5 bài viết phân tích hay nhất về hình tượng người nông dân anh hùng trong tác phẩm văn học liệt sĩ

Đề:Bài văn phân tích “Văn nhân phải kiên trung” nêu bật vẻ đẹp của hình tượng người nghĩa sĩ yêu nước.

Xem thêm: Khái quát và phân tích hình tượng anh hùng nghĩa sĩ nông dân trong văn học nhân nghĩa

Bài giảng: Văn nhân từ thiện cần học trò (phần 2: việc làm) – Cô thùy nhan (thầy vietjack)

Ví dụ 1

Ruan Tingzhao (1822-1888) là một chí sĩ yêu nước căm thù giặc. Cuộc đời của ông đã phải trải qua nhiều bi kịch, gian khổ và bất hạnh. Có lẽ vì thế mà hơn ai hết Người cảm nhận được nỗi đau mất nước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Năm 1859, quân Pháp xâm lược sông Binyi và chiếm đóng Jiading Castle, ông phải trở về quê vợ Qingba và cần nơi nương tựa tạm thời. Về phía thực dân Pháp, sau khi chiếm được đồn Gia Định, chúng bắt đầu mở rộng tiến công ra các vùng lân cận. Cần nhanh chóng bị quân xâm lược Pháp chiếm đóng. Những người nông dân trong trang phục thường dân, chân lấm tay bùn đã đứng lên đấu tranh. Họ gia nhập đội quân nổi dậy, sẵn sàng chết vì nghĩa lớn. Trong số đó, nhiều liệt sĩ đã anh dũng hy sinh. Những hy sinh này đã khơi dậy sự ngưỡng mộ lớn. Ngày 16 tháng 12 năm 1861, Đình Chiêu Dư Quang giao cho Nguyễn Đình Chao viết bài văn tế hơn 20 nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận đánh đêm và đọc trong lễ truy điệu. Với lòng ngưỡng mộ và niềm thương cảm vô bờ bến, Nguyễn Đình Chênh đã viết bài văn tưởng nhớ nhà từ thiện nghèo khó này. Sự hy sinh không chỉ thể hiện niềm tiếc thương vô hạn của tác giả và nhân dân đối với những người nghĩa sĩ mà còn khắc họa vẻ đẹp hiện thực, bi tráng và hào hùng của những người nông dân. Chiến tranh Vệ quốc Tây phương.

Chúa ơi!

Súng địch, tim lộ..

Khi đất nước lâm nguy, tiếng súng nổ ra khắp nơi. Chính trong sự khủng hoảng và đau đớn đó, tình cảm yêu nước của những người nông dân bình dị được thể hiện, và cái chân, thiện, mỹ của tâm hồn giữa đất trời được thể hiện.

Ở những câu sau, tác giả nhiều lần sử dụng biện pháp tương phản để thể hiện tấm lòng, lòng yêu nước, nhớ quê hương của những người nông dân chất phác rõ ràng và sâu sắc hơn.

Nhớ hồn xưa:

Câm miệng làm ăn đi, cố nghèo đi

Tao không quen cung ngựa nên định học nhung;

Chỉ biết chăn trâu và sống ở làng quê.

Cày, bừa, cấy, tay tôi đã quen rồi;

Luyện khiên, luyện thương, luyện mác, luyện cờ, luyện mắt

Họ tồn tại và tồn tại, chỉ là “làm ăn”. Họ vẫn sống, họ vẫn tồn tại, nhưng chỉ trong im lặng. Trong cuộc sống, họ có những lo toan, “cơm áo” cũng đơn giản, họ chỉ quen làm những công việc đồng áng: cày, bừa, cấy, hái, làm bạn với trâu, với ruộng. Họ không quen thuộc với “cung ngựa”, “phong cách nhung”, hay “bộ cờ và bộ cờ”. Các liệt sĩ ở đây chỉ là những thường dân nông dân, chưa từng chiến đấu hay được huấn luyện, nhưng vì lòng yêu nước, căm thù cái ác mà đứng lên chống giặc.

Khi “âm phong hạc lay động hơn mười tháng”, họ mong triều đình hạ lệnh: “mưa như hạn”.

Bi kịch đau lòng là đây: triều đình bạc nhược, không hiểu lòng yêu nước của nhân dân. Lòng căm thù giặc của nông dân không thể nào nguôi:

<3

…Thấy bào thai trắng muốt muốn ăn gan, ngày nào thấy ống khói đen thui cũng muốn chui ra cắn cổ.

