Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện nhặt vợ

Hướng dẫn

Đề bài: Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Vợ tôi tìm được” của Kim Nhân.

***

Phân tích giá trị nhân đạo của người vợ

Năm 1945 đã trở thành một dấu ấn lịch sử không thể phai mờ đối với mỗi người Việt Nam, thời đại đó không chỉ đánh dấu một thiên niên kỷ vẻ vang của dân tộc Việt Nam chiến thắng chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa thực dân và lật đổ chế độ CSVN. Làm cho nước ta trở thành một nước tự do và dân chủ. Đó cũng là thời khắc ghi lại những đau thương, mất mát của dân tộc ta dưới họa xâm lược. Sự bóc lột dã man của thực dân phát xít và phong kiến ​​tay sai đã làm hơn hai triệu đồng bào chết đói. Trong trường hợp đó, nhà văn Kim Lân đã tạo ra tình huống tìm được vợ. Tình cảnh ấy không chỉ là lời tố cáo tội ác của bọn bóc lột mà còn là sự đồng cảm với nỗi khổ của con người, là niềm tin ở con người: “Dù cuộc đời có đau khổ đến đâu, thì con người vẫn là con người, vẫn quan tâm đến nhau, đùm bọc lẫn nhau mà vẫn không khát khao hạnh phúc, vẫn hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn.” Đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm này.

Trước hết chúng ta phải hiểu giá trị nhân văn là giá trị cơ bản của một tác phẩm văn học cao cả, ra đời từ tình yêu thương con người, sự cảm thông sâu sắc trước những đau khổ của con người, trân trọng và đề cao vẻ đẹp của con người chứ không chỉ tin vào vẻ đẹp của nó. sắc đẹp, vẻ đẹp. khả năng vươn lên.

Tác phẩm “Vợ Nhặt” thể hiện niềm xót thương trước những mảnh đời cơ cực của người dân nghèo trong nạn đói. Nạn đói đã được ví như lũ lụt tàn khốc. Đường phố đìu hiu, “quỷ đói như ma”, “không khí còn nồng nặc mùi ẩm mốc của rác rưởi và mùi xác chết nồng nặc”, đặc biệt là tiếng quạ kêu thê lương. Bằng hình ảnh thảm khốc của nạn đói, tác giả đã tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít và bọn phong kiến ​​tay sai. Chúng đã đẩy con người đến bước đường cùng và khiến bao người phải chết đói..

Tác phẩm còn khai thác sâu sắc, nâng niu, trân trọng khát vọng sống và hạnh phúc của con người. Colon luôn khao khát hạnh phúc Đằng sau hình ảnh một người đàn ông thô kệch chỉ biết làm việc, còn có một người đàn ông cũng khao khát tình yêu. Trong trường hợp xe gạo, ông cũng nói đùa để cuộc sống thú vị hơn, đùa rằng ai đẩy xe gạo với ông sẽ đãi ông một bữa xôi chả giò. Anh cho rằng cô nói đùa cho thêm dầu vào lửa, ăn xong hai miếng bánh, người phụ nữ quay về làm vợ anh. Anh ta cũng nghĩ đến việc liệu mình có thể vượt qua cơn đói khủng khiếp và cưới một người vợ khác hay không, nhưng anh ta “chậc chậc”. Niềm khao khát hạnh phúc của anh đã vượt qua sự khao khát cái chết cận kề. Trên đường về, khuôn mặt anh vui vẻ lạ thường. Kim Yoon Ri đã đẩy mạch truyện lên cao trào khi miêu tả sự bất ngờ của khán giả. Bản thân anh cũng không ngờ cưới vợ lại dễ dàng như vậy, bốn bát bánh trở thành vợ chồng. Vì vậy, khi đưa vợ về nhà, anh vô cùng ngạc nhiên khi thấy vợ đứng giữa phòng. Đến bây giờ anh vẫn còn thắc mắc “Vậy là nó đã có vợ rồi…”. Sáng sớm hôm sau, anh thấy nhà cửa đã được vợ anh dọn dẹp sạch sẽ. Anh ngạc nhiên vì mình đã có vợ, và anh vẫn còn ngạc nhiên cho đến ngày nay. Điều này còn được thể hiện ở ý thức sống bền bỉ rất mạnh mẽ thể hiện ở nhân vật nhặt được vợ. Không có người đàn ông xa lạ đó làm vợ, cô ấy chỉ chấp nhận một lời nhận xét tầm thường, và cô ấy coi thường ý thức về danh dự và nhân phẩm của mình.

