Những bài ca yêu thích của Đức Phật: Lịch sử và Thần thoại. Thích nữhểnhư
trChúc bạn xem tốtXin lỗiXin lỗi>PhápTôi thích ca môn ni, làm ngườingườiđọc haynhớ i>OK đHàng ngàyCảm ơnNgày ghi trong tiêu đềHiểuThưa quý tòa, chúng tôi cầu xin bạnHãy lắc nóĐây làPháp/i>Tôi yêu bạn sinh năm nNăm 624 triệucác nước phương Tây lich. Ngài sinh năm 80 tuổi, Tây Ước lử sử. Sáu triệunăm tuổi mvới bphảitênchọn n ngày sinh của chúa jesus christ doxinđicho dlực. Kể từ đến nay là nnăm 2018 thì Đức /i>Ann ra đời Học sinh2642nNăm và học phíTheo phương thứcMở i>ngày tận thếkhó chịuđầu tiênlà ni>nămđức phi nhà báo tđã làm (nnăm 544 triệuước tl) và bạnđã nhậnTận hưởngHoàn thành biểu mẫuNhận 2.562 nam.
viViệt Nam và các nướccác quốc gia và khu vựckhu vựckhu vựcĐông Ánhưmở ban, trung, triệt… tcó xyêu tất cả làmtự doquay ngày sinh m</i Dung tháng 8 tư Âm lịchÂm lịch. gTên để gọi tphải là ngàyngày kỷ niệmngày Em ơi là《ngày mám tháng tư》 LuônCầnCải tiếnLuônXuống y, trở thành phố tử tói cổn viết tôi>nhấn mạnh suy nghĩ của tôicảm giácbạn cảm thấy thế nàongườingười Để cTin Phật hay không tin PhậtPháp.
VàoKăkỷ niệm20, kăng nhấttôn giáokỷ niệmtôn giáotôn giáoe> thời gian, hHội tôn giáoHội đồng hương Phật giáo) Nội quyNghị địnhNghị địnhHôm kiaTháng 4 15 Âm LịchThông BáoGiỗTưởngĐanĐan Đan ra đời. Chính vì vậy tại sao còn 2 ngày nữaNhớNhớĐức ph i>i Ban đầucuộc đời là mtám tháng tuuu âm thanh lđĩa ( trước khác) và ráng trăng tròn của tư lâm kinh tởm (nay ô) .
***
Nhân mùa Phật đản Thích Ca Mâu Ni, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại tiểu sử của Ngài và tìm hiểu về con người vĩ đại đã để lại kho tàng văn hóa Phật giáo cho hậu thế. Trong sách có 12.601 Pháp thoại, 45 năm Pháp truyền, và sau khi Đức Phật nhập diệt vào năm 2562, loại trí tuệ này vẫn được mọi người trên khắp thế giới, bao gồm cả Phật tử và ngoại đạo hoan nghênh. Theo đạo Phật để học và học.
Trình bày về tiểu sử Đức Phật, Phật giáo có hai bản. Một là Đức Phật huyền thoại, được ghi chép đầy đủ trong “Kinh Tổ tiên Phật tổ (Beitong) Kinh”, trong đó có mô tả chi tiết về sự ra đời của Đức Phật, thậm chí còn nói rằng Ngài là một vị Bồ tát. đồng ruộng. Giả thuyết thứ hai khoa học hơn, cũng dựa trên lịch sử để lại, ông cũng như bao người, cũng là một người bình thường, có cha mẹ, vợ con, lo lắng cho nỗi khổ của con người nên ông muốn để tìm lối thoát. Chu kỳ của sự sống và cái chết. Giai đoạn học đạo với hai vị Sa-môn nổi tiếng lúc bấy giờ là alàra kālama và uddaka ramāputta, và giai đoạn kết đàn với năm anh em Sa-môn hải ngoại, xem ra 6 năm tu hành Sa-môn không khác gì Đức Phật huyền thoại. .Thần Thoại Và Lịch Sử Đức Phật.
Vì vậy trong bài viết này chúng tôi mạn phép lấy tiêu đề “đức phbật như ca: huydan tho hoai (tôn giáo) và lbach sư”. Bài viết chỉ giới thiệu sơ lược về lịch sử ra đời. Các tác phẩm của ông thay vì khai triển những chi tiết khác, vì theo quy ước này, chỉ có vài nghìn chữ, làm sao có thể diễn tả được cuộc đời của một bậc đại giác ngộ như Phật Thích Ca.
Tượng Thái tử SĩĐạt Ta lúc ra đời
Phật giáo/Thần thoại
Từ xa xưa, để hình thành một tôn giáo, ít nhất phải có một số điều kiện: phải có giáo chủ, phải có truyền thuyết nhất định để khiến người ta ngưỡng mộ và tin tưởng, phải có tôn sư. Giáo lý, tín đồ và nghi lễ dành riêng cho tôn giáo đó.
Trong lịch sử, đạo Phật là một giáo lý, một con đường tu tập dẫn đến khai mở trí tuệ tâm linh, bởi vì Đức Phật là một con người bình thường vừa tu tập vừa tạo ra con đường, vừa giảng dạy vừa truyền dạy kinh nghiệm cho người khác.