Hình ảnh những người nông dân, nghĩa sĩ yêu nước thật anh dũng, anh dũng. Lòng yêu nước từ trái tim khiến họ tỏa sáng đẹp đẽ.

Vẻ đẹp của những nghĩa sĩ nông dân yêu nước được bộc lộ ở lòng căm thù giặc sục sôi. Chính lòng căm thù giặc trở thành một hành động bất khuất hết sức anh dũng.

<3<3

Trong các tác phẩm chống chiến tranh phong kiến ​​trước đây, khi những người nông dân phải ra biên ải để bảo vệ lãnh thổ của nhà vua, họ đã ra đi với tâm trạng và thái độ “xuống thuyền mà nước mắt giàn giụa”. mưa”, ở đây, những người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn khác. Họ tự nguyện đứng lên chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước. Nguyễn Đình Chiêu đã khắc họa sinh động vẻ đẹp của đất nước và vẻ đẹp của hành động yêu nước của những người nông dân. Từ động lực tinh thần tự nguyện gánh vác trọng trách lịch sử, họ đã tạo nên sức mạnh to lớn của mình, họ đã hành động, đứng lên chống giặc ngoại xâm, không đợi cha nhìn thấy, ông chỉ “Có áo vải đợi bên thận, vác bao, dao, cầm trên tay ngọn tầm ma, mua dao, mũ đèn”. Hình ảnh người nông dân được thể hiện trong tác phẩm khiến ta vừa tự hào vừa xót xa. Những người dân chính nghĩa dường như chính là hiện thân của sức mạnh cả nước. Đứng trước sự kẻ thù hùng mạnh của “đạn nhỏ, đạn to”, “trống sắt, thuyền đồng”, và đội quân xâm lược chuyên nghiệp, vũ khí mà chúng sử dụng chỉ là “cây gậy” và “áo vải”, “số 1 thế giới” , chỉ có “mài dao”, chỉ có “cung cỏ đá lửa” Thử hỏi, đem những thứ này chống lại họng súng thực dân có khác gì liều chết. Đau lòng khi thấy sự thật tàn khốc phơi bày trước mắt Đau lòng. Đây là bi kịch của người liệt sĩ kêu cứu và bi kịch của sinh mệnh dân tộc ta trong thời khắc nguy kịch đó, bi kịch này đã dẫn đến thảm họa mất nước kéo dài hàng thế kỷ.

Nhưng cũng chính từ tấn bi kịch này, vẻ đẹp của hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước càng được soi sáng. Với lòng kiên trung và lòng yêu nước nồng nàn, họ đã làm nên những điều phi thường và hát vang bản hùng ca của cuộc chiến tranh vệ quốc. Bất chấp hiểm nguy, bất chấp sự chênh lệch, đối đầu của hoàn cảnh chiến đấu, các anh quyết giành chiến thắng, dùng tinh thần xả thân quên mình để bù đắp sự kém cỏi, chênh lệch giữa mình và địch. Điểm khác biệt là thế trận khác nhau vì các liệt sĩ đã chiến đấu bằng chính tinh thần của mình, không sợ hy sinh, quyết chiến quyết thắng nên hiệu quả chiến đấu rất tốt.

Chỉ sử dụng vũ khí cơ bản, ví dụ:

Đốt rơm và đốt nhà tôn nữa,

<3

Đi ngang, phản công, cứ để mật mã chết ngạt…

Chỉ có những thứ vũ khí đơn giản, nhưng lòng yêu nước, tinh thần dân tộc đã tạo nên những điều kỳ diệu. Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với ánh sáng của lòng yêu nước dường như che lấp đi thời kỳ đen tối của lịch sử mất nước nửa sau thế kỷ 20.

Sự hi sinh như một tượng đài bằng văn tự, tạc nên hình tượng người anh hùng nghĩa sĩ nông dân anh dũng nhưng bi tráng, tượng trưng cho lòng căm thù giặc của ông cha đối với giặc ngoại xâm. Tượng đài là một mốc son ghi dấu bi kịch lớn của dân tộc – bi kịch mất nước, đánh dấu một thời kỳ đen tối trong lịch sử nước ta – một trăm năm đô hộ của thực dân Pháp. Nhưng anh dũng thay, trong bi kịch lớn lao ấy, đặc biệt là tinh thần bất khuất của quân dân miền Nam nói chung và của dân tộc Việt Nam nói chung vẫn sáng ngời lý tưởng cao cả của các nghĩa sĩ sẵn sàng xả thân vì đại nghĩa, vì dân tộc.