Không chỉ vậy, Kim Uni còn đào sâu vào cảm nhận của mỗi nhân vật về cuộc sống gia đình. Với Colon, anh hiểu trách nhiệm và nghĩa vụ của mình với hai người phụ nữ trong gia đình. Nhưng ngày hôm sau, tính tình nó hoàn toàn thay đổi thành hiền lành, dịu dàng đúng mực “Hôm nay nhà cửa ruộng vườn được quét dọn sạch sẽ, tươm tất. Một số giẻ rách như tổ đỉa còn đang vắt. Mười tuổi đã thấy trong xó Đã mang ra vào trong sân. Hai cái bể còn để khô dưới gốc ổi chứa đầy nước. Một đống đất mùn rải khắp lối đi hát sạch sẽ. “Đây là quang cảnh thị trấn và ngôi nhà vào sáng hôm sau thay đổi đáng kinh ngạc. Bà lão càng thêm tự tin hoạch định tương lai cho lũ trẻ, nuôi gà cảnh răn dạy con rằng nếu ba đời phú quý, hoạn nạn thì được ăn nên làm ra, con cháu sau này sẽ sung sướng. Cuối cùng, có lẽ tình thương của bà dành cho con trai và con dâu được thể hiện rõ nhất qua hình ảnh bát cháo cám. Thấy vậy, người mẹ già không còn việc gì để làm, bà chạy xuống bếp ăn một cách vui vẻ với nồi cháo cám.

Con kỳ lân vàng thắp lên cho gia đình bà lão niềm tin và hy vọng đổi mới. Trong bóng tối đau thương, tấm lòng cao đẹp của người mẹ vẫn tỏa sáng. Dẫu biết lấy chồng không phải là chuyện nên làm trong thời buổi đói khát như vậy nhưng bà cụ vẫn sẵn sàng chấp nhận “thôi thì phải có duyên thì sống với nhau mới hạnh phúc”. Kim Lan đã khéo léo tìm ra câu đối dành cho người mẹ già đau khổ, ẩn chứa sự từng trải của người xưa, lòng bao dung của người mẹ và quan niệm đẹp của người Việt Nam: “Dù cực khổ hay cực khổ, người ta vẫn luôn đón nhận và kính trọng”. Để rồi khi nhìn lại người vợ nhặt được mình không còn là người xa lạ mà là người thân: “Bà già thương hại nhìn người đàn bà này, nay lại là con dâu”. ở nhà”. Trái tim người mẹ rộng mở, chào đón một người phụ nữ xa lạ, coi cô ấy như con, như người thân, như con dâu. Cô ấy cũng gieo niềm tin và hy vọng cho những đứa con: “Sao con biết? Ai giàu ba đời, ai khó ba đời. Nếu nó mà ra thì sau này con cái nó cũng thế…” Bà an ủi con dâu: “Con có làm được vài món nhưng nhà mình nghèo, lúc này không ai nhận đâu. Tôi rất vui vì các bạn rất hợp nhau. Anh rất tiếc năm nay em cưới vợ rồi. “Lời nói bao dung độ lượng của mẹ đã xoa dịu nỗi tủi nhục của người vợ. Chỉ một câu này thôi cũng đủ khiến người phụ nữ nào về nhà ngẩng cao đầu bước vào nhà làm vợ, làm dâu.