Sau khi Đức Phật nhập diệt, theo thời gian, Phật giáo đã đi vào nhân gian. So với những điều kiện trên, có thể coi đạo Phật là một tôn giáo vì nó còn có những điều kiện sau:
– Giáo chủ Phật giáo là Đức Thích Ca Mâu Ni. Có rất nhiều huyền thoại trong cuộc đời ông. Ví dụ, ngài là vị Hộ Pháp đầu tiên trong quốc độ Tushita Bồ tát, và ngài đã tu hành trong vô lượng kiếp trước khi thành Phật trong một kiếp nữa. Ngài ở cõi trời Đâu Suất nhìn xuống thế gian, tìm được cha mẹ tốt mà thai nghén ở thế gian, suốt đời tu hành, đạt được kết quả khả quan.
– Đạo Phật có những giáo lý dạy người tin. Có hai loại Kinh điển: Nicha (Nam phái) và Ahan (Bắc phái). Ở Việt Nam, kinh Phật đã được dịch ra tiếng Việt, tuy chưa thật đầy đủ nhưng cũng khá tốt. Tổng cộng, nói chung có bốn tập, bao gồm 12.601 văn bản, không bao gồm các phần phụ. Có 4 nhóm a-hàm gồm 2.086 bộ kinh. Tổng hợp lại, chúng ta thấy rằng Đức Phật đã để lại 14.687 bài Pháp cho những người theo Ngài.
– Ngày nay, có hơn 800 triệu tín đồ Phật giáo trong tổng dân số hơn 7 tỷ người trên Trái đất.
Trở lại tiểu sử của đức Phật tôn giáo hay sự tích về Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Như đã nói ở trên, chư Bồ tát thời đó đã tu tập trải qua hàng trăm triệu kiếp và thành Phật trong kiếp cuối cùng. Lúc bấy giờ, Bồ tát ở trên cung trời Đâu Suất, nhìn xuống nhân gian, tìm người thích hợp để giáng trần. Người mẹ mà Bồ tát chọn để thụ thai là Hoàng hậu Mahamaya.
Người ta nói rằng hoàng hậu Maya là một người đức hạnh và từ bi. Bà là vợ của vua Kapilavatthu của kinh thành Brahma, đã già và không có con. Một buổi trưa nọ, hoàng hậu nằm mơ thấy bốn vị thiên thần nhấc bốn góc giường bay thẳng lên đỉnh núi Hy Mã Lạp Sơn. Vừa lúc đó, một con voi trắng sáu ngà từ trên trời rơi xuống ngoạm vào mông bên phải của bà. Hoàng hậu chợt tỉnh giấc, cảm thấy mát mẻ, dễ chịu và sảng khoái. Lúc đó hoàng hậu đang mang thai.
Theo phong tục Ấn Độ, phụ nữ mang thai phải về nhà chồng để sinh con. hoàng hậu maya không rời bỏ phong tục đó. Ngày hoa nở rộ, trên đường về quê cha mẹ, đi đến khu rừng trúc nơi tiếp giáp hai nước Kosola (Nepal) và Kapilawat (Bắc Ấn Độ), hoàng hậu ra lệnh cho phái đoàn dừng chân nghỉ ngơi vì không khí ở đây rất dễ chịu, thoang thoảng hương hoa thoang thoảng trong gió. Đoàn tùy tùng dừng lại. Khi Hoàng hậu Maya từng bước đi đến bìa rừng để thưởng ngoạn phong cảnh, bà nhìn thấy một cây lớn có nhiều hoa đẹp trên đó, được ghi trong kinh điển là một loài hoa thần thoại, và trong kinh điển đã viết là hoa vô ưu (Người ta nói loài hoa này 3000 năm mới nở một lần, nhưng nếu hoa nở không đúng lúc thì đó là hoa nở để chào mừng hoặc báo trước sự xuất hiện của đấng giác ngộ trong tương lai.)
Về truyền thuyết về Đức Phật, truyện cổ kể rằng, hoàng tử được sinh ra khi hoàng hậu Maya đặt tay phải lên cành cây vô lo, và từ trong bụng mẹ ngài được sinh ra với phần mông bên phải, lúc đó Lúc bấy giờ, có hai vị Bà-la-môn xuất hiện để giúp đỡ ông. Với hai vòi nước, một lạnh và một ấm, hai con rồng từ trên cao phun xuống để tắm cho hoàng tử mới sinh.
Tục ngữ xưa, thái tử mới sinh đi bảy bước, mỗi bước đều có hoa sen nở rộ đỡ chân. Bước thứ bảy, hoàng tử một tay chỉ trời đất, đọc một câu:
“thiên địatà thiênđộcđộc” có nghĩa là “trên tr cuộc sống dở dưới trần gian chỉchân rơi /i>( tđe dọa-tôie) là sma” … và sau đó cậu bé trở lại cuộc sống như một đứa trẻ sơ sinh bình thường khác.
Thái tử SĩĐạt Ta sanh ra tại vườn Lâm Tỳ Ni Nepal năm 624 trước Tây Lịch (tranh huyền thoại)
Khi thái tử được 5 ngày tuổi, vua Suddhodana đặt tên con là Siddhartha (tiếng Phạn). Tiếng Pali là siddharta gautama. Anh ta thuộc giới quý tộc sakiya.