Ví dụ 2

Ruan Tingzhao là một nhà thơ yêu nước mù quáng với lòng yêu nước sâu sắc đối với nhân dân. Ông đã để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị, ngoài bài thơ nổi tiếng “Lv Wentian”, “Wan De Yi Gan Gui” là hiện thân cao nhất cho lòng yêu nước, thương dân của tác giả. Với lòng ngưỡng mộ và cảm thương chân thành, nhà văn đã dựng lên một tượng đài bất tử cho người nông dân – những con người chất phác, thật thà, mang vẻ đẹp của người anh hùng dân tộc sẵn sàng chiến đấu chống lại kẻ thù và hi sinh tính mạng.

Trước hết, họ là những người nông dân chất phác ở nông thôn. Những người này chỉ “làm ăn không lo nghèo”, và cuộc sống của họ chỉ giới hạn trong công việc của những người nông dân với những cánh đồng trâu trong làng. Họ quay lại và đi làm để kiếm sống. Họ chỉ là những người dân làng “không quen cung ngựa, không học được bằng cashmere”, họ không biết gì về “luyện khiên, thương, mác, cờ”, và họ cũng không biết gì về quân nhân và quân nhân. , chiến binh của chiến tranh. Người nông dân anh hùng cần kiệm rất chất phác, mộc mạc, chất phác để sống trong cảnh bần hàn của người nông dân đói rét.

Tuy nhiên, chúng mang lại vẻ đẹp của một người đàn ông sẵn sàng bất chấp. Vì khi giặc làm loạn, quấy nhiễu thì sức đề kháng của triều đình yếu ớt, “cơm áo gạo tiền” bị cướp, nước bị giặc đô hộ. Những dân tộc có truyền thống yêu Tổ quốc và chống ngoại xâm từ bao đời nay, họ không đợi “ai đến xin bắt, lần này xin đập vỡ kính; chuyến này tôi lười trốn lắm”. là nhằm vào con hổ”. Tinh thần nhiệt huyết, khí thế hào hùng, kèm theo khí chất phương đông của thời phong trần. Họ tình nguyện, bất chấp khó khăn trở ngại, chiến đấu chống lại kẻ thù, chặt đầu cá voi sát thủ và bắt những con hổ lớn. Lúc này quân địch đông và hung hãn, vũ khí tối tân gấp trăm lần quân ta nhưng người Bunun không hề sợ hãi.

Người nghĩa sĩ nông dân anh dũng chiến đấu, quyết tử vì nước. Kẻ thù dù hùng mạnh, hiện đại đến mấy, dù biết trước sẽ chết, nhưng dù chiến đấu với tinh thần yêu nước, căm thù giặc, họ cũng không lùi bước. Tinh thần đó cao đẹp và đáng ngưỡng mộ biết bao khi chỉ có dân nghèo mới dám ra trận như những người lính thực thụ, chỉ mặc “quần áo” không dao bầu, đao, mũ dùi cui, chiến đấu bằng vũ khí thô sơ. liềm trong tay”, rồi cung và mã tấu…chiến đấu bằng vũ khí. kẻ thù hiện đại.

Các anh đã chiến đấu kiên cường đến hơi thở cuối cùng, tinh thần chiến đấu bất khuất, thông thạo các trận đánh cam go đã trở thành tượng đài lý tưởng trong lòng người dân Việt Nam. Những bức tranh chân thực, sinh động miêu tả hình ảnh anh hùng của những người nông dân ở đồn cảnh sát đã được Dư Triệu miêu tả qua đoạn văn này: “Mi Peng Peng Peng vất vả, tiếng trống, tiếng trống, tiếng chuông, tiếng sóng, quân thù không ai sợ của bọn Tây đánh nhỏ đạn to xông cửa xông vào như chốn không người Kẻ qua đường kẻ chém ngược làm ma ma Con đại bàng trước sau hè hãy để đoàn tàu sắt Và súng nổ.” Hàng loạt động từ, giới từ mạnh mẽ, nhịp điệu nhanh, mạnh, câu văn như bị đập tan thành từng mảnh, khắc họa hình ảnh anh hùng xả thân vì độc lập dân tộc, thần thánh khiến quân thù phải khiếp sợ. Có thể nói, hình ảnh người nông dân xung phong nổi bật giữa bầu trời khói lửa và tạo nên một tượng đài nguy nga, để lại ấn tượng khó quên trong lòng người dân đất Việt.