Trong các tác phẩm như “Con ruồi phù du”, “Lão Hạc”, nhân vật chính nếu muốn giữ được phẩm giá của mình thì phải chết, cái chết tuy đau đớn nhưng khiến lòng họ thanh thản hơn. Hay cô gà trống trong Bắp ngô “Tắt đèn” bần cùng vì sưu cao thuế nặng phải bán sữa cho một cụ già 80 tuổi và cuối cùng phải chạy vào bóng tối, bị vùi dập… trước đây lối thoát.

Hơn thế, Kim Yoni còn thể hiện niềm tin sâu sắc vào phẩm giá và lòng nhân ái của con người. Nhân vật của Tràng chỉ là một người làm thuê nhỏ để nuôi mẹ nhưng sẵn sàng chi bốn bát bánh cho một người phụ nữ xa lạ. Anh hào phóng, rộng lượng, rất ân cần với mẹ già. Anh sống có trách nhiệm. Tín ngưỡng này còn thể hiện ở sự đón nhận và biến hóa của người vợ sau khi vào nhà. Nếu trước đây người phụ nữ này đỏng đảnh, cong cong thì bây giờ cô ấy dịu dàng, nền nã và nhã nhặn. Lần đầu tiên nhìn thấy một bà già, tôi ngượng ngùng chào bà. Sáng hôm sau, tôi đang dọn dẹp nhà cửa. Nhất là vào bữa sáng, tuy là bát cháo cám nhưng bà khẽ nheo mắt bỏ vào miệng, vì bà không bỏ lỡ niềm vui của người mẹ già đáng thương ấy. Lẽ ra, sự thể hiện sâu sắc niềm tin sống phải qua bà cụ. Bà hết lòng yêu thương con cháu, cũng thông cảm cho hoàn cảnh của cô con dâu. Không chỉ vậy, bà còn băn khoăn không biết con trai và con dâu của mình sẽ ra sao trong vài tháng tới. Nhưng vượt lên hoàn cảnh trước mắt, chị luôn tạo niềm vui trong gia đình qua những góp ý của mình.

King Uni xem xét cuộc sống của người dân sau Cách mạng Tháng Tám bằng một con mắt mới, và vẽ nên một bức tranh chân thực về nạn đói và cái chết bi thảm trong những năm này. Qua đó thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm. Từ đó có thể thấy được chiều sâu so với các tác phẩm văn học hiện thực trước đó.

Một số bài văn mẫu hay về giá trị nhân đạo của người vợ

Ví dụ 1:

Tác phẩm “Nhặt vợ” của Kim Dư sử dụng một tình huống truyện độc đáo – tình huống nhặt vợ, mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác giả cho ta thấy cuộc sống tăm tối của nhân dân lao động và những khát khao cháy bỏng của họ trong nạn đói lịch sử năm 1945. Giá trị nhân đạo là cái tạo nên thành công của văn học chân chính. Nó được tạo nên bởi sự đồng cảm sâu sắc của tác giả đối với các nhân vật của mình. Nông dân nghèo sống trong nghèo khổ.

Tác phẩm thể hiện rõ nét cảm xúc bi thương của kiếp người trong nạn đói lớn gây ra cái chết của hai triệu người trong lịch sử. Qua đó, tác giả muốn tố cáo tội ác của thực dân Pháp đã gây ra nạn đói và làm cho nhân dân ta khốn khổ. Câu chuyện lấy bối cảnh tại một khu phố nơi mọi người từ khắp nơi trên thế giới đã tập hợp lại trong một cộng đồng mới, sống trong cảnh nghèo đói cùng cực và những ngôi nhà đổ nát. Trên đường về thôn, ánh sáng vô cùng mờ mịt, người bò lổm ngổm trông như bóng ma. Xác người chết chưa chôn nằm la liệt dưới đất, bên cạnh là người sống không nơi nương tựa, mùi xác thối bốc lên, rồi bầy quạ bay đến kêu gào. Bên cạnh đó là tiếng trống thuế, những đứa trẻ ngồi bất động ở các góc phố, vì đói và vì mệt, không còn sức để nô đùa, chạy nhảy.