Theo thông lệ thời bấy giờ, nhà vua mời nhiều vị Bà la môn tài giỏi đến triều đình dự lễ đặt tên và thăm tướng của thái tử. Tám đạo sĩ vào cung gặp tướng của thái tử. Bảy người giơ hai ngón tay và giải thích hai lý do: một là hoàng tử sẽ trở thành hoàng đế vĩ đại nhất thế giới trong tương lai, hai là anh ta sẽ tu hành để thành Phật. Đặc biệt, một đạo sĩ trẻ tên là kiều trần (kondanna) nói rằng hoàng tử sau này sẽ trở thành một nhà sư và đạt được giác ngộ.
Trước đây, có một ẩn sĩ tên là Asita, là bạn tâm giao của một vị vua đang tu hành trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, trong lúc xuống núi, ông đã đi nghe dân gian truyền tụng. Hoàng hậu Maya vừa hạ sinh một người con trai, ông xin được vào thăm hoàng tử. Vua Vatican vui mừng đem thái tử đến đảnh lễ các đạo sĩ. Đạo sĩ Asitada nhìn hoàng tử và tiên đoán rằng hoàng tử sẽ trở thành người đàn ông cao quý và vĩ đại nhất trong tương lai. Nói xong, anh ta cúi chào hoàng tử. Nhìn thấy vị đạo sĩ già thờ con trai mình theo cách này, vua Qingjing Brahma cũng cúi đầu trước con trai mình theo lệnh của Đạo giáo.
Sau đó, đạo sĩ đột nhiên cười khan một tiếng rồi lại khóc. Nhà vua và mọi người ngạc nhiên trước cảm xúc của đạo sĩ và hỏi tại sao, nhà sư Atuda giải thích rằng ông rất vui vì biết rằng sau này thái tử sẽ thành Phật, và ông khóc vì biết sớm. Anh ta sẽ chết và tái sinh trong Cõi Vô sắc (cõi mà hành giả sẽ tái sinh). Vì vậy, người ta không thể có được sự ban phước giác ngộ do Trí tuệ Vô thượng dạy.
Hai ngày sau lễ đặt tên cho hoàng tử, hoàng hậu Mahamaya đột ngột qua đời, theo kinh sách, bà được sinh ra ở cung trời Taolai. Lúc bấy giờ, công chúa mahã pajāpati gotami (chị của hoàng hậu) tự nguyện nuôi nấng hoàng tử.
Một điều kỳ lạ đã xảy ra trong thời thơ ấu của Hoàng tử Datta. Thực tế này là một kinh nghiệm tâm linh đối với anh ta, chìa khóa dẫn đến con đường giác ngộ cho anh ta.
Theo truyền thuyết, hàng năm, vua của Tingshan sẽ tổ chức một buổi lễ kỷ niệm sự sụp đổ của Dian’an. Xin trời cho mưa thuận gió hòa là một nghi lễ trước khi mọi người bắt tay vào công trình.
Ở Ấn Độ, người ta tin vào nhiều vị thần khác nhau: Thần mưa, thần gió, thần lửa, thần đất… Họ tin rằng mọi vấn đề trong đời sống con người đều do thần linh điều khiển. Con người phải cúi đầu chấp nhận sự ban phước hay sự trừng phạt của các vị thần.
Vào buổi sáng, nhà vua và vị thần đăng quang của ông đến địa điểm tổ chức buổi lễ. Quần thần và phi tần đỡ Thái tử Đại Tà ngồi vào kiệu, còn các thị vệ khiêng kiệu đến dưới bóng một cây đại thụ, cách nơi cử hành đại lễ không xa. Mọi người vui vẻ nhìn cảnh nhà vua chủ trì đại lễ, các phi tần phụ trách chăm sóc thái tử cũng lẻn đến nhìn thoáng qua.
Hoàng tử lúc đó khoảng 9, 10 tuổi nhưng không thích khung cảnh náo nhiệt của đại lễ. Thái tử đặt chiếc kiệu xuống đất, thay vì chạy chơi đùa nghịch, chàng lại chọn một chỗ râm mát dưới gốc trâm bầu, ngồi xếp bằng, yên lặng thiền định, nhắm mắt dưỡng thần, tĩnh tâm, vô tình bước vào tiên cảnh. thiền.
Lúc mọi người đang bận rộn vui vẻ, các phi tần chợt nghĩ đến hoàng tử, vội vàng quay lại làm việc, lại nhìn thấy hoàng tử đang ngồi thiền. Mọi người đều kinh ngạc không dám quấy rầy, vội vàng báo cáo sự việc lên vua Phạm Thiên.
Thấy hoàng tử Datuo vẫn còn trong trạng thái nhập định, Vatican vội vã đến chỗ anh ta. Nhà vua bước đến bên hoàng tử, chắp tay và nhẹ nhàng nói: thứthứphục vụvề con . “
Vương Tam San thấy hoàng tử tuy còn nhỏ nhưng không thích cuộc sống ồn ào, không chơi đùa như những đứa trẻ hoàng gia khác nên vô cùng sợ hãi, nhất là khi nhớ đến lời tiên tri của thần linh. Sau đó, hoàng tử Đạo giáo xuất gia để tìm kiếm Đạo giáo và trở thành một vị Phật.