Hình tượng người nông dân đã xuất hiện trong văn học từ lâu như: “tướng như hịch”, “bắp ngô cáo cáo”… nhưng mãi đến “văn chương bác sĩ từ thiện” người nông dân mới được sử dụng lần đầu tiên. Toàn thân, tính cách, tư tưởng, tình cảm, hành động như vậy đi vào văn học. Hy sinh ra đời trong hoàn cảnh khó khăn của những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Một mặt thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với các nghĩa sĩ đã anh dũng hy sinh vì Tổ quốc, ca ngợi lòng dũng cảm kiên trung, mặt khác tố cáo tội ác của thực dân Pháp, phê phán thái độ của chúng đối với chiến tranh. Nhà Nguyễn một mặt động viên, khơi dậy tinh thần đấu tranh của nhân dân.

Bởi vậy, lời lẽ sinh động, giọng điệu linh hoạt, gần gũi với cuộc sống nông gia, mang đậm chất Giang Nam phóng khoáng. Với lòng yêu nước sâu sắc, Ruan Tingzhao đã xây dựng hình ảnh một người nông dân giản dị, nghèo khó nhưng cao đẹp. Đây là hình ảnh người nông dân đẹp nhất trong lịch sử văn học dân tộc.

Bài văn mẫu 3

Văn chương của liệt sĩ Nguyễn Đình Chào là những bức tượng bi tráng của những anh hùng nghĩa sĩ, nghĩa sĩ nông dân. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học, hình ảnh người nông dân được khắc họa một cách trọn vẹn và đẹp đẽ đến vậy. Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn thiện bức tranh nông dân hào hùng và đẹp đẽ qua tác phẩm này.

Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Tháng 2 năm 1859, thực dân Pháp chiếm Gia Định và tấn công các vùng lân cận (Cù Công, Cần Giờ). Ngày 14-12-1861, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Cần Giờ giành được thắng lợi bước đầu: chém đầu một quan Pháp và một số lính thuộc địa, chiếm được đồn giặc. Ngày 16 tháng 12 năm 1862, địch phản công, 20 nghĩa quân bị giết. Vì vậy, Du Quang, hoàng tộc Gia Định lúc bấy giờ, đã nhờ Ruan Tingzhao viết các nghi thức tế tự và đọc thuộc lòng trong lễ truy điệu liệt sĩ.

Hình ảnh người nông dân không xuất hiện trong các tác phẩm văn học thời trung cổ mà được nhắc đến trong các tác phẩm của Ruan Shiping và Ngũ đại: “Shenkan Wiki, Manle Zhiduo Four Volumes”” (Lý gậy là ngọn cờ, quy tụ khắp nơi ) Đây là lần đầu tiên người nông dân được nhắc đến trong văn học nhưng do tính chất của bản tuyên ngôn nên Nguyễn chưa có điều kiện khắc họa rõ nét chân dung người nông dân mà chỉ có thể dừng lại ở việc khẳng định vị trí, vai trò của họ trong văn Chiến tranh chống Nhật Bản với tư cách là một đội quân xâm lược

Còn có những tác phẩm văn học của nhà nhân ái Nguyễn Đình Chào đã định hình hình ảnh và tinh thần người nông dân một cách trọn vẹn đến thế, đây là lần đầu tiên trong văn học Việt Nam. Từ cuộc sống đời thường đến đời sống tinh thần, từ vẻ ngoài giản dị, hiền lành đến sự dũng cảm, ngoan cường đều được khắc họa một cách sinh động. Đây là một phát hiện mới của nông dân Ruan Tingzhao – nông dân là lực lượng nòng cốt của mọi cuộc kháng chiến, nhưng họ ít hiểu đúng về vai trò lịch sử của mình.

