hiện một đứa bé, hai vợ chồng bế vào. Bảy tuổi chưa biết nói.
Lúc bấy giờ, 50.000 quân man rợ do tướng Lu Tingshan cầm đầu đã chiếm đóng nước ta, rất tàn bạo. Vị vua anh hùng đã bị thuyết phục bởi các vị thần và gửi một “ân xá” đến Yanyue để đòi tiền. Đứa bé nằm trên giường. Vua cha vỗ về bảo: “Trong nước có giặc, vua sai người đi tìm, sao con không dậy mà giúp nước ngủ yên?”. Tướng quân nghe biết, bèn đứng dậy mời ân nhân vào nhà, sai vua làm tượng đá cao ba thước, cắm cờ hiệu đế, để đánh giặc. Nhà vua cũng được mời để gửi thợ đá để chạm khắc. Đứa trẻ cầm cờ và voi, giơ lên cao mười thước, mặt đỏ như mặt trời mọc, nhảy lên voi cầm cờ, theo sau là quân sĩ. Man quân phân tán chạy trốn, sắp bị chém thành ba mảnh.
Thắng trận xong, tướng Thạch về làng, cưỡi voi bay lên trời.
2. Hoàng đế thành phố Hồ Chí Minh. Một phụ nữ không chồng ở làng Dongbang một hôm vào rừng kiếm củi, chợt nghe tiếng hổ gầm, tâm động, mang thai mười bốn tháng, sinh hạ một con trai, tên là sư tử hổ, cao mười trượng, cực kì mạnh mẽ. Mạnh mẽ hơn con người.
Đột nhiên, một đội quân địch tràn xuống từ phía bắc và tàn phá khu vực Baihe. Vua trần dưới cầu có tài hạ địch. Hổ được lệnh tâu với vua rèn ngựa sắt, trượng sắt để ra trận. Hổ thừa thắng xông lên ngựa, đánh tan quân thù. Trần Vương ban tám chữ: “Nam hữu hàn bắc” (nam khí lạnh bắc địch). Ông không nhận quan chức mà chỉ về quê nuôi mẹ già. Mẹ chết, Mãnh Hổ cưỡi ngựa đến xã Toàn-Mỹ để thay.
3. Tinh thần vua. Vào đời Li Taidong, có một người thiếp tên là Thi Sung. Một ngày nọ, anh ta bị một con sên bắt khi đang tắm ở Hồ Điếm. Từ đó về sau, có một thiếu niên trên ngực có hai mươi tám hoa văn giống như vảy rồng, trên ngực có bảy hàng ngọc châm óng ánh. Vua tên là Linh Lang, cho hai mẹ con ở làng Thị Lệ bên hồ, gọi là hồ Linh Lang. Đột nhiên một kẻ thù vĩnh cửu đến, và những người lính bất lực để chống lại. Vua nghe lời thần, sai sứ đi tìm thần để làm tướng. Về đến làng Thi-lệ, Linh Lang nằm ngửa trên giường bỗng nói được, bèn bảo mẹ gọi sứ đến xin vua cho một lá cờ lớn, cán dài, và một con voi đực. , sẽ làm dịu kẻ thù. Tất cả tinh lang cầm cờ trận đều hô to: “Ta là thiên tướng quân!” Rồi cưỡi voi xông trận. Con voi chạy như thường lệ, và với một cái vẫy cờ, quân địch biến mất. Kẻ thù sẽ ngã xuống đất và chết. Khi trở về, anh mắc bệnh đậu mùa. Khi lá cờ sắp tàn, ông xin vua cho lá cờ đỏ lên trời và cho ông dựng một ngôi đền ở nơi lá cờ hạ xuống. Sau đó, anh ta biến thành một con rắn, trèo xuống hồ dục vọng và chết.
Nhìn chung, có nhiều truyện tương tự như truyện cổ tích trên nhưng nội dung không nhiều.