Trong thâm tâm, nhà vua không muốn con đi tu mà chỉ muốn đào tạo hoàng tử trở thành người đứng đầu về mọi mặt, để sau này truyền ngôi cho hoàng tử. . Chỉ huy hơn một trăm gia đình.
Đạt được mục tiêu của bạn. Nhà vua bắt đầu lên kế hoạch giấu kín không để hoàng tử nhìn thấy và biết… Ở đời có biết bao khổ đau, phiền não.
Thái tử được hoàng gia và quý tộc bao bọc, sống cuộc sống xa hoa, ca múa, tràn ngập niềm vui. Năm 16 tuổi, theo phong tục thời bấy giờ, hoàng tử kết hôn với một người chú là công chúa Dadu Dara (yasodharã) cùng tuổi. Trong suốt 13 năm ở bên công chúa, hoàng tử sống một cuộc sống xa hoa, không biết đến những đau khổ ở thế giới bên ngoài cổng cung điện, anh và công chúa Datu Dala đã tái sinh, có một người con trai và rất hạnh phúc khi được làm một vị vua thuần khiết. Vua đặt tên cho cháu là A-hula
Trong suốt 29 năm sống trong Kim Cung, mọi người trong cung đều yêu quý chàng, đặc biệt là người thừa kế của cha chàng và công chúa xinh đẹp Dadu Dala, người luôn quan tâm chăm sóc chàng và tạo mọi điều kiện để hoàng tử được hạnh phúc trọn vẹn. thời gian. Một mình anh ta có tất cả vinh quang trên thế giới. Trong Tăng Chi Phật Giáo (anguttara nikaya, Phần 1, tr. 145), Ngài dặn dò các đệ tử như sau:
“đời làđời tôiđời tôiđời là đời ennhi hoàng đế dày dặn kinh nghiệm đãđào ao và xây ao ởở đây senđỏ và trải dài bên kia, trong i>bữa tiệc đẹpvẻ đẹpánh nắng ánh ban mai tr i>ham hchúng tôi sử dụngmọi thứ đều ổntuyệt vờihung h xcho tôi kasi cho tôi thức ăn và quần áo> i>có tại để</i
Dừng chân lênĐi tới mũi tàuĐiCó một bí mậtLớp phủ âm thanh i Hỗ trợHỗ trợYên lặng
“phHoàng đế cXiongjiVớiSangong tự hỗ trợ goen.ma cho emvào mùa lm i>tháng/ tháng thích tôitốt hơncâm mmột thỏa thuận tốtđủ điều kiệnđicóđầy đủhoàn toàn cóphù hợp, gii>cho i Đồ được cung cấpcho cho ti>chúc vui vẻcó bữa ăn ngon i> i>Ăn lại mhay làThất vọngKhông cầnPhải uu Ở những ngôi nhà khác, các thành viên trong gia đìnhchỉđượcăn thưởng thức và ănthịtăn cthịt.”
Đã lâu như vậy, trước mặt thái tử chỉ có kim điện, ngọc đường, ca kỹ nhiều năm, mỹ nữ, nhi tử, ngai vàng chờ đợi.
Nhưng một hôm, tình cờ hoàng tử xin vua cha đi thăm dân để hiểu rõ sự tình. Vua Tinshan nghĩ rằng đã đến lúc Hoàng tử Datta ra khỏi thành phố để xem đất nước của mình hùng vĩ và xinh đẹp như thế nào.
Tingshan King lập tức ra lệnh cho người trong mỗi gia đình nhanh chóng giăng đèn và kết hoa, thể hiện một cảnh tượng thái bình thịnh trị, mọi người nên thể hiện sự vui mừng, đặc biệt là trên con đường hoàng tử sắp đi qua.
Dù nhà vua có ra lệnh che giấu tính mạng của người dân như thế nào thì họ cũng không thể thoát khỏi con mắt của thái tử. Sau bốn lần ra khỏi thành, Thái tử quan sát thấy cuộc sống của người dân không hoàn toàn hạnh phúc mà cuộc sống của người dân xoay vần trong vòng khổ đau, như một người già yếu, mắt mờ, lưng gù, tóc bạc, da nhăn, tàn tạ. . Các bước được hỗ trợ bởi nạng. Một người đàn ông ốm yếu rên rỉ đau đớn trên đường phố trông thật tội nghiệp. Một thi thể đang phân hủy được đặt lên giàn hỏa thiêu giữa tiếng khóc thê lương của những người thân còn sống. Hơn nữa, người chung quanh ngày ngày lo chạy đua, tranh giành, giành giật, xô đẩy, không còn thì giờ nghĩ cách thoát khỏi vòng sinh lão bệnh tử! Họ dường như đã không chống chọi nổi với hoàn cảnh nghiệt ngã dày vò cuộc đời ngắn ngủi của mình và tiếp tục trôi dạt trong biển số phận. Bản thân hoàng tử không chấp nhận điều đó, anh ta nghĩ mình phải sống chết bằng mọi giá. Rồi anh nghĩ đến việc tìm cách thoát ra, nhưng không có cách nào.