Mở đầu, tác giả đã khái quát bối cảnh thời đại và khẳng định địa vị, ý nghĩa của người anh hùng nông dân: lần đầu tiên bộc lộ tấm lòng/ mười năm thăng trầm, công danh chẳng bằng nổi; vừa đánh Tây, tuy thua như tiếng la vang”. Đây là một thời đại đầy bi thương tủi nhục, đã sản sinh ra những người nông dân anh hùng với tấm lòng yêu nước nồng nàn. Câu văn rất ngắn gọn, vỏn vẹn tám chữ: súng giặc/ lòng người, đất trời gầm thét đã khơi dậy nhân dân ta trong không khí sục sôi, căng thẳng, ác liệt của thời cuộc trong công cuộc đánh giặc, hai câu tuy ngắn gọn nhưng đủ ý nghĩa, làm bệ đỡ để thấy được vẻ đẹp của tượng đài anh hùng nông dân phía sau.

Người nông dân khi chưa có giặc ngoại xâm sống cuộc đời vất vả, khó khăn: “ra làm quan lo nghèo”. Cuộc sống của họ xoay quanh lũy tre đầu làng, gắn liền với công việc đồng áng nặng nhọc: “Tui chỉ biết chăn trâu, mà ở làng”, “cuốc, cày, bừa, cấy, tay quen rồi”, tập quán canh tác của họ Hoàn toàn xa lạ. Kiếm khách: “Tu luyện khiên, thương, đao, cờ, ta còn chưa từng thấy qua.” Cuộc sống của họ gắn bó với làng xóm, quê hương nên khi nghe tin giặc xâm lược, họ đặt trọn niềm tin vào triều đình: “Niềm tin như nắng hạn mưa rào” và họ mang theo trong mình. Tôi căm thù giặc sâu sắc: thấy bào thai trắng muốt thì thèm ăn gan, thấy ống khói ngày nào đen thui thì muốn chui ra cắn cổ. “Không những thế, họ còn là những người có tinh thần trách nhiệm với Tổ quốc, với đất nước khi đất nước gặp nạn. Dù không được học binh pháp nhưng họ sẵn sàng hy sinh vì bình yên của Tổ quốc. đất nước.

Người nông dân cầm cuốc cày ruộng “trong cuộc chiến chống giặc Tây bỗng đứng dậy trở thành dũng sĩ bất khuất”. Đâu rồi hình bóng của một người mà tôi chỉ biết trong làng, với tầm nhìn hạn hẹp, lớn lên trong tích tắc, và tinh thần chiến đấu sục sôi. Vũ khí tuy đơn sơ, chủ yếu là những vật dụng hàng ngày: măng tre, cung cỏ, dao phay… nhưng các anh hừng hực khí thế, dũng cảm đánh giặc. Địch như chỗ không địch”, “Đập cửa như vào chỗ không”,… Hành động rất dứt khoát: “Ai chém người nọ, ai chém người kia. Cho mã tà, con ma ma; cậu hè, sau là đại bàng, tàu sắt, tàu đồng nổ tung”. , xông, đâm v.v… Diễn tả khí thế hào hùng, hành động dứt khoát, dũng cảm của những con người quên mình vì đại nghĩa. Lí do.

Khi miêu tả hình ảnh những người nông dân anh hùng, tác giả hoàn toàn sử dụng bút pháp hiện thực, tái hiện chân thực cuộc sống của họ từ ngoại hình đến công việc nặng nhọc. Ngày,… như nông dân ghét cỏ,…) Đặc biệt thủ pháp đối lập được sử dụng nhiều hơn: tiến/lao vào, đâm/chặt sau, áo vải, đạn to/đạn lớn, đạn nhỏ, v.v. Những kỹ năng nghệ thuật trên là không thể thiếu để khắc họa vẻ đẹp anh hùng và bi tráng của những người nông dân anh hùng.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giờ là khúc ca hào hùng về giai cấp nông dân anh hùng, bất khuất, kiên cường. Hình bóng và sự hy sinh của các anh là minh chứng cho lòng yêu nước nồng nàn và triết lý sống muôn đời của tiền nhân “thà chết chứ không chịu khuất phục”.

Bài 4

“Văn từ thiện Can Jiu” là đỉnh cao sáng tạo của nhà thơ Ruan Tingzhao, đồng thời cũng là biểu tượng sinh động và sâu sắc nhất về lòng yêu nước thương dân của ông. Bằng tấm lòng cảm thương và sự ngưỡng mộ chân thành, nhà thơ đã dựng nên một “tượng đài nghệ thuật” bất tử về những nghĩa sĩ nông dân anh hùng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

Có thể nói “Bài thơ hy sinh” là một bài ca buồn về một nhà từ thiện hy sinh mạng sống của mình cho sự tồn vong của đất nước. Người nghèo chân chất “Mồ côi chí thú làm ăn lo nghèo, ý thức đứng lên gánh vác nhiệm vụ trọng đại và gian khổ của đất nước: đánh giặc, trước tội ác tày trời của Phật giáo, trước thái độ nghèo hèn của triều đình. , họ không bịt tai bịt mắt, Ý thức trách nhiệm công dân thôi thúc họ cầm vũ khí chiến đấu:

<3

Đừng chạy nữa, hành trình này đầy hổ”.