Người dân Ngee Ann có một câu chuyện về Tuma, dường như là một bản sao của câu chuyện về Thánh địa:
Cậu bé mười lăm tuổi ăn chơi trên đất, thường nặn voi ngựa ra khỏi đất. Đột nhiên, kẻ thù tấn công. Không ai có thể đánh bại điều đó. Nhà vua không còn cách nào khác đành phải đi cầu người có bậc tốt. Sau khi nhìn thấy sứ giả, đứa trẻ đã lấy đất và nháy mắt với con ngựa. Sau khi vắt, ngựa sẽ lớn lên tự nhiên, biết ăn và biết chạy. Rồi đứa trẻ lên ngựa. Con ngựa cõng tôi ra trận và cuối cùng đã đánh bại quân thù.
Xem thêm truyện vu thanh ở câu 131, cũng là một dị bản của truyện thánh tích.
Dân tộc nào cũng có chuyện anh hùng ít nhiều giống chuyện thánh nhân
Đầu tiên là câu chuyện của người Thái xưa:
Có một cặp vợ chồng già hiếm hoi nghe đạo sĩ kể rằng xây một trăm hai mươi cây cầu, cuối cùng người vợ sinh ra một con cóc. Cóc đã mười hai tháng tuổi, chỉ bằng một nắm tay nhưng bố mẹ vẫn nuôi nấng. Một hôm có sứ giả đến tìm nhân tài đánh giặc. Cóc đã kêu cứu bố mẹ. Sứ giả bị đưa ra tòa. Con cóc tuy nhỏ bằng nắm tay nhưng không thể chở bằng ngựa, đành phải đi bộ. Tới nơi, vua hỏi: – “Cần gì?”. Câu trả lời là: “Xin nhà vua đúc một con ngựa sắt, ba nghìn cân gang, hai nghìn cân sắt ngoài, và mười bốn cân lông ở bờm và đuôi. Xin xin một lá cờ dài ba thước.” vua chỉ được phép đúc tám nghìn cân, nên khi cóc nhảy lên, ngựa cúi đầu. Nhưng rồi ngựa cũng đi uống thuốc. Nhà vua phong Cóc làm tướng quân và hứa nếu thắng cuộc sẽ cưới công chúa. Địch địch gặp nhau, chiến mã xông tới, miệng phun lửa, mũi phun khói. Mặt kẻ thù đen thui và anh ta bị đốt cháy. Thắng trận, nhà vua lần lượt hỏi ý kiến ba công chúa, chỉ có cô công chúa thứ ba bằng lòng làm vợ cóc để lấy lại lòng tin của vua cha.
Phần tiếp theo khác với diễn biến của câu chuyện thiêng liêng. Nhà vua muốn đón tiếp thân nhân nên sai đóng một trăm hai mươi chiếc kiệu, chỉ lấy chiếc kiệu bên phải của ba công chúa. Cóc đã đi đến một nhà hàng. Khi trời mưa, Cóc sẽ nhảy lên mái nhà để tránh bị ướt. Người bán hàng là một nàng tiên đã nói với Cóc rằng chiếc ghế sedan nào có những con bướm bay tới. Công chúa trở lại nhà Cóc, và Cóc cởi bỏ lớp cải trang nam của mình. Thức dậy vào buổi sáng và mặc quần áo. Chị hai hỏi tôi, và công chúa thứ ba nói sự thật. Có yến tiệc, công chúa thứ ba sai chồng cởi áo ra dự. Nhà vua vào nhà để xem con cóc trông như thế nào. Nhà vua muốn mặc quần áo của mình, nhưng anh ta không thể cởi chúng ra. Vì vậy, nhà vua đã trở thành một con cóc. Triều thần tôn cóc làm vua.