May thay, ngoài già, bệnh, chết… ba cảnh này, trong chuyến du hành lần thứ tư, Thái tử đã gặp được một vị Bà-la-môn Samana trang nghiêm và đáng kính. Hình ảnh chậm rãi của nhà sư đã mở lối cho thái tử, mong dẫn đến an lạc giải thoát.
Trong kinh A-hàm trung bộ (majjhima nikaya, part 1 – ariyapariyesana sutta số 26, trang 163) tư tưởng của Thái tử Dado được ghi lại như sau:
“Chúng ta sẽta phảisinh ra, già đi, bự quyết định, chời, phinão và ô nhiễmô nhiễmsao và mthích i> Không saonhưng vẫn không saoxin lỗivâng vì bạn đã sinh ra, đã già, đã chết, t i>ư, phiNão và Ô nhiễmBị ô nhiễm Chúng tah PhảiĐó i>đinhiềuhoặc chúng tôi có thểsử dụng /i>để tìm những gì bạn muốn đạt được đạt được điều bạn muốn đạt được tìm được điều bạn muốn đạt được /i>Đánh giácho cBạn i>Cân nhắc”.
Nói về đời sống gia đình, cũng trong kinh A-hàm, phần 1, kinh mahasacka số 36, thuật lại:
“đời sản lý tông giàghét ch hNghịch ngợm, là mộthẩn cbanh yêu em > Rất nhiều i>Thật không mayThánh địa tôn giáoTuyệt vờiHình ảnh rất ccuộc đời tôi rộng lớn quá i>gia đìnhgia đìnhđắt giákhó cưỡng i>cuộc sống squảnđạođời linh thiêngđến tến i>hoàn hảoảo và trong giới hạn của nóliều lĩnh.”
Nhận thức rõ ràng rằng những lợi ích vật chất mà hầu hết mọi người tranh giành không thể mang lại lợi ích bền vững. Vì vậy, Hoàng tử Dada quyết định rời cung điện với ngai vàng là người đứng đầu thế giới, chia tay người vợ xinh đẹp và cao quý cùng đứa con mới sinh dễ thương và xinh xắn, và tìm kiếm sự thật vĩnh cửu. Hy sinh tình cảm cá nhân để ra đi không phải là một Thái tử ích kỷ chỉ nghĩ đến mình mà cố gắng cứu mình và hàng ngàn chúng sinh đang chìm trong biển khổ, trong đó có cha mẹ và gia đình.
Từ hoàng tử giàu có đến vinh quang tột đỉnh. Ông trở thành một Sa Môn nghèo khó, không tiền không nhà, sống nhờ sự khất thực của dân chúng khắp mười phương. Anh ta không có vị trí xác định. Có hôm ngủ dưới bóng cây cao, hôm sau trốn vào hang núi hoang vắng… Làm gì cũng được, miễn là có thể che mưa che gió cho mình trong một trưa hè oi bức, hoặc là cho anh ngọn gió mát trong đêm râm. đêm. Anh đi chân không, không đội mũ, đi trong cái nắng như thiêu như đốt và gió lạnh, ngày này qua ngày khác, trời rét buốt. Tất cả quần áo chỉ là những mảnh vải vụn được bện lại với nhau chỉ đủ để che thân. Tất cả tài sản chỉ là cái bát đi khất thực. Thực phẩm và quần áo hầu như không được duy trì. Ông dành thời gian và sức lực để tìm kiếm và khám phá sự thật.
Từ khi thái tử xuất gia đi cắt lộc, liên tiếp thất bại suýt chết.
Ban đầu, ông tìm cách học hỏi từ hai vị thầy yoga nổi tiếng thời bấy giờ, nhà tu khổ hạnh alārā kālama và uddaka dāmaputta.
Học hỏi từ nhà tu khổ hạnh alārā kālama, chẳng bao lâu ngài chứng được “no sat hholdu xù”, có nghĩa là ” chokhông có gì”. Đây là trạng thái tâm mà người hành thiền cảm thấy “không có gì” xung quanh mình trong lúc tọa thiền. Giống như sau khi thiền định. Trong quá trình này, tuy lòng không rung động, không rung động trước sự vật (đốiđốii tôing là gì), nhưng có vẫn là ngã và thức nên cả ngã và pháp đều hiện hữu. Do không đạt được mục đích thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết nên Ngài rời bỏ ngôi vị thầy để đi tìm một Pháp khác, mặc dù vị thầy yêu cầu Ngài ở lại hướng dẫn tín đồ.
Chỉ trong ba tuần, anh ấy đã đến thăm người thầy thứ hai của mình, nhà tu khổ hạnh Udaka Maputa, người mà anh ấy cũng được chứng nhận là đã đạt được địa vị cao nhất của hệ thống thiền định du già,” not t , whichcung không phải là tri giác“, nói cách khác, “hoàn toàn khôngen thc đếniuđếni vàvới tôi Môi trường Môi trường. Đồng thời, chánh niệm trong sáng không khởi lên nên hành giả nhiều khi rơi vào ảo giác, Thầy thấy rằng định này không mang lại sự Giải thoát khỏi chấp thủ sẽ không mang lại sự đoạn diệt, an tịnh, tuệ giác và giác ngộ. được chứng nhận bởi vị thầy thứ hai này và đề nghị dạy họ để ông có thể hướng dẫn họ thực hành, ông đã lịch sự từ chối.