Họ không phải là binh thường của triều đình, mà là “những người làng xóm thương tình gánh vác mà chiêu mộ”. Đây là ý nghĩa của lòng vị tha dân tộc, dám chống lại kẻ thù và dám hy sinh. Điều này hoàn toàn trái ngược với các quan đại thần tham sống sợ chết. Chính vì vậy, hình ảnh những người anh hùng nông dân càng thân thương và đáng quý hơn.

Không cần mệnh lệnh của cấp trên, không đợi trang bị, không đợi huấn luyện, các anh đã xông pha quyết chiến với kẻ thù với lòng dũng cảm hiếm có: “Bọn xông, kẻ chém, làm mũ ác, hén. Năm kia trước Mùa hè, vo ve phía sau, giàn tàu thiếc phấp phới, súng nổ, Thần linh đưa vũ khí thô sơ vào tay: “Súng hỏa mai rơm, cũng thiêu rụi một ngôi nhà tôn giáo khác–vung gươm với lưỡi mã tấu cũng chém đứt đầu viên quan. Có”.

Dũng cảm trong trận chiến khắc phục điểm yếu về trang bị. Trong cảnh chiến đấu tráng lệ, hình bóng của một người lính anh hùng nông dân đang chiến đấu đặc biệt bắt mắt.

Trong thơ cổ của ta, chỗ tả trận đánh không nhiều, thường tả vài nét. Trong cuộc hy sinh này, nhà thơ đã miêu tả rất chân thực, chi tiết sống động, khí phách anh hùng gần gũi, nó ở trong cuộc sống, nó quen thuộc với mọi người. Sức mạnh của nghệ thuật đã biến những hình ảnh bình thường thành hình ảnh những người nghĩa sĩ nông dân chân lấm tay bùn quanh năm nhưng khi sôi sục bên trong thì biến thành những anh hùng nghĩa sĩ cứu nước. . Hình bóng của họ thống trị chiến trường, hiện ra từ bầu trời trên ánh nến, bao trùm cả không gian, thấp thoáng như một tượng đài nguy nga.

Cảm xúc chủ đạo của một số đoạn văn là cảm xúc bi tráng, ngôn từ mạnh mẽ, mạnh mẽ, mọi hành động được thể hiện bằng động từ mạnh, ngữ điệu sục sôi, trào dâng. Nghệ thuật Chiến đấu đạt hiệu quả cao nhất… tất cả được kết hợp thành một giai điệu chiến đấu hào hùng, thú vị. Thật là một sử thi tuyệt vời. Ngòi bút của tác giả hoàn toàn xứng đáng với những nghĩa cử cao đẹp của những người anh hùng nông dân, tác giả đã phát hiện ra những tư tưởng vô cùng vĩ đại trong hành động giết giặc cứu nước của họ.

Gần ba chục nghĩa sĩ nông dân đã hy sinh trong một trận cận chiến ác liệt. Một người đàn ông nào đó chết thảm, cả cây cối trong làng đều tiếc thương: “Non sông mất lối, cây cỏ mấy dặm. Người chết vì nước non, người chết vì đồng bào, Tượng đài nghệ thuật “Tấm thẻ liệt sĩ đẫm máu bi tráng. Đứng giữa khói lửa chiến tranh, tiếng kêu gào của quân tình nguyện, và cả những giọt nước mắt, tiếng kêu đau đớn của các thi sĩ và nhân dân.Đây là thành tựu nghệ thuật đặc sắc của nhà thơ yêu nước mù Đinh Triệu. Sự hy sinh như một tượng đài, một mốc son, một lâu đài vinh quang của nông dân và nhân dân lao động miền Nam, mãi mãi sáng ngời.