Chuyện người nông dân mơ trăng:
Có một cặp vợ chồng già hiếm muộn, một hôm người vợ nằm mơ thấy một con thỏ từ trên cung trăng xuống chơi trước mặt mình, liền có thai và sinh ra một đứa con. Vì là con của thần nên hai vợ chồng sợ gây tai họa nên để nó trên bãi cỏ, thỉnh thoảng mới lui tới. Một hôm, chủ làng bắt đứa bé ném xuống suối, nhưng đứa bé không chìm mà chỉ nổi lên một chỗ, cô thôn nữ vớt lên. Khi tôi bốn tuổi, tôi có thể khiêu vũ. Một ngày nọ, cô đứng trên một tảng đá và cầu nguyện: “Thiên thần, hãy giúp tôi giết tên trưởng làng độc ác”. Lời vừa dứt, hòn đá liền chuyển động, biến thành một con bạch mã cao lớn. Con ngựa cúi đầu vẫy đuôi trước mặt tỏ ý phục tùng. Cùng lúc đó, một bà lão tóc vàng từ trên trời giáng xuống và bảo cô hãy đến thác nước để lấy kho báu. Thấy có vật gì bóng loáng trôi nổi, ông lội vào nhặt lên thì đó là một thanh kiếm quý. Tôi toàn thân run lên, biến thành một người cao lớn, cưỡi ngựa, phi nước đại như bay, cây cối cúi đầu. Khi đến nơi, quốc vương sợ hãi và đóng cổng thành. Ta múa kiếm, kiếm sáng ngời, trước đốt cổng thành, sau đốt cung. Những người hầu lao ra đều ngã xuống. Tôi giết chủ làng, rồi lấy của cải chia cho mọi người, ai về nhà nấy. Đạp xe về chốn cũ. Con ngựa không bay lên trời mà biến thành đá, tôi ném thanh kiếm trở lại thác nước, nhưng được Nữ hoàng Mặt trăng đưa lên trời, vì tôi là con trai của bà.
Câu chuyện về Gấu bố từ tiếng Bahnar:
Một gia đình nghèo sinh được mười cô gái, hàng ngày họ phải vào rừng đốn củi kiếm sống. Một ngày nọ, họ gặp một con gấu đỏ và nói với con gấu về sự nghèo khó của họ. Chú gấu con trèo lên cây và hái những quả ngon để ăn, và đưa cho mọi người một túi trái cây để mang về nhà. Cô út đã mang thai sau khi ăn quả dâu tây và sinh ra một cậu con trai mũm mĩm sáu năm sau. Trong lúc bị dân làng rượt đuổi, cô được một con gấu đỏ đến bắt đàn con và hái trái cây. Từ đây, câu chuyện gần gũi của tôi. Cậu bé lớn nhanh, nhưng không thể nói hoặc đi lại. Mẹ rất buồn. Một hôm, tôi nói với mẹ. —— “Mẹ nấu năm bát cơm, chuẩn bị bốn hũ mắm chua”. Mẹ đi theo. Tôi đã ăn tất cả trong một lần ngồi. Ăn cơm xong, tôi xin mẹ đi làm đồng nhưng mẹ không chịu. Rồi anh vươn vai, bỗng một thân hình cao lớn chồm lên: bộ quần áo mẹ tôi khâu đã rách nát. Mẹ ngạc nhiên đi gọi làng. Khi quay lại, tôi đã biến thành một thanh niên vạm vỡ với trường kiếm trong tay, oai phong lẫm liệt. Khi nó cưỡi chiếc khiên của chính mình và bay lên không trung, mọi người đều choáng váng. Câu chuyện kết thúc khác nhau ở đây. Lúc này, gấu đỏ hiện nguyên hình, đến an ủi vợ anh rồi ngồi lên tấm khiên phi nước đại đi tìm con. Sau khi nhìn thấy con trai, cả hai đã hẹn nhau đi giải cứu một trưởng làng độc ác tên là Mustache. Lúc đầu, bộ ria sáng lên theo mọi hướng. Hai cha con làm phép khiến nước đổ như mưa. Con ria lại ngập nước, hai cha con liền gọi rồng ngậm. Hoảng sợ, anh ta bị bắt bởi cha con anh ta trước khi anh ta có thể trốn thoát. Nhưng họ không giết Mustache, họ chỉ bắt nó từ bỏ tội ác và chia của cải cho mọi người. Sau đó, Gấu Đỏ đem đứa bé về cho vợ.