Trong xuất thân bần hàn ấy, một người xấu xí như nhân vật, mắt hí, cằm lẹm, nét mặt thô kệch, làm nghề phu xe kéo, cuộc đời góa bụa bần hàn. Giá trị nhân đạo của truyện ngắn còn thể hiện ở niềm tin sâu sắc mà các nhân vật trong tác phẩm tin vào tương lai và sự đổi đời. Nhân vật chính có bề ngoài xấu xí nhưng trong lòng ẩn chứa sự đồng cảm và yêu thương người khác, biết bảo vệ và giúp đỡ người khác trong lúc hoạn nạn.

Nghèo khó nghèo vẫn hào phóng đãi chị bốn bát bánh ngọt, rồi lần sau gặp chị, chị còn để ý thấy người phụ nữ này có vẻ gầy hơn một chút, quần áo xộc xệch, lưng địu con . Có lẽ chính từ lúc đó, trong lòng bà cảm thấy tủi thân, muốn có một người phụ nữ khác để cùng nương tựa, cùng nhau cố gắng vượt qua cơn đói rét này. Tính nhân bản trong đàn tràng của con người là như vậy. Nạn đói hoành hành, người chết như củi, thêm một người được thêm miếng ăn nhưng Đại Xương vẫn sẵn sàng cõng cô về nhà chung sống.

Mẹ của ông già cũng là một người chu đáo. Cô ấy yêu tôi rất nhiều. Bà cụ xuất hiện, dáng già lưng còng, mắt mờ, nhìn từ xa thấy trong nhà có một người đàn bà, cứ ngỡ bà như con gà. Nhưng khi đến gần nhà, thấy một người phụ nữ khác chào bạn, rồi nghe ông cụ giới thiệu “đây là nhà tôi”, bà cụ không còn nghi ngờ gì nữa. Bà chạnh lòng cho số phận của mình và con trai, họ lấy nhau lúc sung túc, còn tôi lấy chồng khi nghèo khó. Nhưng rồi chị lại vui vẻ ôm trong mình suy nghĩ rất tích cực “Cứ khó khăn thế này thì người ta lấy con, mà con thì chỉ có vợ thôi”. Bà già nhìn thấy mọi thứ rõ ràng và chắc chắn. Ông lão tìm được vợ trong nạn đói, bà mừng nhiều hơn buồn.

Chính người mẹ nghèo này là người luôn tạo không khí vui vẻ cho gia đình, để con trai và con dâu được vui vẻ, chăm chỉ làm lụng để vượt qua giai đoạn nghèo khó này. Người mẹ già đáng thương luôn động viên con trai và con dâu. Không ai giàu sang, không ai ba đời lận đận, hãy cố gắng làm việc, biết đâu ơn trời thương xót, họ sẽ không sao cả. Sáng hôm sau, sau đám cưới, nhà cửa đã được sửa sang lại, vườn tược đã sạch cỏ dại, tuy còn nhiều cảnh nghèo khó đơn sơ nhưng mọi thứ đều đúng chất gia đình. Nhưng nó vẫn cho thấy đây là một gia đình, đầm ấm và ấm cúng. Trong bữa cơm gia đình, người đọc sẽ không thể nào quên hình ảnh nồi cháo cám, nhưng trong đĩa cơm giản dị ấy, mọi người đang nói về tương lai và những điều hạnh phúc. Họ cùng nhau hướng tới một cuộc sống mới.

Giá trị nhân đạo của tác phẩm khiến người ta tin yêu những người lao động nghèo khổ, khốn khổ. Đó là bản năng sống, là khát vọng hạnh phúc của mỗi con người. Nó thể hiện sự đồng cảm, nhân văn của nhà văn Kim Lan đối với những người nông dân và những nhân vật của họ.

Ví dụ 2:

“The Wife You Found” là một truyện ngắn đặc sắc của Kim Uniney. Câu chuyện kể về một người đàn ông nghèo sống trong khu phố đã tìm thấy vợ mình trong nạn đói khủng khiếp khi mọi người chết vì đói.

