Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức uyên bác, yêu nước. Ông chuyên về thể loại bút máy. Nét độc đáo trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường nằm ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, kết hợp lập luận sắc bén với tư duy đa chiều, tổng hòa vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý, nội tâm súc tích, tâm huyết và tài hoa. Ai đã đặt tên cho dòng sông này? là một tự truyện đặc sắc, viết tại Huế năm 1981, in trong sách cùng tên của ông.
Tác phẩm miêu tả cảnh sắc thiên nhiên của sông Hương, sự gắn bó của dòng sông với Huế và lịch sử, văn hóa của đất nước. Nó thể hiện niềm tự hào chân thành và sâu sắc của tác giả về dòng sông Hương, về xứ Huế yêu dấu, về quê hương.
Sông Hương nhìn từ đầu nguồn là dòng sông có mối liên hệ sâu sắc với Trường Sơn. Trong mối quan hệ đặc biệt này, sông Hương như một bài ca rừng cổ, với nhiều giai điệu hùng tráng, dữ dội: khi thì gầm rú dưới bóng cây đại thụ, khi thì ào ạt tuôn trào, khi thì quay cuồng như một cơn lốc. Giữa rừng hoa đỗ quyên đỏ rực trải dài hàng dặm, dịu dàng và say đắm lòng người.
Qua hình tượng nhân hóa, sông hương như một cô gái giang hồ tự do, phóng khoáng, dũng cảm không sợ hãi, với tâm hồn tự do, trong sáng. Tác giả cho rằng nếu chỉ chú ý đến vẻ bề ngoài của thành phố mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ trong nguồn thì sẽ khó cảm nhận hết vẻ đẹp trong sâu thẳm của sông Hương, bởi nó có không ham muốn. tiết lộ.
Vì vậy, ở thượng nguồn, sông Hương có vóc dáng khỏe khoắn, toát lên vẻ đẹp mạnh mẽ, hoang dã và cá tính. Khi dòng sông Hương chảy vào thành phố Huế mang đến nhiều cảnh đẹp đa dạng, gắn liền với đặc trưng văn hóa, không gian của thành phố Huế. Trước khi trở thành người tình dịu dàng và thủy chung của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian nan và thử thách. Trong nhãn quan tinh tế và lãng mạn của tác giả, dòng chảy của cả dòng sông giống như một cô gái tỉnh táo đi tìm tình yêu đích thực trong một câu chuyện tình cổ tích.
Việc miêu tả dòng sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại ô thể hiện phong thái và tài năng của tác giả. Người đọc sẽ khó cưỡng lại sức hút toát ra từ hàng loạt động từ miêu tả dòng chảy sinh động của các địa danh khác nhau ở Huế. Giữa cánh đồng hoa dã quỳ đầy ắp, sông Hương là “người con gái đẹp trong giấc ngủ”; nhưng vừa ra khỏi núi, như một nàng tiên thức dậy, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và khát khao tuổi trẻ trong “nối tiếp chảy” và “thoáng qua”. , vẽ một vòng cung thật tròn, ôm lấy chân núi Thiên Mục, rồi “vượt qua”, “đi trong dư âm”, “lơ lửng giữa hai ngọn đồi sừng sững như lâu đài”…
Mạnh mẽ và mềm mại cùng tồn tại, đôi khi “mềm mại như lụa” khi dòng sông Hương đi ngang qua. tam thai, Lựu nói; có lúc đi qua những đồi núi phía Tây Nam thành phố, có lúc soi bóng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, có lúc đi qua những lăng tẩm, đền đài mang theo vẻ kiêu hãnh. âm thanh, đôi khi mang một vẻ đẹp Tĩnh Lặng. Ẩn mình trong rừng thông, nó rực rỡ, tươi tắn và trẻ trung cho đến khi bắt gặp “tiếng chuông tháp Thiên Mục bên kia, tiếng gà gáy làng quê miền Trung”…
Hai bút pháp kể và tả trong bài được kết hợp nhuần nhuyễn với nhau, với góc nhìn thú vị và sự trù phú, hài hòa của xứ Huế, đã làm nổi bật một cách tự nhiên một dòng sông nước hoa kiều diễm.