Chuyện của Đan Tây:
Shou là một cậu bé mồ côi cha mẹ sống với một chủ làng giàu có nhưng độc ác. Vì đau nên ra đi không trở lại, gặp một bãi mía nằm nghỉ. Ruộng mía là của hai ông bà già, những người đã nuôi nấng hai chị em đau khổ của họ bằng tình yêu thương. Một buổi sáng leo lên núi, thấy chiêng trống trên đỉnh núi, trâu bò ngựa xe, khi trở về nhà thì thấy một thanh gươm vàng chói lọi. Khi cha mẹ nuôi về, nàng hỏi: “Tài sản trên núi là của ai?” – “Cho ngươi” – “Thanh kiếm đó của ai?” – “Cho ngươi”. Yêu nó rất nhiều, đứng dậy và ăn một bữa ăn toàn nồi và một ly nước. Qua suối vàng, tôi xuống tắm, thân hình bỗng vàng óng và cao lớn hơn. Tôi cưỡi voi đến một con suối và nhìn thấy tiếng khóc trong túp lều. Từ đây giống chuyện diệt mãng xà (số 148): Ta vào xem mỹ nữ. Hỏi ra mới biết, cứ bảy năm người dân vùng đó phải cho yêu tinh một cô gái xinh đẹp, nếu không nó sẽ bỏ nước mà chết. Sau khi chém chết con yêu tinh, anh ta chia tay cô gái, để lại bao kiếm và một chiếc khố mà con yêu tinh đã cắt bỏ. Cha của cô gái yêu cầu các chàng trai đóng khố và cầm kiếm, đồng thời hứa sẽ gả cô cho ai xứng đáng với cô. Tất nhiên, không ai ngoài tay đập, nhưng tôi đã bị mắc kẹt trên cầu bởi sự ghen tị của những người giàu có, khiến con voi rơi xuống, và tay đập rơi xuống nước và chết. Thi thể của cô được cô gái chôn cất, sau đó con chó của bố mẹ nuôi đến đào lên, liếm và khiến nó sống lại. Tôi lấy thanh gươm của mình để trừng phạt lòng tham và cái ác.
Một câu chuyện khác về kẻ mộng mơ, hai anh em porang và dang, là một phiên bản của câu chuyện vừa kể:
Ngày xửa ngày xưa, hai anh em sống chung dưới một mái nhà, anh yêu em nhưng vợ anh thì ngược lại. Một hôm, trong lúc đi săn với tiếng chó sủa, anh ta nhặt một hòn đá lạ ném vào con trâu, hòn đá đâm vào bụng trâu. Chị dâu tôi ghét tôi và xúi giục chồng giết chị ấy. Chồng tôi gửi tôi đến nhà một người bạn và nói dối rằng đã giết tôi. Nhưng khi người vợ biết chồng mình là một con lừa, cô ấy đã bắt anh ta giết cô ấy cho đến khi cô ấy có thể. Cuối cùng, chồng cô phải làm một cái trống, bỏ cô vào đó cùng với thức ăn rồi thả cô trôi theo dòng nước. Tiếng trống trôi về nơi có một vợ chồng ông già không con cái đang tần tảo nuôi con. Một hôm hai vợ chồng ra về, dặn Đăng không được đụng vào thùng nước ở góc phòng, Đăng tò mò thò tay vào, tự nhiên cánh tay chuyển sang màu vàng, càng xoa càng vàng. Ông già thờ thần rồng trong làng cứ 7 năm phải tế một mạng người, 500 con trâu, 500 con bò, 500 lồng gà vịt. Năm đó, đến lượt con gái của Đức vua là Niamp qua đời. Để thần jeah nhớ đến vị thần đã rèn gươm từ đá của mình. Sau khi rèn xong, anh ta cố gắng cắt nó, và thanh kiếm bị gãy. Luyện rèn cũng vậy, nhưng sau khi thành công, một nhát gãy cây, một đao chém đứt nước, cá chết đầy sông. Với thanh kiếm, lượng máu của rồng tự nhiên tăng gấp đôi. Một người ăn bát cơm tám lạng, bát tám lạng thịt, bát tám thìa ớt, tám thìa cà tím. Với một cú đánh, anh ta lật đổ ngôi nhà và mái nhà rơi xuống đất. Hãy quay lại và giết con rồng để cứu neang pu. Nhưng khi xong việc, anh ta về nhà, đặt tro cốt của mình trong bếp, và trốn tránh bất cứ ai (tình tiết này giống như phiên bản phương Tây). Nhưng vì để quên bao kiếm nên sau này nhà vua đã tìm thấy. Đoạn sau, xin xem Truyện số 26, quyển i.