Truyện ngắn phản ánh nỗi khổ của người nghèo và khát vọng sống hạnh phúc của họ, từ đó nói lên số phận của những con người trong xã hội cũ trước thềm cách mạng bùng nổ. Giá trị lớn nhất của truyện Vợ nhặt nằm ở giá trị nhân văn của nó.

Cho đến nay, trong nền văn học Việt Nam hiện đại, chưa có tác phẩm nào miêu tả nạn đói năm Ất Dậu 1945 hay và xúc động như truyện ngắn Chuyện Nhặt Vợ của Kim Rân. Truyện tràn đầy cảm hứng nhân văn từ đầu đến cuối.

Truyện “nhặt vợ” phản ánh nỗi khổ cùng cực của nhân dân ta và những người nghèo khổ trong năm con dậu. Đám đông người từ các tỉnh phía nam tỉnh Định và Thái Bình hỗ trợ nhau thành từng nhóm, và “tro xám như bóng ma” nằm rải rác khắp nơi trong các lều chợ. Quạ đậu trên ngọn cây và bay vút lên trời “như đám mây đen”. Mùi xác chết phảng phất gần đó. Mọi người đang chết đói. Sáng nào cũng có ba bốn cái xác nằm bên vệ đường!

Đói đói không cô đơn! Hai mẹ con căn nhà “chỗ trống” trong khu vườn cây cối um tùm. Bức bình phong nhà rách nát. Xoong nồi, quần áo vứt bừa bãi trên giường, bừa bãi dưới sàn nhà. Tài sản ra đi khiến cô dâu mới phải thở dài thất vọng. “Bà già” nét mặt đượm buồn Ông già “bước đi mỏi” và cái đầu “trơn tru nghiêng về phía trước” Trước kho hàng trên tỉnh “ngồi” vài cô Đặc biệt là vai trò “chợ búa”, Cái đói cướp đi tất cả. Không tên, không tuổi, không gia đình, không anh em. Không quê hương. Hình ảnh tội nghiệp, tội nghiệp. Quần áo “tơi tả như tổ đỉa”. Cô “gầy gò xương xẩu” với khuôn mặt lưỡi cày “xám” và chỉ có hai đôi mắt có thể được nhìn thấy. Con đường phía trước của thị trấn là một vực thẳm, và đó là cái đói. Cái đói đã cướp đi mọi thứ của cô. Nghe nói phi hành đoàn nói “bạn có thể ăn bất cứ thứ gì bạn muốn.” Khi anh vỗ túi để khoe “cha và con trai”, đôi mắt “sưng húp” của bà bỗng “sáng lên”. Tình cảnh ăn một lúc một bốn bát bánh có vẻ mất lịch sự, ngược lại bà rất đáng thương. Bà đói, bà đã nhịn ăn nhiều ngày, cô ấy cần ăn, cô ấy cần sống.Khi nói về thị trấn và sự đói khát của người nghèo, Jinlan rất tốt bụng.

Xóm chúng tôi sống trong buổi chiều “càng dột nát càng tốt”, nhà “chiêu muội”, mặt mũi “đen xì hốc hác”. Bữa cơm đón dâu của bà cụ là một nồi cháo cám. Những cô gái trong Nạn đói giống như đồ dùng một lần, có thể “nhặt” được. Khi lấy chồng, cô không trầu cau, không lá trầu, không “quýt tháng tám, quýt năm cưới, trầu cau qua nhà”. Đến khi về nhà chồng, đứng trước mặt mẹ chồng, cô con dâu mới “câm nín” và “cúi đầu sờ sờ áo tơi tả”. Đêm tân hôn, tiếng “hét” của người nhà mới bị bỏ đói nghe chói tai, đau đớn. Sáng sớm, những tiếng “vội, vội” vang vọng cùng tiếng trống thuế. Bằng những chi tiết rất chân thực, kim ngưu điển hình thể hiện sự đồng cảm, lo lắng cho số phận của những người dân nghèo trước cảnh khổ cực, nạn đói hoành hành. Điều đáng quý hơn nữa là Người đã đứng về phía nhân dân và dân nghèo, vạch trần tội ác của Nhật Pháp, bắt chúng phải nhổ lúa vàng, bắt chúng phải nộp thuế, bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy. và gây ra chiến tranh. Nạn đói năm Đinh Dậu đã làm hơn hai triệu đồng bào ta chết đói.