Lại nói lời tạm biệt với sư đoàn thứ hai và rời đi.
Lang thang trên xứ Magida, anh gặp một tu sĩ sống ở nước ngoài và bốn anh em đều xuất gia. Cùng với họ, anh bắt đầu làm việc đền tội. Các nhà sư thời đó tin rằng cơ thể phải rất khổ luyện mới cảm thấy đau đớn trong cơ thể và đạt được quả vị của Đạo. Các nhà sư thời bấy giờ tin rằng đây là con đường duy nhất dẫn đến Niết bàn không có con đường nào khác. Trong vòng sáu năm, ẩn sĩ Gotama được biết đến khắp thế giới nhờ sự tu tập ẩn dật của mình. Có lúc tôi như con chó, con bò, có lúc tôi ngủ trên cỏ gai cả tiếng đồng hồ, không tắm rửa, không cạo râu, không ăn không uống, mỗi ngày chỉ ăn một hạt cơm. Đôi khi trong đêm khuya, anh ngâm mình trong dòng sông, nơi nước lạnh thấu xương, hoặc nằm xuống và chịu tuyết phủ trên người. Ngài tự khép mình trong cuộc sống vô cùng khổ hạnh, cho đến một ngày tấm thân lành lặn của Bồ tát chỉ còn da bọc xương, xứng danh đệ nhất ẩn sĩ, được người đời tôn kính như thánh nhân.
Ta khắc nghiệt như vậy, lại tìm không ra một chút manh mối. Đáng tiếc, càng cuồng tín, anh ta càng rời xa mục tiêu tìm kiếm Niết bàn. Kỳ thực lúc đó hắn cũng không biết Niết Bàn là cái gì, chỉ nghĩ nếu như đoạn tuyệt ái dục, thì cũng là một loại phiền não.
Sau 6 năm bị hành hạ về thể xác, dù cơ thể ngày càng suy kiệt, đôi mắt như hai vực thẳm, da dẻ nhăn nheo, sờ vào tóc rụng hết, chân đi không vững, tim không động cho đến khi một Có hôm anh ngất xỉu ở bìa rừng, nhưng may thay một cô chăn cừu đã cứu sống anh bằng một cốc sữa bột.
Khi tỉnh dậy, Ngài bừng tỉnh và nhận ra lỗi lầm của lối tu khổ hạnh. Nhận thấy sự quý giá của thân xác này, Ngài liền từ bỏ khổ hạnh cùng cực này, như Ngài đã từ bỏ trước đây, vì thân thể kiệt quệ, tinh thần kiệt quệ, không thể tỏa sáng. Anh ta sống một cuộc sống vô cùng viên mãn trong cung điện vì anh ta tin rằng cuộc sống tiền bạc cản trở sự tiến bộ về đạo đức.
Từ khi chọn con đường độc cư, trung đạo, không danh lợi, không khổ hạnh, Ngài ý thức mình phải biết quý trọng thân xác này để mượn thân tu hành.
Anh nhớ lại lễ Hadion, khi anh còn nhỏ, khi cha anh và mọi người đang tập trung chơi những trò vui để mừng lễ hội, anh ngồi dưới bóng cây trâm bầu và tham gia lễ hội như thế nào? Càng suy nghĩ về nó, anh càng nhận ra rằng đây là con đường thực sự dẫn đến giác ngộ.
Thầy ngẫm nghĩ về quãng thời gian khổ hạnh mấy năm qua, tuy không đạt được mục đích tối hậu nhưng nhờ pháp môn này mà thầy đã chiến thắng được chính mình và chiến thắng được lòng tham : tài, sà c , nam, thec, thuý. Anh ấy cũng đã thông được tai và có thể nghe thấy các vị thần nói về anh ấy.
Anh nhận ra rằng cơ thể mệt mỏi và tâm trí không thể hoàn toàn tỉnh táo. Bây giờ điều anh cần là sức khỏe thích ứng, điều rất cần thiết cho sự tiến bộ tâm linh, vì vậy anh quyết định không chết đói mà nhận chiếc bánh kheer của cô sujatà. Sau khi ăn uống xong, anh đến gặp năm anh em hải ngoại là đồng tu, như muốn nói với họ rằng anh dự định dừng tu tập, vì điều đó sẽ không giúp ích gì cho mục tiêu giải thoát của anh. Năm nhà sư thất vọng khi thấy ông thay đổi luật đột ngột, và nói: “đạo so cồ Nói trướcở nhàtuyệt vờisang trọng lạ mắt i>luôn i i>Đã nghỉ hưuCó, và có tài liệuvềvà tiết lộ dnghiêm trọng” Sau đó, họ rời bỏ anh ta đến vườn hươu/sarnath.