Chuyện người ja-rai (djarai):
Có một cặp vợ chồng bị chúa làng săn lùng, gặp được một nàng tiên, được nàng tiên làm giàu, sinh được một cậu con trai tên là y ban và nuôi một người con nuôi tên yyxi. Chủ làng tìm chỗ giết chồng rồi bán vợ cho người khác. Anh ta chạy đến một nơi trên lưng và nhận nuôi một gia đình khác. Tôi ăn sáu đĩa thức ăn một lúc và ngủ sáu ngày sáu đêm liên tục. Khi đứng dậy vươn vai, người em tự nhiên cao như cây đa trước sân. Tôi nhấn con quay hồi chuyển một lần và nó bị gãy, và tôi nhấn lại lần nữa và nó bị gãy. Tôi phải mua những cuộn sắt với giá bằng hai con trâu và ba chòi lúa, và tôi phải dùng voi để gửi các con về. Tôi tập múa khiên: Khiên gãy, dao gãy. Tôi chặt một cây cổ thụ bảy người ôm không xuể để làm lá chắn (không nói đến cái búa). Hãy đi đánh nhau, không ai chịu thua tôi. Sau khi tìm thấy mẹ, tôi quyết định trả thù cho cha mình. Hắn được sai đi rít tìm đường đến thôn chủ, mất bảy ngày đêm mới đến nơi, nhưng bị thôn chủ đuổi chạy trở về dẫn đường. Khi đến nơi, anh ta chỉ đưa một cái búa và cánh cửa đã bị phá vỡ, giết chết chủ làng và sáu anh em của anh ta. Rồi anh cưới cô thôn nữ.
Cosquins trong truyện Ấn Độ và phương Tây, khi kể chuyện bếp tro hay Lọ Lem (nữ) là nói đến một loạt truyện mà ông gọi là cendrillon masculin, trong đó nhân vật là nam thường ngủ trong đống tro như một đứa trẻ, Nhưng khỏe mạnh, ăn ngoan (và có khi còn ngủ ngon) với một cây gậy sắt (hoặc chùy, hoặc giáo) nặng nề; đã làm nên bao điều kỳ diệu. Đây là một số:
Câu chuyện Phật giáo:
lu-i đã hai tuổi rồi mà vẫn chưa dậy được. Cha mẹ thường nói: – “Dậy đi con!”. Người giúp việc: – “Em dậy thì anh đưa áo cộc và quần đùi cho em”. Tám tuổi, mười hai tuổi, Ray vẫn nằm trên giường vì không mặc gì. Cha mẹ tôi nói với tôi và tôi vẫn trả lời cùng một câu hỏi. Năm mười lăm tuổi, cha mẹ anh đã may ba mươi sáu mảnh vải mà họ tìm được thành quần áo. Vì vậy, anh ta đứng dậy và đi làm với một người nông dân với điều kiện anh ta được cho ăn một đống bánh ngọt và một thùng rượu mỗi ngày. Công việc của tôi mạnh gấp mười lần những đầy tớ khác.