Truyện Tìm Vợ thể hiện tấm lòng trân trọng hạnh phúc của con người. Jin Lan kể hoàn cảnh đón vợ và hoàn cảnh của cô dâu mới cưới rất hóm hỉnh. Chỉ vài câu “lố bịch vô nghĩa” mà bộ ba ăn 4 bát bánh mà đã tìm được vợ! Đón được vợ, anh không còn cách nào khác đành phải đánh liều: “Ê, quên mất!”. Anh cảm thấy số gạo này còn khó nuôi sống bản thân, coi như “vượt qua”. Trên đường về nhà, khi vợ mới cưới xin được chỉ thị của mẹ già, anh ta mừng rỡ như mở cờ trong bụng. Kim Lân miêu tả ánh mắt và nụ cười của cậu con trai lém lỉnh, làm nổi bật niềm hạnh phúc của người vợ mới tìm được. “Phở lạ thường” tràng. Anh ấy “cười và cười.” Đôi mắt “phát sáng”. Đôi khi khuôn mặt anh như đang “đấu tranh với chính mình”.

Hình ảnh tràng và chợ đi cạnh nhau trông “ngầu”. Tràng khoe 20 xu tiền dầu, rồi cười phá lên và bị thị “tát vào mặt” một câu yêu thương: “kiểu khỉ”. Hạc ngửa cổ thổi tắt ngọn đèn nhỏ, bị cả chợ mắng: “Chỉ có cái này mới nhanh. Dơ!”. Những tập phim này là một ví dụ điển hình về tình yêu mạnh hơn cái chết như thế nào.

Cảnh mẹ chồng gặp con dâu mới thật cảm động. Vượt qua hủ tục cưới hỏi không mấy đĩa, lão phu nhân yêu lạ nữ nhi, lại chính mình đón nhận nàng dâu mới: “Chà, kiếp này ngươi có duyên phận, cùng ngươi cũng là hạnh phúc.” “. Tình yêu của cô ấy không có giới hạn, và cô ấy tin rằng” nếu mọi người phải đối mặt với bước đường khó khăn, đói khát này, họ chỉ có thể đưa con đi. Nhưng con trai mẹ chỉ được lấy một vợ mà thôi…’. Bà gọi cô dâu mới là ‘con’ với sự dịu dàng, trìu mến. Giờ các anh lấy nhau rồi, tiếc quá…”. Qua đây, chúng tôi càng hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa của cuộc sống. Đứng trước thiên tai, những người dân lao động nghèo nương tựa vào nhau, sẻ chia yêu thương, sẻ chia vật chất, vượt qua mọi thử thách , và tràn đầy niềm tin và Hy vọng hướng tới ngày mai: “Ai giàu ba đời, ai nghèo ba đời…”. Người đọc cảm nhận được ánh đèn “vàng đục” sáng trên mái lều trong đêm tân hôn là ánh sáng của hi vọng và hạnh phúc.