Năm đồng tu đã rời bỏ anh. Một mình, trong cảnh quạnh hiu, Ngài đi dọc bờ sông Niết Bàn đến một khu rừng rậm khác cách xa làng mạc, chính là Bồ Đề Đạo Tràng ngày nay. Ở nơi hoang vu này, Ngài đã chọn một cây rung lớn, sau này được gọi là cây bồ đề. Ông đặt một cây cột bằng cát đắng và cỏ đắng, quyết chí tu thiền, và thề rằng nếu không chứng được Đạo thì dù tan xương nát thịt cũng không rời cây này. Nghĩ đến phương pháp thở hồi còn bé bây giờ sẽ thử lại, nếu như kinh nghiệm trước đây mà lòng không ngày một tĩnh lặng, nên anh quyết định chọn phương pháp này và thực hành cho đến khi được giải thoát. Anh bắt đầu chú tâm vào hơi thở, rồi buông bỏ hơi thở, hướng về trái tim và tĩnh lặng thiền định, tìm kiếm những chân lý sâu xa để giải quyết những vấn đề phức tạp của sinh, lão, bệnh, tử.
Sau 49 ngày đêm, đạo sĩ Gotama lần lượt nhập vào sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. Khi tâm vị ấy hoàn toàn an định, thanh tịnh, trong sáng, không nhiễm ô, không phiền não, mềm mại, dễ sử dụng, an lạc, v.v. Mọi chuyện xảy ra trong nhiều kiếp trước hiện lên trong tâm thức anh như một cuốn phim. Sinh, tử, tái sinh… hết kiếp này đến kiếp khác… làm người này, làm người kia… làm sao biết được. Đây là sự hiển linh đầu tiên mà anh nhận ra khi bắt đầu đêm giác ngộ, được gọi là cảnh giác của cuộc sống.
Hãy phá vỡ tầng vô minh và nhìn thấy vô lượng kiếp của bạn. Bây giờ ông hướng tâm về sự tri giác (hiểu biết) về hiện tượng sinh diệt của mọi chúng sinh. Với đôi mắt trí huệ thanh tịnh và vi diệu, thấy được sự sống chết của tất cả chúng sanh. Vị ấy biết rằng thấp hèn, sang trọng, đẹp đẽ, xấu xa, may mắn, bất hạnh v.v… đều do hành động tạo nghiệp mà sinh diệt. Trong lục đạo luân hồi: trời, người, a-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục… Vì vậy, Ngài đã chứng kiến cảnh chia ly và đoàn tụ của tất cả chúng sinh bằng thiên nhãn của mình. Trong đêm giác ngộ, con mắt trời lại càng giác ngộ.
Kế đến, Ngài hướng tâm thanh tịnh đến trí tuệ, biết các pháp thế gian đoạn diệt. Bạn biết ”điều nàythật khi đang lái xe,đây làtại sao bạni Drive,Đây làgiáo viênKính gửiDrive, Đây là con đường của con đườngđếncon đườngác“. i> Bạn có thực sự biết “đó là cái tênô nhiễm /i>hay),ô nhiễm /i>hoặc), i> i> Đây là nguyên nhân gây ralánh sáng sauHoặc, đây Đó làbằng tốt nghiệpsự thậtlàcủa họsau Hoặc, Đây là BabyCon đường đáng sợGhi lạiCóSau tôi hoặc”. Đến lượt nó lại nghĩ: “Đây là phibộ não,i>Đây là nguyên nhân của vấn đềĐây Có phải tôiấm ápsự thất vọnglà nguyên nhân của sự lo lắng,đây là tôicon đườnggửiđến chấm đửng não”..v.v. Với suy nghĩ này, tâm vị ấy được giải thoát khỏi tham ái (tham lam ô nhiễm), phiền não (phiền não tham luyến đời) và vô minh phiền não (phiền não tham. Ngu si). Lúc bình minh, anh ta làm chứng rằng đó là bệnh lậu. Rồi anh biết mình đã tự do, và anh nhận ra: “Tái sinhdĐã<d /i >hem henh Hoàn hảo, vdSau khi hoàn thànhcuộc sốngi hien tVângTôi khôngcuộc sốngtôikhông gì khác n ữ a” (Trung Kinh bcấp 1,Dajing saccaka, sthứ 37, trang 541-543) i>
Màng vô minh đã hoàn toàn bị phá bỏ và trí tuệ đã phát sinh. Đêm đã qua, và ánh sáng đã đến. Đạo sĩ Gotama lúc đó 35 tuổi. Sáu năm dài đằng đẵng, không có sự hỗ trợ của thế giới bên ngoài, cũng không có sự hướng dẫn của bất kỳ sức mạnh phép thuật nào, tôi một mình, một mình chiến đấu, và thắp sáng ngọn đuốc của chính mình trong đêm tối. Kết quả là diệt trừ mọi phiền não, chấm dứt mọi tiến trình ái dục, chứng ngộ thực tánh của vạn pháp và trở thành Đức Phật lịch sử.
Đức Thích Ca Mâu Ni là một vị Phật lịch sử. Vì ngàn năm sau, tư liệu lịch sử vẫn còn:
<3
Mẹ: Hoàng hậu Mahamaya (mất 7 ngày sau khi hạ sinh thái tử)
Mẹ kế: Công chúa mahã pajãpati gotami (dì ruột nuôi dạy hoàng tử)
Ngày sinh: Rằm tháng 4 âm lịch Thành hôn với Công chúa Dadu Dala ở Nepal Vườn Lindini: 16 tuổi
29 tuổi, con đầu lòng là: la-hu-la
Xuất cung thọ giới: 8 tháng 2, 29 tuổi
Thành đạo: 8-12-35 tuổi, Buddha Gaya, Ấn Độ
Sứ mệnh: 45 năm
Nhập Niết Bàn: Rằm tháng Hai, thọ 80 tuổi, kusinara, Ấn Độ.