Một câu chuyện khác từ Haute-bretagne kể về một đứa trẻ thường xuyên ra khỏi giường, nhưng mẹ nó để nó chơi cho đến năm 14 tuổi rồi bắt nó đi làm. Tôi đi rèn một chiếc “đũa nhỏ” nặng 700 cân, rồi nhặt nó lên như cầm một chiếc lông vũ đi vòng quanh thế giới. Đoạn cuối tương tự như truyện Người cầm gấu (xem Truyện Thạch Sinh, quyển 68, quyển 2).
Câu chuyện về người Ireland (irlande):
Một góa phụ nghèo không có quần áo cho con nên bà đặt chúng trong đống tro gần bếp và phủ tro nóng lên chúng. Con càng lớn tro càng nhiều. Năm tôi mười chín tuổi, mẹ lấy một tấm da dê quấn vào lưng tôi, bảo tôi ra ngoài làm việc kiếm sống. Bạn có sức mạnh to lớn, thực hiện nhiều cuộc thám hiểm và có được công chúa.
Câu chuyện Đức:
Ngọc quý, thằng sắt – tên bé – vì ăn quá nhiều mà bố mẹ không kham nổi. Cha mẹ tôi bảo tôi đến sống với một linh mục và rèn một cây gậy sắt. Cô ấy ăn tối nhiều bằng mười hai người hầu, và ăn trưa nhiều bằng người giúp việc và người hầu, nhưng lại làm việc gấp mười lần. Cuối cùng, để đuổi cô đi, ông chủ đã cử cô đi tìm con gái bị quỷ bắt, và hứa thưởng cho cô một túi tiền nặng. Tôi cầm roi đến cổng địa ngục và gõ ầm ĩ. Con quỷ trốn thoát. Tôi phá cửa đưa cô gái về và đòi tiền công. Tôi gói tất cả đồ đạc của chủ nhân vào một cái túi không nặng. Sau khi mang nó về cho bố mẹ, tôi đã đi khắp thế giới.
Câu chuyện Thổ Nhĩ Kỳ:
Trẻ sơ sinh thường nằm trong đống tro bếp. Một ngày nọ, em gái và hai anh trai của tôi bị một con quỷ ba đầu nuốt chửng. Tôi đứng dậy để tro bụi rơi xuống, bỗng một cơn bão lớn nổi lên khiến nhiều nông dân đang cày phải bỏ cày chạy về nhà ẩn náu. Tôi lấy tất cả lưỡi cày của họ và mang đến cho một người thợ rèn, người đã nhờ tôi rèn một cây giáo. Chỉ là trường thương phóng lên không trung, lại không có rơi xuống, đụng phải ngón tay út, trường thương liền gãy. Sau đó, cô lắc mình mạnh hơn trước, và một cơn bão lớn hơn lại ập đến. Người ta ném cày đi giấu, tôi đem cày đúc lại nhưng súng vẫn gẫy. Lần thứ ba anh ta cũng làm như vậy, và lần này cây giáo làm từ những chiếc lưỡi cày còn lại nảy lên nảy xuống mà không bị gãy. Tôi lập tức lấy nó để cứu em gái và hai anh trai của tôi. Đoạn cuối giống như câu chuyện về chú gấu Pháp.
Câu chuyện Nga:
Cái ghế sofa là một thứ ngu ngốc. Trong mười hai năm, anh ta ngủ trong đống tro tàn của lò sưởi, vì vậy họ gọi anh ta là cậu bé màu xám (popiaob). Sau đó, cô ấy đứng dậy, lắc mình và rắc sáu lít tro. Nay có con rắn ngăn mặt trời mọc, đêm tối không ngự trị được. Ivan nhờ cha rèn một cây chùy sắt năm mũi. Sau khi chiếc búa được rèn xong, tôi ném nó lên không trung và nó đập vào trán tôi và chiếc gậy bị gãy. Yêu cầu rèn gậy thêm mười phút nữa nhưng khi nó đáp xuống lòng tôi thì nó gãy. Mười lăm phút thứ ba, rơi trúng trán, móp trán. Ivan đã dùng nó để đánh con rắn.