Món cháo cám của đôi vợ chồng mới cưới là chi tiết có giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất trong truyện “Cưới vợ”. Bà già gọi nó là “phô mai… ngon”. Bà hãnh diện nói với hai con: “Cả đồng chúng tôi còn không có cám”. Vừa ăn cháo cám, bà vừa kể đủ chuyện vui buồn trong tương lai. Khung cảnh gia đình mẹ con vô cùng “ấm cúng, hòa thuận” và hạnh phúc. Sau này hai vợ chồng con có thể ăn nhiều thịt cá lớn hơn nhưng họ sẽ không bao giờ quên món cháo cám sáng hôm ấy. Hương vị của cháo cám “đắng” nhưng ngọt ngào, chan chứa tình mẫu tử đậm đà. Jinlan sống rất gần gũi với những người dân quê, và anh ấy hiểu rất rõ tâm lý cũng như cảm xúc của họ. Ông để cho thế hệ mai sau biết được nỗi đắng cay của đời cha, được cảm nhận hương thơm của cuộc đời, và tình yêu thương từ tận đáy lòng của mẹ cha… mà món ăn nào sánh được?

Kim Lân đã dành những tình cảm đẹp đẽ và ấm áp nhất trước những đổi thay trong cuộc sống của người nông dân Việt Nam. Mừng vì anh có vợ, lũ trẻ tinh nghịch reo lên: “Chồng vui tính”. Với sự việc của người vợ, những người dân gần chợ cảm thấy “có cái gì đó mới mẻ thổi vào cuộc sống tối tăm đói khổ của họ”. Bà cụ vui mừng vì con trai đã cưới được vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm, sảng khoái và “rạng ngời”. Vợ anh trở thành một người phụ nữ “nhan sắc vừa phải”. Nó giống như bước ra khỏi một giấc mơ. Anh tỉnh dậy với cảm giác “bồng bềnh nhẹ nhàng”. Hạnh phúc đến bất ngờ. Một ngày một đêm sau anh ta có vợ nhưng anh ta vẫn “bỡ ngỡ”.

Sự thay đổi của cuộc sống còn được thể hiện qua cảnh vật. Mẹ và vợ dậy sớm quét dọn nhà cửa, sân vườn. Tiếng chổi quét hai thùng nước đầy ắp nước. Những đống mùn vương vãi khắp lối đi đã được dọn sạch. Mẹ chồng, con dâu mới, con trai, ai cũng muốn góp phần hàn gắn hạnh phúc gia đình. Họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến sự sống, hạnh phúc và sự đổi đời. Cảm thấy mình đã “làm đàn ông”, cảm thấy mình phải có trách nhiệm lo cho vợ con sau này!

Một chi tiết rất thú vị là sau khi nghe tiếng trống sưu thuế, chúng báo tin rằng ở man thái nguyên tỉnh Bắc Giang, dân trốn thuế, dân phá kho thóc của Nhật để cứu đói. Anh ấy nhìn thấy “một lá cờ đỏ tung bay” trong tâm trí mình. Một cuộc cách mạng đang đến. Nạn đói sẽ bị tiêu trừ. Hình ảnh lá cờ đỏ ở cuối truyện không chỉ làm nổi bật giá trị nhân văn mà còn tạo nên tiếng nói xung kích, lạc quan, báo trước ấm no, hạnh phúc của ngày mai.

Niềm hạnh phúc của ruột già và niềm vui của mẹ già tuy muộn màng nhưng thật đáng quý và đáng trân trọng! Xưa nay Đông Tây kim cổ có ai lấy được vợ chưa? Nạn đói do Nhật, Pháp gây ra đã cướp đi sinh mạng và nhân phẩm của tất cả mọi người. Một sự thật chắc chắn: khao khát tình yêu và hạnh phúc đối với cuộc sống mạnh mẽ hơn đối với cái chết. Vị ngọt ngào của cuộc sống và hơi ấm của tình người tỏa sáng giá trị nhân văn trong câu chuyện “nhặt vợ” mà chúng tôi trân trọng.

————————————————————————————-

» Để biết thêm thông tin:

Theo bailamvan.edu.vn

Kiểm tra tiếng Anh trực tuyến

Bạn đã biết trình độ tiếng Anh hiện tại của mình chưa?
Bắt đầu làm bài kiểm tra

Nhận tư vấn lộ trình từ ACET

Hãy để lại thông tin, tư vấn viên của ACET sẽ liên lạc với bạn trong thời gian sớm nhất.