Bài 5

Nguyễn Đình Chào là một nhà Nho yêu nước cuối thế kỷ 19. Cuộc đời anh đầy bất hạnh. Nhưng với nghị lực phi thường, ông đã trở thành tám tấm gương sáng trên nhiều phương diện… “Nhà văn từ thiện bất cần đời” Nguyễn Đình Chiêu đã dựng lên một bức tượng bi tráng về người nông dân anh hùng chống giặc Pháp trong ngày tận thế. “. Thời gian sấy?

Mở đầu tác giả thở dài:

Ôi! Súng giặc nội xâm, lòng người phơi phới!

Đây là hoàn cảnh và bối cảnh xây dựng tượng đài của Ruan Tingzhao. Đất nước bị xâm lược. Tiếng pháo của địch gầm rú khắp rừng núi và đồng bằng. Một kẻ thù hung dữ đang đến. Xã đang chao đảo trước “xe sắt, xe đồng, súng ống” Có lẽ, đã đến lúc:

Tiền tan chảy

Gạch sơn Dainai và mây nhuộm

Cũng là thời gian:

Trốn khỏi nhà

Tổ chim ác là bị lạc

(chạy về phía tây – nguyễn đình chiểu)

Trong cảnh tang thương, ly tán, đau thương này, lòng dân sáng ngời giữa trời xanh!

Họ là ai?

Họ không phải là những học giả, học giả, hay những người giàu có được vua chúa và các quốc gia ban phước. Họ chỉ là con người:

Doanh nghiệp mồ côi, nỗi lo đói nghèo

…chỉ biết chăn trâu, sống ở làng quê

Cày, bừa, cấy, tay tôi đã quen rồi;

Luyện khiên, luyện thương, luyện mác, luyện cờ, tôi chưa từng thấy

Họ hoàn toàn là nông dân, 100% là nông dân và họ chưa bao giờ bước chân ra khỏi làng! Không những thế, họ còn là những nông dân nghèo, rất nghèo. Chữ “mồ côi” của ông Dư thật đáng thương! Nó chỉ những ngày thường, nhưng những tháng năm dài đằng đẵng đó, chúng không giống như “bầy đàn” của hoàng đế và quan lại. Cả một đời, từ thế hệ này sang thế hệ khác, bán mặt cho đất bán lưng cho trời! Tuy nhiên, những người đầu tiên đứng lên là những người bị bỏ rơi, ngay cả khi họ không phải là binh lính hay lính canh. Họ chỉ tụ tập dưới ngọn cờ vì một mục đích cao cả.

<3

Hai vầng nhật nguyệt chói lọi, đâu treo cừu bán chó.

Ruan Tingzhao đã dùng hai câu trên để cho chúng ta thấy họ là những liệt sĩ thực sự, những người có trọng trách với đất nước, những người có dòng máu bất khuất. Vì vậy, họ quyết định: “Lần này, tôi sẽ cố gắng hết sức… Chuyến đi này nhất định sẽ thành công.”

Đây là suy nghĩ của hàng triệu người về thị trinh, cha của đại vương phùng hưng, người từng chém cá kình ở biển đông và bắt hổ trong lịch sử dân tộc.

Nhưng ông già vẫn không quên họ là những người chân đất mang trong tim kẻ thù:

Thấy bào thai trắng muốt muốn ăn gan

Tôi muốn cắn vào cổ mình vào cái ngày nhìn thấy ống khói chuyển sang màu đen!

Chính lòng căm thù ấy đã giúp họ vượt qua khó khăn, khắc phục khó khăn, không đợi vũ khí, cơm áo, luyện binh, không sợ kẻ thù hùng mạnh, có vũ khí tối tân, có tinh thần cầu lợi. .. Lập tức hạ quyết tâm xông trận với thứ vũ khí tự chế đơn giản: “Súng hỏa mai bằng rơm/kiếm bằng mã tấu”, nghĩa là gì? Đánh bất cứ thứ gì bạn muốn, chỉ cần giết kẻ thù! Không có lòng đại nghĩa thì làm sao có dũng khí?

Và, khi họ cạnh tranh, họ làm rất tốt:

Người quản lý làm việc chăm chỉ, khua chiêng đánh trống, đạp rào, coi giặc như không, ai sợ thằng tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xông vào, xông vào, như thể anh ấy không có như vậy.

Kẻ vượt, kẻ chém, dọa ma; hè trước, sau này tàu sắt tàu đồng nổ tung.