Trong câu chuyện về người Slav ở Bosnia, có một em bé tên là Pepper. Sau cái chết của hai người con trai, cha mẹ cô đã cầu xin một đứa con khác và sau đó sinh ra một đứa trẻ có kích thước bằng một quả ớt. Nhưng cô ấy có sức khỏe tốt, và thường mang theo một chiếc chùy sắt lớn như một chiếc lông vũ.
Câu chuyện về người Berber ở Algeria:
Một chàng trai có sức khỏe phi thường nhưng rất hung dữ. Người dân địa phương cầu xin nhà vua loại bỏ nó. Nhà vua định lừa anh ta đến nhà một người phụ nữ không thể ăn thịt người và mượn tay để cứu cô ấy, nói: “Em gái của bạn đang ở trong tay cô ấy.” Chàng thanh niên đến thợ rèn xin rèn một cây gậy sắt. Người thợ rèn đã rèn một thanh sắt nặng mười cân. Như trong câu chuyện trên, anh ta ném cây gậy lên không trung và nó rơi trúng cánh tay anh ta, làm gãy nó. Anh ta lấy cây gậy còn lại đánh người thợ rèn gãy lưng. Một thợ thủ công khác được yêu cầu rèn một cây gậy nặng 20 pound. Cố gắng không làm gián đoạn thời gian này. Anh cầm một cây gậy nhẹ như lông hồng, xông lên đánh chị không chịu buông tha.
câu chuyện của Breedin (brésil):
Một vị vua nọ có một người con trai sinh ra cao lớn và khỏe mạnh khác thường. Trong vòng mười ngày, nó ăn hết cả con bò. Nhà vua sợ hãi đến mức gọi cố vấn của mình đến để hỏi câu hỏi tiếp theo. Vị cố vấn bảo nhà vua sai con trai mình đi tìm thức ăn ở nơi khác. Hoàng tử sẵn sàng đi, nhưng đã rèn một thanh sắt nặng, một cái búa tạ và một cái hái. Chà, tất cả đã kết thúc. Kết thúc giống như câu chuyện của Bearman Pháp (tường thuật).
Người Ba Tư (Iran) cũng có những câu chuyện tương tự như truyện gấu con của người Ả Rập, nhưng ở đây cha tôi là một hoàng tử bị một con gấu cái bắt về làm chồng. Khi cô ba tuổi, cô đã nghe cha mình kể chuyện, lật một tảng đá nặng để đưa ông ra khỏi nhà tù, và giết ông trong cuộc truy đuổi. Nhà vua – ông tôi – quá đáng sợ đối với tôi ở giữa hư không. Khi tôi lên sáu: tôi yêu cầu được ra trận, nếu không tôi sẽ phá hủy tất cả những ngôi nhà ở đó. Nhà vua sai tôi đến hồ Sinai để kiếm củi, với ý định bị thú dữ ăn thịt, nhưng tôi đã gọi tất cả thú rừng và chim chóc đến kiếm củi cho tôi và mang về. Vua để tôi ở kinh năm năm, rồi xin đánh lại, nếu không sẽ phá cả kinh thành. Nhà vua cử tôi đi chiếm lại thành phố Simken đã chiếm được trước đó. Khi được hỏi cần bao nhiêu quân, anh ta chỉ yêu cầu một thanh kiếm Yuren 70.000 và một cây búa ngắn 16.000. Nhà vua ra lệnh rèn tất cả sắt trong nước, mất bốn mươi ngày mới xong. Một khi thanh kiếm được rèn ra, cả một đội quân không thể nâng nó lên. Tôi chỉ cầm một tay và đặt lên lưng. Khi tôi đến đó, một người trong số tôi hét lên: 40.000 người chết, người thứ hai hét lên: 30.000 và người thứ ba: 1.000. Vì vậy, chiến thắng. Tôi đi kêu gọi những người nghèo trong xóm đến ở. Trong các đoạn dưới đây, xem Điều tra số 88, Tập hai.