Sông Hương chảy qua xứ Huế như gặp lại thành phố thân yêu, sông Hương “vui bên bãi xanh ngoại ô Kim Long”, dòng sông “vẽ một đường thẳng tắp, quay theo hướng tây nam đông bắc” , để rồi “về phía cồn Hến khẽ cúi đầu” làm mềm dòng sông như một tiếng “vâng” thay cho lời yêu”. ., nhưng trong cách thể hiện tài hoa của tác giả, sông Hương làm cho người ta cảm nhận. Hoài cổ, sông Hương và các nhánh của nó, phác thảo những đường nét tinh tế của cố đô; qua con đường cảm thụ âm nhạc, sông Hương “đẹp như một vũ điệu chậm”, Chậm rãi, sâu lắng, trữ tình, với ánh mắt háo hức của một trái tim cháy bỏng, sông Hương là người tình dịu dàng, thủy chung. Điều đó thể hiện qua một khám phá thú vị của tác giả: “Rời kinh thành, sông Hương quay về hướng Bắc ôm lấy nhau quanh năm Bangdao, mơ màng trong sương, xa thành phố để thấy nhớ nhung. Đi bộ giữa những cây xanh. Rặng tre trầu ngoại ô Vi Đà, rồi như sực nhớ ra điều chưa kịp nói, bỗng đổi hướng, rẽ đông tây, gặp thành phố lần cuối nơi góc phố cổ của Baorong.Và như Theo tác giả, bước ngoặt bất ngờ giống như một sự “vướng mắc từ lâu”, và dường như có một “sự tán tỉnh mơ hồ” của tình yêu…
Sông Hương gắn liền với lịch sử dân tộc mang vẻ đẹp sử thi và ghi dấu bao thế kỷ vinh quang bởi nó là dòng sông biên cương xa xôi của đất nước vua chúa hùng mạnh. Được đặt tên là Linh Giang (sông thần thánh) trong sách Địa chí chí của Nguyễn Trãi, “sông Vĩnh Châu đã chiến đấu bảo vệ biên cương phía Nam của nước Đại Việt thời Trung đại”, “Nó phản ánh rực rỡ Phú Xuân, kinh đô của thế kỷ XVIII anh hùng Nguyễn Huệ”; “Nơi đây đã trải qua lịch sử bi tráng của thế kỷ 19 với máu của cuộc khởi nghĩa”, đã chứng kiến thời đại mới với nhiều kỳ tích của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và hai cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại sau đó. Cái này…
Dòng sông thơm ngát đời thơ này là chứng nhân kiên nhẫn của những thăng trầm của cuộc đời. Nhưng cái hay của việc giữ cho dòng sông bình dị và khác thường là thế này: khi nghe tiếng gọi, nó biết hiến thân lập công, rồi lại trở về đời thường như một người con gái dịu dàng của dân tộc. Có lẽ chính vì vậy mà Tương Hà không bao giờ lặp lại trong cảm hứng sáng tạo của các nghệ sĩ.
Có thể nói, điều làm nên nét đặc sắc của đoạn văn này chính là tình yêu non sông được thể hiện qua sự sáng suốt của một nhà văn trí thức tổng hòa vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lý, văn chương một cách tao nhã, hàm súc, tinh tế và tinh tế.
Trích trong bài “Ai đã đặt tên cho sông Hương”, qua sự quan sát tinh tường bức tường ngọc cung đình bên sông Hương đã khơi dậy tâm hồn người Huế – vẻ đẹp xứ Huế. Ông xứng đáng là nhà thơ của thiên nhiên, nhà từ điển sống động, nhà văn đầy lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Chữ ký giúp bồi dưỡng tình yêu và lòng tự hào về non sông, đất nước.