Thật là một trận chiến thù hận hùng mạnh và khốc liệt! “Đạp—lượn—đẩy—đẩy—ngang—chém…” và các động từ mạnh khác khiến người đọc hàng trăm năm sau vẫn thấy không khí bấp bênh của quân phản loạn trước mặt. Trong ánh lửa bập bùng, những bắp tay trần lấp lóa, lưỡi gươm ánh thép, tiếng bước chân phi nước đại, tiếng rống giết giặc…

Trên văn đàn Việt Nam lúc bấy giờ, hiếm thấy những bức tranh hiện thực sống động như vậy! Chiết trung, bút và mực tin đồn quý giá biết bao! Tại sao một người bị “bóng tối bao quanh” lại có thể nhìn rõ như vậy? Tài năng hay tấm lòng? Có lẽ tất cả mọi thứ!

Chính tinh thần chiến đấu của các liệt sĩ đã đạt được những thành tích rất đáng khen ngợi. Họ đã tiêu diệt tên chỉ huy gian ác và đốt cháy sào huyệt của gián điệp, tức là giặc nổi, giặc chìm, giặc thịt, giặc tư tưởng (thầy)… càng có lý. Khi những chiến công này được thực hiện bằng những vũ khí hết sức thô sơ! Tượng đài ấy càng hùng vĩ hơn.

Thật đáng tiếc! Họ đã ngã xuống! Sự hy sinh anh dũng của họ khiến cả thế giới đau lòng:

Sông nhiều cây cối, cây cối muôn dặm;

Nhìn qua thị trường thấy phù hợp với mọi lứa tuổi.

Trời u ám! Người than khóc! Thật là một bi kịch! Đằng sau cái chết của anh hùng sẽ là:

Đau quá! Mẹ già ngồi khóc, đêm khuya ngọn đèn leo lét trong lều. Hồi hộp hơn! Vợ yếu chạy tìm chồng, bóng chiều trước ngõ tan dần.

Có thể nói, Ruan Tingzhao đã viết một câu đau lòng như vậy với máu và nước mắt đan xen!

Mặc dù Ruan Tingzhao đã lau nước mắt và ca ngợi sự hy sinh anh dũng của những người lính, nhưng anh ấy có một tình yêu vĩ đại tràn ngập ánh trăng, “đánh giặc trong nước, cùng anh ấy giúp đỡ linh hồn”, và thề sẽ trao tặng vĩnh viễn “, nghĩa là những người đó sau khi chết vẫn còn sống! Nhưng chúng tôi vẫn không khỏi ngậm ngùi, đau xót trong lòng!

Tượng đài bi tráng do Nguyễn Đình Chiêu dựng bằng ngọn bút sẽ trường tồn cùng non sông Việt Nam! Đây là tượng nông dân đánh giặc đầu tiên! Người Việt Nam biết chọc lỗ trên cành cây để gieo hạt, và họ cũng biết vót măng, vót tre để chống lại mọi kẻ thù bốn chân và hai chân! Họ là những người chủ thực sự của đất nước. Nhưng trong văn học chính thống trước khi Ruan Tingzhao cai trị, họ chưa bao giờ trở thành nhân vật trung tâm! Bây giờ, Ruan Tingzhao đã trả lại những người chân lấm tay bùn này về đúng vị trí của họ. Ruan Tingzhao đã trở thành một ngôi sao sáng trong giới văn học Trung Quốc vào cuối thế kỷ thứ mười với công trạng “một nhà từ thiện văn học xứng đáng”! “Văn nhân từ thiện phải tiến lên” là một “anh hùng ca” muôn đời (Fan Wendong).

Thắp nến tưởng nhớ, tưởng nhớ, tưởng nhớ anh hùng, tưởng nhớ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiêu.

Giới thiệu kênh youtube vietjack

Ngân hàng đề thi lớp 11 tại

khoahoc.vietjack.com

  • Hơn 75.000 câu hỏi toán trắc nghiệm có đáp án
  • Hơn 50.000 câu hỏi trắc nghiệm với 11 đáp án chi tiết
  • Gần 40.000 Câu Hỏi Đáp Án Trắc Nghiệm Vật Lý 11
  • Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm

Kiểm tra tiếng Anh trực tuyến

Bạn đã biết trình độ tiếng Anh hiện tại của mình chưa?
Bắt đầu làm bài kiểm tra

Nhận tư vấn lộ trình từ ACET

Hãy để lại thông tin, tư vấn viên của ACET sẽ liên lạc với bạn trong thời gian sớm nhất.