Trong câu chuyện của người Xéc-bi-a, đứa bé được người mẹ cho bú ba lần trong bảy năm. Sau đó, cô vươn vai, đứng dậy và trở thành một người to lớn, và nhổ một “con sên” già. Không những thế, tôi còn lật ngược cây để rễ hướng lên trời. Trong truyện Nhật Bản cũng có một em bé mạnh mẽ tên là Kintaro cưỡi ngựa, cầm gươm giết giặc.
Trong câu chuyện của géorgie, đứa bé tên là kakiia bị cắt xẻo (lấy tro như một con chó) không chỉ có sức khỏe mà còn có một kế hoạch. Tôi thường ngồi trong bếp và đào một cái hố trong đống tro bếp để nằm. Bố mẹ tôi đau khổ một thời gian dài rồi đuổi tôi ra khỏi nhà. Du lịch thế giới và gặp gỡ những người khổng lồ. Khi thấy nó vắt đá thành nước, bà nói: “Được lắm, đá nào tôi cũng nghiền được”. Sau đó, anh ta lấy một cục tro từ thắt lưng và ném chúng khắp nơi. Người khổng lồ bị mù bởi tro bụi, và cú sốc của anh ta vẫn chưa dừng lại.
Trong dân gian có hai câu chuyện, hình tượng tương đối xa lạ, một anh hùng hài nhi sinh ra với thanh gươm thần:
1) Một vị vua nọ có hai đứa con nhát gan nên cầu xin thánh Allah ban cho ông một đứa con trai dũng cảm, không ai có thể thắng được ngoại trừ người cao nhất. Một bà tiên xuất hiện trước nhà vua, tiên tri rằng ông sẽ có một đứa con trai dũng cảm và trao cho cậu một thanh kiếm. Thái hậu sinh ra một đứa trẻ với thanh kiếm trên lưng và đặt tên cho nó là Buzibu (đứa trẻ có thanh kiếm). Em bé lớn nhanh. Nhà vua định rút gươm, nhưng gươm bay ra múa, rồi quay trở lại lưng đứa trẻ. Khi tôi lớn lên, cha tôi qua đời, và tôi săn được nhiều thịt như mười người thợ săn cộng lại. Sau này cưỡi lừa du ngoạn, gặp được anh hùng đủ mọi tầng lớp, đều thể hiện tài năng, lập nên bao kỳ tích.
2) Một vị vua kết hôn với một nô lệ da đen và có một đứa con với thanh kiếm còn trong vỏ. Nhà vua bắt bà mụ giấu anh ta trong phòng và cấm anh ta đi bất cứ đâu hoặc giao tiếp với người ngoài. Khi tôi lớn lên, vua sai thầy đến dạy tôi đọc. Một hôm nhà vua cho phép tôi lên lầu vào phòng sau. Tôi bắt đầu nhìn thấy mọi người và mọi thứ và tôi yêu cầu được ra ngoài. Nhà vua không cho phép. Tôi đấm xuyên qua tường. Với tôi là con ngựa thần không ai dám lại gần và không bao giờ ra khỏi chuồng. Nhà vua ra lệnh làm móng tay bằng vàng và bạc. Tôi cưỡi ngựa ra ngoài. Một bà già bảo tôi đi tìm mặt trời của mặt trời. Tôi nói với mẹ tôi chuẩn bị bữa ăn và rời đi, và thực hiện nhiều phép lạ.
[1] Theo desparmet. Truyện cổ tích Moro trên Tạp chí Dân tộc học và Truyền thống dân gian (1921).