Cho đến ngày nay, vẫn còn di vật (bốn trái tim) ghi lại những nơi Đức Phật khảo cổ người Anh đã đi qua. Cũng như cây bồ đề là nơi Đức Phật đản sinh. Bodh Gaya (cách Ga Gaya khoảng 10 km) là nơi Đức Phật thành đạo. Khu vườn giả, nay là Sarnath ở Ấn Độ, là nơi Đức Phật chuyển pháp luân lần thứ nhất và dạy Tứ diệu đế và pháp tướng vô ngã cho năm anh em kiều bào, như đã đắc quả A-la-hán. Nơi Đức Phật nhập diệt là kusinārā (nay gọi là kasi, cách ga Gorakhpur, Ấn Độ khoảng 40 cây số).
kết luen
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được biết đến là bậc lãnh đạo của các đệ tử Phật giáo trên thế giới. Cuộc đời ông cũng có một truyền thuyết rất hy hữu. Ngài đã để lại một kho tàng giáo lý quý giá. Phật giáo có hơn 800 triệu tín đồ (hơn 7 tỷ người) trên thế giới, và Phật giáo cũng có một hệ thống nghi lễ nhất định.
Như vậy, một mặt, Phật giáo cũng có thể được coi là một tôn giáo, nhưng ở tôn giáo nào thì giáo chủ tôn giáo đó có rất nhiều huyền thoại về cuộc đời, nên chúng ta có một vị Phật huyền thoại. Nhưng ngược lại, trong kinh Phật, có thể thấy ông không thừa nhận mình là giáo chủ mà chỉ truyền phương pháp tu tập của bản thân và kinh nghiệm ông đã trải qua cho những người muốn tu tập. Thoát khỏi khổ đau, nên người ta tôn thờ Ngài như vị Phật lịch sử duy nhất trên thế gian này. Các danh hiệu quý tộc khác chỉ được ban tặng một cách trân trọng bởi những người theo ông.
Nhân dịp Đức Phật đản sinh, chúng ta tưởng niệm người sáng lập đạo Phật với 2 hình ảnh theo 2 truyền thống: lịch sử và truyền thuyết. Mọi truyền thống đều mang lại lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Chúng ta biết rằng khi Đức Phật còn tại thế, Ngài không tự cho mình là thánh thần, cũng không cho mình là thần linh, nên Ngài không ban phước lành cho ai, cũng không cứu độ chúng sinh. Ngài chỉ để lại một lời dạy, qua sự tu tập và hiển nhiên của Ngài, cho những người tin và làm theo. Giá trị của học thuyết trước hết nằm ở các khái niệm thiện chí, nhân từ và bình đẳng. Đó là ở khía cạnh cộng đồng, khía cạnh xã hội. Về mặt tâm lý, Ngài để lại kinh nghiệm tu tập cho con người, giúp con người thoát khỏi gông cùm đau khổ, sống trong trạng thái an lạc, hạnh phúc, đó gọi là Niết bàn.
Đối với giáo lý đạo Phật, Niết bàn là trạng thái vắng lặng và trong sáng, không dính mắc với mọi thứ trên đời này, nhưng vẫn luôn sáng suốt, bởi trí tuệ và tuệ giác đã được khai mở và phát huy. Bất cứ ai kinh nghiệm trạng thái Niết bàn đều được giải thoát khỏi đau khổ. vậy nikhông có gì trên bàncái nàyởnó ở đâu Ngay trong tim và trongđây!
Vài trang không đủ để viết về cuộc đời Đức Phật nên bài viết này xin tạm dừng tại đây. Với lòng thành kính của người đệ tử Phật giáo, chúng tôi chỉ muốn trình bày những kiến thức căn bản, nhân dịp này chúng tôi sẽ cùng quý vị ôn lại tiểu sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trên phương diện lịch sử và tôn giáo. phmởdan, phmởgói 2562. >b>
Nguyện tất cả chư thiên thân tâm an lạc trong ánh sáng của tất cả chư Phật. Yêu con gái như thư viện hoa sen
Nhận xét về bbt tvhs
Đức Phật đã nhiều lần nói về trung đạo. Nếu cho rằng trung đạo là thoát khỏi hai cực đoan vật chất xa hoa và khổ hạnh, thì đó chỉ là thuyết tương đối. Phương tiện cũng không có nghĩa là trung gian giữa hai thái cực của thực hành. Trong Trung Đạo, một sự hiểu biết đúng đắn về lời dạy của Đức Phật là thoát khỏi mọi định kiến, như Ngài đã dạy trong Kinh Chánh Kiến (còn gọi là Kinh Tây Tạng). Chính giữa là nghĩa chính. Chủ yếu có nghĩa là thực. Chánh kiến là chánh kiến, là từ trái nghĩa với từ “thiên kiến”, vượt lên trên sự phân biệt giữa tồn tại và không tồn tại, có và không. Xem thánh thư tại đây: