13 bài phân tích đầu tiênhoàng lê nhất thống chí siêu hay, có 2 dàn ý chi tiết. để giúp đỡ các bạn trong lớp. 9 cảm thấy xúc động sâu sắc hơn trước chiến công bứt phá thần tốc của nhân vật chính Nguyễn Huệ.

Đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí cho ta thấy tinh thần dũng cảm và lòng yêu nước mạnh mẽ đáng học tập và noi theo. Lòng yêu nước là sức mạnh to lớn để đánh bại mọi kẻ xâm lược. Mời các bạn chú ý theo dõi bài soạn và học tốt hơn trong Văn 9.

Tóm tắt phân tích tác phẩm của Hoàng Lê nhất thống chí

Đề cương 1

I. Giới thiệu

– Trong văn học cổ Việt Nam, “Hoàng liên nhất thông chí” được coi là tác phẩm tiêu biểu cho dòng tiểu thuyết chữ Hán của trường phái Ngô Gia Văn. Tác phẩm là bức tranh cuộn hiện thực khổ lớn về xã hội phong kiến ​​Việt Nam 30 năm cuối thế kỷ XIX và những năm đầu thế kỷ XIX. Hồi thứ mười bảy của tác phẩm ghi lại cuộc đời thối nát của nhà Lê Trịnh và diễn biến của phong trào Tây Sơn với hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ trong nội chiến và giặc ngoại xâm.

– Hồi 14 của tác phẩm kể về việc Nguyễn Huệ bắc phạt lần thứ ba, lập nên kỳ tích hiển hách nhất trong lịch sử, chỉ trong 10 ngày mà dẹp tan 20 vạn quân. chương lịch sử dân tộc.

Hai. Văn bản

1. Trước hết, Quảng Trung là hình ảnh của một vị hoàng đế anh minh, sáng suốt và quyết đoán.

– Trí tuệ của Nguyễn Huệ nằm ở chỗ xét đoán tình hình, quyết định thành công:

+ Khi 200.000 quân đánh Bắc Hà, chiếm thành Thăng Long, Nguyễn Huệ chỉ là Bắc Bình Dương ở Phúc Xuân. Sau khi nhận được tin báo, Ruan Hui quyết định “chủ động dẫn quân ngay lập tức”, nhưng trước khi các tướng bàn bạc, ông đã nhận ra sự cần thiết của việc lên ngôi hoàng đế. Ở địa vị của Nguyễn Huệ, tiếp thu lời khuyên của tướng sĩ, biết lắng nghe và thực hiện những điều trái ý mình là một loại trí tuệ, trí tuệ của một người chỉ huy biết điều nên làm, có thể mang lại lợi ích chung cho chính nghĩa. Vì vậy, chỉ trong một ngày, Nguyễn Huệ đã làm được hai việc trọng đại: lên ngôi, nắm quyền cai trị Quang Trung, và ngày 25 tháng Chạp, lập tức lệnh cho mẹ xuất quân. Lên ngôi vua vào thời khắc quan trọng ấy đủ thấy trí tuệ của một người có công với nước.

+ quang trung còn là một nhà chiến lược khôn ngoan trong việc đánh giá tình thế giữa bạn và thù. Hãy nghe ví dụ của lượng trung trước khi hướng về phía bắc: “Trong bất kỳ vũ trụ nào, các vì sao đều rõ ràng…”. Và để khích lệ tinh thần yêu nước của các tướng sĩ, đồng thời nêu bật công lý của tôi và giặc, ông đã đề xuất một hệ thống song hành liên hoàn: mỗi triều đại phong kiến ​​phương bắc gắn với một nhân vật kiệt xuất, mà tiêu biểu là phương nam. Sau đó giúp các tướng lĩnh nhận ra sự thật “diệt quan” của lão tướng quân và sự dã tâm, hiếu chiến của quân Thanh. Vừa ca ngợi truyền thống đánh giặc của tổ tiên, ông vừa tế nhị động viên các tướng sĩ, kêu gọi họ “người có trí, có nghĩa, cùng ta chung sức, lập nên công lớn”. lời lẽ phân tích của minh quân rất rõ ràng, phép tắc chặt chẽ gợi nhớ đến “đại tướng quân” ​​của Trần quốc Tuấn và “nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt. Có thể nói, Quảng Trung rất sáng suốt khi nhìn rõ thực chất của kẻ thù, đồng thời cũng rất khôn ngoan trong việc khơi dậy lòng yêu nước nên phần lớn quân sĩ “xin tuân lệnh không dám xao nhãng”.

– Trung dung còn là sự quyết đoán của mưu lược, sự quyết đoán của việc nhận ra điểm này, ở vị trí hoàng đế, nhận ra điểm này là một điều vô cùng quan trọng. Bằng cách phân tích tội ác của Wu Wensu và Pan Wenlan, những người được cho là “phá binh diệt tướng”, Guangzhong biết rõ năng lực của họ nên nắm rõ các tướng này. Họ chỉ biết giết kẻ thù khi họ gặp nhau, và họ không có khả năng làm điều đó.” Vì vậy, ông đã sắp xếp ngô và đồng ý hỗ trợ họ. đã an ủi, động viên họ “hãy biết chế ngự lòng kiêu ngạo chủ quan của địch”. Cách biết người, cách dùng người, như trí khôn, chỉ có ánh sáng. Nhờ sự sáng suốt, thấu hiểu cấp dưới mà ông mới phong thái đúng đắn, vị anh hùng này đã tập hợp và tổ chức một đội ngũ giống như lão Li Li. Sức mạnh của:

“Tứ phương một nhà, có tre cắm cờ phấp phới, lòng vợ thủy chung, chén rượu nước sông”

– Trong ánh sáng trung tâm, chúng ta còn thấy một cái nhìn sâu sắc có giá trị, đó là tầm nhìn xa. Mặc dù quân Thanh đóng quân ở hầu hết Bắc Hà, nhưng do quá tự tin nên chiến lược tấn công của họ là “đuổi quân Thanh trong mười ngày”. Nhưng đây không phải là mục tiêu lớn, mục tiêu lớn của sự trung lập là “lời nói khôn ngoan để bảo vệ quân đội”, vì vậy Ruan Hui đã khôn ngoan lựa chọn ngô nghê, sau khi chấp nhận sẽ đối phó với nhà Thanh. Nhưng tầm nhìn của ông vượt xa điều đó. Cưỡi voi trước chiến tranh, Quảng Trung lập kế hoạch cho mười năm tới, thật là một nhà chính trị có học, một nhà thông thái, một anh hùng thiên tài với tầm nhìn chiến lược vĩ đại.

* Qua việc phân tích thế trận giữa ta và địch, qua việc vạch ra kế hoạch 10 năm dựng nước Đại Việt, chúng ta có thể chắc chắn rằng Quang Trung là một người anh minh, sáng suốt. Đây chính là điều mà người thông minh cần, nhưng không phải ai cũng có.

2. Trong tác phẩm của tác giả Wu Jiawenpai, nhân vật anh hùng thường dân cũng mang vẻ đẹp của một vị tướng với tài nghệ siêu phàm.

+ Tài thao lược của Nguyễn Huệ ở hồi 14 là sự nhanh nhẹn của binh pháp và thiên tài dùng binh. Dưới sự chỉ huy sáng suốt của Quảng Trung, quân đội của ông ngày càng lớn mạnh. Ông đã sáng suốt đánh giá thế địch rồi chớp thời cơ tổ chức chiến dịch thần tốc có một không hai trong lịch sử. Tài lãnh đạo và tài cầm quân của Quang Trung thể hiện ở thần tốc bất ngờ.

+ Tài thao lược của Quang trung thể hiện ở tốc độ điều binh khiển tướng, nhưng chúng ta vẫn không khỏi ngạc nhiên: sao nguyễn huệ có thể vượt qua quãng đường từ phú xuân đến Thăng Long, một quãng đường hơn bốn trăm dặm, nhanh như vậy? Bốn ngày, tốc độ chớp nhoáng, tốc độ thần kỳ của chế độ quân dịch: một người ba bữa, thật lạ lùng khi có thể tổ chức cho các chiến sĩ ăn mừng lễ hội mùa xuân và sau đó đăng một câu chuyện ngụ ngôn về chủ quyền quốc gia. Cũng đủ chia 5 quân đánh Thăng Long trong một ngày, dám đánh tan quân Thanh ngày mồng 7 tháng giêng. Tất cả công việc vĩ đại này được thực hiện chỉ trong vài ngày. Không phải thiên tài không làm được, mà là ánh sáng kỳ tích.

+ Tài thao lược của Quang Trung còn thể hiện ở việc chọn thế đánh bất ngờ, biết rõ tính kiêu ngạo, liều lĩnh của địch, tổ chức đánh ngay, biết chọn tướng, bày kế đánh, biết phối hợp giữa các bên. cánh. quân đội. Kết quả của chiến lược thể hiện rõ ở các đồn hà hồi, ngọc hồi khiến quân thanh không thể lùi bước. Cuộc tấn công bất ngờ táo bạo đến nỗi các nguyên lão không hề hay biết khi quân Tây Sơn tràn vào kinh thành Thăng Long. Vì vậy, khi các tướng lĩnh nhà Thanh nhìn thấy quân đội Tây Sơn, giống như nhìn thấy “tướng từ trên trời rơi xuống, binh từ dưới đất lên”. Đại bại của quân Thanh là kết quả tất yếu (so với Đa-ni-ên)

“Thành phố Danxia đầy xác chết…”

Quảng Trung và nghĩa quân của ông đã viết thêm một mốc son chói lọi trong trang sử anh hùng dân tộc.

3. Hình ảnh Quang trung – chủ nghĩa anh hùng.

quang trung cưỡi voi chỉ huy trận đánh thần tốc mà thần thái lại điềm tĩnh khác thường. Quang Trung tự tin khẳng định, việc đánh đuổi quân Thanh trong 10 ngày thể hiện sự khôn ngoan và tinh thông trong mọi tình thế. Phong thái điềm tĩnh, tự tin cùng với tài thao lược thể hiện vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng.

Dưới đoạn trích sử thi anh hùng ca, ta có thể bắt gặp hình ảnh Quảng Trung mặc áo bào đỏ cưỡi voi dẫn đầu đội quân có chữ “nhất” tiến vào Thành Long.

Quân ba phương tiến lên hoan hô.

– Trong lịch sử phong kiến ​​Việt Nam, có nhiều vị vua đích thân cầm quân đánh giặc, nhưng các ông đều ngồi chỉ huy, hoạch định chiến lược, chỉ huy trận đánh, chủ động tiến công. Nơi có mũi tên, chỉ có một ngọn đèn. Trong ánh ban mai mờ ảo và tiếng súng rền vang, Người đã tạc nên một hình ảnh chiến đấu đẹp đẽ, khí phách anh dũng. Hình ảnh đó còn được sử sách ghi lại “ngày mồng 5 tháng giêng năm Đinh Dậu”, Quảng Trung áo bào đỏ pha khói đen. Quang trung đã trở thành hình tượng cao đẹp của những người anh hùng dũng cảm trong văn học cổ đại Việt Nam và là tượng đài bất tử trong nền văn học cổ đại dân tộc.

– Các tác giả của phái Ngô Gia Văn đều là cựu thần và có lòng với nhà Lý, nhưng họ không thể làm ngơ trước chiến công của vị vua Lý yếu ớt. Trung là niềm tự hào của cả dân tộc. Họ là những người tôn trọng sự thật lịch sử và có tình cảm dân tộc nên đã viết về người anh hùng dân tộc Quảng Trung một cách chân thực và đẹp đẽ.

Ba. Kết luận

– Trong tác phẩm thứ 14, hoàng lê nhất thống chí là đóng góp vô giá của tác giả vào nền văn học hào hùng của lịch sử dân tộc bằng cách miêu tả vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng. Quang trung. Hình ảnh trung tâm trong đoạn trích giống như ngọn đèn trong những phút đầu còn chập chờn nhưng vẫn sáng, cao dần, tỏa rộng, lan tỏa, rồi khắc ghi vẻ đẹp của trí tuệ, trí tuệ và tài hoa vào lòng ta. Thao lược hơn người và có sức chịu đựng lớn hơn người.

– Vẻ đẹp của quang trung trong khúc khải hoàn ca còn in đậm trong những câu thơ của thi nhân đương thời Ngô Ngọc Du:

“Đâu địch dữ, vua giận, xông lên như trời, ai dám…”

Đề cương 2

I. Giới thiệu:

  • Giới thiệu khái quát những đặc điểm tiêu biểu nhất của nhóm tác giả Ngô gia văn phái: đây là một nhóm tác giả thuộc họ ngô
  • Giới thiệu và trích đoạn tiểu thuyết “Huang Liyi Tongzhi”: Đây là một cuốn tiểu thuyết mô tả chân thực và toàn diện những xáo trộn xã hội trong giai đoạn lịch sử của đất nước, được trích từ hồi thứ ba. 14 dẫn đến sự miêu tả độc đáo về vua Quảng Trung và sự bại trận của các tướng nhà Thanh và số phận bi thảm của vua tôi Lý Siêu Thông.

    Hai. Nội dung bài đăng

    1. Hình tượng anh hùng áo vải Quảng Trung

    * Người quyết đoán

    • Nghe tin giặc chiếm Thăng Long, ông không nao núng dẫn quân ra đi
    • Trong hơn một tháng, nàng đã làm được rất nhiều việc lớn: “tế thiên hạ”, lên ngôi hoàng đế, đích thân dẫn quân bắc phạt
    • * Đầu óc minh mẫn, sắc bén

      – Phân biệt địch ta rõ ràng, sắc bén

      • Quảng Trung đã chỉ rõ âm mưu và tội ác của quân xâm lược nước ta: “Mấy lần cướp nước, giết dân, cướp của”…
      • Truyền cảm hứng cho những người lính cấp dưới bằng tấm gương dũng cảm
      • Chắc có người phóng đại sẽ đổi ý, nên mới có câu vừa chân thành vừa nghiêm khắc với quân nhân
      • – Trí tuệ và sự nhạy cảm để đánh giá điều này:

        • Trong cuộc hội quân tam điệp, ta thấy quang trung sáng suốt nhận định tình hình, biểu dương các bộ, các vùng
        • Đối với ngô, vâng, anh ấy đánh giá cao sự “đa năng”
        • ⇒Dùng người thông minh

          * Người có tầm nhìn xa và chiến lược hơn người

          – Tầm nhìn:

          • “Chiến lược tấn công có tính toán trước” đã được xác định ngay từ đầu khi ra quân
          • Nói chuyện với tôi trên lưng ngựa về chính sách đối ngoại và kế hoạch hòa bình 10 năm của chúng tôi
          • – Bóng bẩy hơn hành quân nhanh mà đoàn quân vẫn gọn gàng

            2. Đại bại quân Thanh

            • Hình ảnh một nhà sư kiêu ngạo, tự mãn, chủ quan kéo quân vào Thăng Long không chút đề phòng ⇒ tướng bất tài
            • Đại quân Tây Sơn kéo đến, “tướng quân sợ mất mật”, ngựa chưa kịp lên yên, người chưa kịp mặc giáp…
            • Quân xâm lược hoang mang trước trận chiến, xin đầu hàng hoặc lần lượt tháo chạy, tàn sát lẫn nhau…
            • ⇒ Kể xen lẫn cụ thể, miêu tả sinh động, miêu tả khách quan

              3. Số phận bi đát của vua tôi phản nước hại dân

              • Vạn thế thay đổi, Lý Triều Đông đến đây “làm ăn sinh sống”, vớt thuyền người khác qua sông, mấy ngày không ăn, may mà có người thương cho ăn, cho ăn. anh ta theo cách. trốn thoát
              • Để đuổi kịp các bậc trưởng lão, vua tôi chỉ còn biết nhìn nhau khóc uất hận
              • Ở Trung Quốc, vua cạo đầu, tết ​​tóc, ăn mặc như một kẻ man di, cuối cùng bỏ xương nơi xứ lạ
              • ⇒ Phận của một nguyên thủ quốc gia là phản nước, hại dân

                Ba. Kết luận:

                • Tóm tắt những đặc điểm nghệ thuật thành công của tiểu thuyết chương hồi: tính hiện thực, cốt truyện sinh động, tính cách rõ ràng…
                • Bài học nhận thức và hành động qua việc trình bày suy nghĩ của em về hình ảnh Nguyễn Huệ, chân dung kẻ thù, quan vua
                • Phân tích công việc của Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 1

                  Mặc dù chiến tranh đã qua đi nhưng trong sử sách nước nhà vẫn còn in đậm dấu ấn của trận Ngọc chiến, Đại thắng thần tốc, vang dội của Đông Đại khiến chúng ta nhớ đến một vị vua tài ba, dũng lược đó là Quang Đại vương. trung. Tuy tỉ lệ quân số chênh lệch nhưng nhờ có các tướng giỏi, có tài điều binh khiển tướng đã giúp quân dân ta đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Vì vậy, Ngô Gia Văn, tác giả của “Hoàng lịch nhất thống chí” đã tái hiện tình hình nước ta trong khoảng 30 năm cuối thế kỷ 18, đặc biệt qua hồi 14 mà chúng ta đã xem. Đánh bại đội quân phản bội.

                  Ngô gia văn phai gồm hai tác giả chính là Ngô Thị Chỉ và Ngô Thị Du. Ngô thì Chi (1753-1788) là em của Ngô, làm quan dưới thời vua Lê Chiêu Thống và tuyệt đối trung thành với nhà Lê. Có nhiều nguồn cho rằng ông là tác giả của 7 hồi đầu của “Hoàng Lê nhất thống chí”. Maize Suidu (1772-1840) là chú của Maize, tuy học giỏi nhưng không thi đậu môn nào. Ông làm quan trong triều Nguyễn đến năm 1827 thì về hưu và viết tiếp 7 hồi “Hoàng Lai Nhất Tông Chí”. Đoạn trích mà em được biết là hồi 14 trong vở “Hoàng thất nhất thống chí” tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ một tay diệt quân, đồng thời thể hiện sự thất bại của tướng và quân Thanh. Là fan BTS. Số phận bi thảm của vua tôi Lê Chiêu Thống.

                  Trong tác phẩm, Nguyễn Huệ, vị vua của Quảng Trung được khắc họa một cách sinh động, với tài cầm quân “trăm trận trăm thắng”, mưu trí quyết đoán và nhiều phẩm chất ưu tú khác. Ông sẵn sàng lắng nghe ý kiến ​​của cấp dưới, thấu hiểu lòng dân, lên ngôi lấy lòng dân rồi bắc phạt. Khi đến Nghệ An, ông hỏi triều thần về những cái được và mất trong chuyến đi của mình, cho thấy rằng mọi việc ông làm đều vì dân nên việc nhỏ nhất cũng phải tuân theo ý kiến ​​của dân. Khi cống phẩm trả lời: “Công chúa sẽ xuất chinh trong chuyến đi này, và quân Thanh sẽ bị đánh bại trong vòng mười ngày.” Vua Quang Trung “vui mừng” vì quyết tâm của ông đã được mọi người công nhận. quyên tặng. Ông liền sai quân đi đón, ít lâu sau nhà vua có “hơn một vạn quân tinh nhuệ”. Nhờ đầu óc nhanh nhạy, thông minh hơn người, nhạy bén với tình hình, tài thao lược tuyệt vời, ông đã thuyết phục quân sĩ “không dám hớ hênh”. Khi nói chuyện với những người lính, ông cho họ ngồi xuống để cho thấy rằng không có sự phân biệt giữa vua và lính. Với lịch sử của các triều đại đã qua, để cho kẻ sĩ thấy được nỗi thống khổ của nhân dân dưới ách thống trị của ngoại bang, Người không quên rằng phải trừng trị những kẻ phản bội, để kẻ sĩ càng đoàn kết, càng quyết tâm chống giặc. Với quyết tâm chiến thắng, tầm nhìn xa và khát vọng hòa bình, quân đội Núi Xanh đã giành chiến thắng “tốc chiến” trong trận Yushi. Mãi đến khi vào kinh thành Thăng Long làm lễ mùng 7 Tết, lời hứa của ông mới được chứng minh bằng khả năng điều binh khiển tướng như thần. Ông bí mật hành quân, bao vây thôn Hạ Hà, dùng rơm ướt tấn công thôn Dư Hải, khiến quân Thanh bất ngờ, nghe tin bất lực, chỉ biết giẫm đạp lên nhau mà chạy. Từ những chi tiết trên có thể thấy, Quảng Trung Vương là một anh hùng dân tộc dũng cảm, tài năng và nhân ái, một thiên tài quân sự, linh hồn của chiến thắng vĩ đại của Khởi nghĩa Tây Sơn.

                  Khi quân khởi nghĩa Lâm Sơn giành được thắng lợi cũng là lúc thất bại thảm hại của các tướng lĩnh nhà Thanh và cái kết bi thảm của bè lũ phản quốc hại dân Lý Siêu Đồng. Trong quân Thanh có những tướng bất tài, cả tôn thất, luôn kiêu căng tự mãn, chủ quan kéo quân đánh thành Thăng Long, “người chưa kịp mặc giáp” đã bỏ chạy tán loạn. sự vội vàng. Binh vô ích, quân Tây Sơn tấn công chạy trốn, giẫm chết nhau, tham sống sợ chết, đánh nhau qua cầu, đẩy nhau xuống nước, chết rất nhiều, sông nhị hà bị tắc không chảy được. Vua tôi là Lý Triều Tông nghe tin quân Tây Sơn đuổi theo, chỉ biết chờ đợi, cầu nguyện, nương nhờ quân Thanh mà trốn thoát, bèn lên thuyền chạy trốn. Điều này đặc biệt đúng với Wang Li Chaotong của tôi, và thậm chí là sự sỉ nhục và cái kết đáng khinh bỉ của cả một đất nước phản bội và cướp bóc.

                  Tác giả chọn trình tự kể theo diễn biến của các sự kiện lịch sử, ngôn ngữ kể chân thực, cảm động, thể hiện thái độ của mình đối với các đối tượng khác nhau như vua Quảng Trung, vua Thanh Khánh, vua Lý Triều Tông. Tiết tấu nhanh, dồn dập, hàm chứa niềm hân hoan trước chiến công hiển hách của Quảng Trung Vương và sự thất bại tan nát của quân thù. Tiết tấu chậm hơn một chút, không giấu vẻ tiếc thương khi miêu tả chi tiết cuộc chạy trốn của vua Thông nhà Lê, bởi họ là cựu thần nhà Lê. Đoạn trích thể hiện quan điểm lịch sử đúng đắn và tấm lòng yêu nước thương dân của tác giả qua đó lên án lũ phản bội, cướp nước.

                  Qua đoạn trích trên, tác giả đã vẽ nên một bức tranh “hoàn mỹ” về người anh hùng vừa oai phong, lẫm liệt, vừa tài giỏi. Đây cũng là tấm gương sáng để chúng ta học tập và thi đua yêu nước dũng cảm. Lòng yêu nước là động lực mạnh mẽ giúp chúng ta đánh bại mọi kẻ xâm lược.

                  Phân tích tác phẩm Hoàng lê nhất thống chí – văn mẫu 2

                  hoàng lê nhất thống chí, sách Ngô gia thôn thanh oanh tả hữu, cuốn sách ghi lại nhiều sự kiện lịch sử, trong đó có việc trung đại Quang Vương đại phá hơn 30 vạn quân, tác giả sản xuất đưa con người trở về quá khứ, Ngắm nhìn cuộc sống và xã hội thời đó, đắm mình trong vinh quang và những chiến công hào hùng, hòa mình vào không khí tưng bừng của lịch sử ấy.

                  Ngô gia văn phái tái hiện chân thực nhân vật lịch sử quang trung, người có công lớn, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước anh hùng dân tộc, quang trung hiện lên trong tâm trí mọi người. Một con người vẹn toàn, hy sinh vì nước, vì dân tộc, khi nghe tin quân Thanh Bắc phạt, ông đã thấy trước vận mệnh của dân tộc ta. Tướng quân nhà Thanh, với sức mạnh của tôi, lên ngôi hoàng đế, đích thân dẫn quân lên phía bắc để đề phòng nguy hiểm, anh ta tài năng và tháo vát, hiểu lòng quân sĩ và hiểu lòng quân sĩ .khao khát. Không chỉ vậy, ông còn có tầm nhìn xa, biết chọn nhân tài, ở địa vị cao nhưng vẫn lắng nghe ý kiến ​​từ nhiều phía để nhìn nhận mọi việc một cách thấu đáo.

                  Tài thao lược đặc biệt của Quảng Trung Nhân thể hiện ở cách ông cầm quân, cách ông dẫn quân nhanh chóng tấn công lên phía bắc, cùng với chiến thuật cực kỳ tinh vi được hình thành từ trước, không có sơ hở nào để tấn công Yugang, và ông tập hợp mọi người lại với nhau Ý tưởng khi chúng tôi cùng nhau là lấy rơm đập đầu vào đầu địch cho chúng hoảng sợ, giẫm đạp lên nhau mà chạy về nước trước khi chúng lộ diện. Quân ta bất ngờ, tính chất bất ngờ có ý nghĩa vô cùng quan trọng làm nên chiến thắng đó, chính sự chủ quan kiêu ngạo, coi thường nhân dân của quân ta đã dẫn đến thất bại trước quân Thanh. Khi quân Thanh còn ngạo nghễ, bất kể tướng hay binh, cũng là lúc quân đội ta đang tính toán kỹ lưỡng, thay đổi từng ngày, không coi thường quân thù. tại sao chúng ta có thể giành được chiến thắng tiếp theo. Các nhà văn của trường phái Ngô Gia Văn, trong khi ca ngợi trí tuệ và sự chính trực của Quang Chung, cũng đã tái hiện rất tài tình bi kịch tủi nhục tột cùng của các vua quan, tướng lĩnh, thượng thư và những kẻ tham nhũng, nhu nhược, trong tinh thần của triều đại Lê Triều Thống, những vô ích Theo thuyền đánh cá về phía bắc để ẩn náu, những người khác không kịp mặc áo giáp chạy trốn, và đã quá muộn để chuẩn bị ngựa.

                  Các tác giả đã tạo nên tấn bi kịch vừa hài hước vừa đáng xấu hổ của chế độ thối nát bằng những nét bút tinh tế, đồng thời ca ngợi trí tuệ của Quảng Trung Vương và tinh thần dân tộc của quân dân ta. Gan góc, phản ánh vinh quang của những trận đánh oanh liệt và những chiến công trong một giai đoạn lịch sử không thể nào quên.

                  Phân tích công việc của hoàng lê nhất thống chí – mẫu 3

                  Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm của Ngô gia văn phả viết bằng chữ Hán. Tác phẩm là bản ghi chép về sự thống nhất của Lê Siêu. Đoạn trích hồi thứ mười bốn tái hiện chân thực dáng vẻ anh hùng, dũng cảm của nhân vật chính Mitsutaka. Đồng thời, nó cũng cho thấy sự thất bại của Wang Li Chaotong của tôi và băng cướp của hắn.

                  Trong số các tác phẩm, nổi bật lên hai bức chân dung chính: chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ và chân dung tên trộm cướp Lý Siêu Đồng I. Với mỗi nhân vật, tác giả lại có cách khắc họa riêng rất tài tình, không những đảm bảo tính chân thực, khách quan mà còn thể hiện được cái tôi cá nhân của tác giả.

                  Trước hết, về nhân vật nam chính, anh ấy là một thủ lĩnh quyết đoán với đầu óc minh mẫn. Vừa hay tin quân Thanh kéo đến Thăng Long, ông vội lập chí lên ngôi, để cho tên Chính Vũ dẫn quân tiến lên phía bắc. Đối nhân xử thế nhanh nhẹn, quyết đoán, có tầm nhìn xa, vì không ở ngôi, danh không chính, lời nói không thuận, khó làm nên việc lớn.

                  Lên ngôi cũng là để lấy lòng thiên hạ nên ông lập tức dẫn quân bắc phạt. Trên đường đi về phía bắc, anh đã gặp Ruan Phi nương nương, một người tài ba và mưu lược, người tôn trọng và làm theo kế hoạch của Ruan Phi nương nương. Ông là người tôn trọng và ủng hộ người tài. Khi đến Ngee’an, ông đã chiêu mộ hơn 10.000 binh sĩ tinh nhuệ và bắt đầu một cuộc duyệt binh hoành tráng. Trước khi dẫn quân ra bắc, họ còn đọc lời dụ binh, vạch trần âm mưu xâm lược thâm độc của nhà Thanh và vạch trần bộ mặt thâm độc, tàn ác của kẻ thù. đồng thời nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật của bộ đội.

                  Những lời nói của anh ấy như sấm sét và đóng một vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy tinh thần. Ông cũng là một người đàn ông rất thông minh với tầm nhìn rộng. Quang Trung là người có đại tài, ông đã dự đoán được tình thế của quân địch, lập kế hoạch tấn công và quyết định trong mười ngày sẽ chiếm lại thành Thăng Long. Ông hành quân khẩn trương, xuất phát từ Phú Xuân ngày 25 tháng Chạp, đến Tam Điệp Ninh Bình ngày 30.

                  Ngày cũng như đêm, 30 người bắt đầu hành quân về Thăng Long. Đó thực sự là một hành động nhanh chóng, chưa từng có trong lịch sử của đất nước. Không những thế, ông còn nhìn rõ bản chất của kẻ thù, một nước lớn, sau khi thua, nhất định sẽ quay lại báo thù. Vì vậy, sau chiến thắng của mình, ông đã có một kế hoạch ngoại giao. Ông đúng là một bậc kỳ tài, hiểu rõ những khó khăn, thử thách mà dân tộc phải đối mặt và đưa ra đường lối, sách lược đúng đắn, là cơ sở để quân và dân ta giành được những thắng lợi vẻ vang.

                  quang trung còn có tài dùng binh như thần. Ông hiểu rõ chỗ mạnh và chỗ yếu của các tướng lĩnh: quát mắng các sở, quận rất gay gắt để tỏ rõ sự việc nghiêm trọng, nhưng đồng thời biểu dương nỗ lực bảo vệ lực lượng của họ. Ông quý trọng bắp nên thông minh, mưu lược hơn người. Quả là một con người tri thức.

                  Tài năng quân sự của anh ấy xuất chúng, và kỹ năng chiến đấu của anh ấy không thua kém. Để động viên quân sĩ, ông yêu cầu quân sĩ mở hội mừng xuân trước, hẹn ngày mồng bảy tổ chức đại hội ở Thăng Long. Không những thế, ông còn đảm bảo yếu tố bất ngờ, bắt sống trinh sát, tân binh của địch khiến các cứ điểm không liên lạc được với nhau. Phải đánh bất ngờ để chúng đánh giặc ngay trong ngày đầu năm, vì lúc này chúng đang ngủ say, ham vui và không có khả năng tự vệ.

                  Ông linh hoạt thay đổi chiến thuật: trong trận đánh thì dùng ngăn, chặn, lấy trân châu làm ván rơm ẩm cho quân giảm thương vong. Thay vào đó, anh ta tự mình ra trận, chỉ đạo hướng tấn công. Quảng Trung là sự hội tụ vẻ đẹp của quốc gia, tinh hoa của quốc gia và dũng khí của quốc gia.

                  Trái ngược hoàn toàn với vẻ đẹp oai phong của vua Quảng Trung, vị tướng nhà Thanh đã bị đánh bại. Nhà sư lần đầu tiên vào nước ta tưởng dễ dàng nên luôn kiêu ngạo. Không hiểu tình hình, chỉ chơi. Hắn vẫn tham sống sợ chết, sợ mất mật trước trận: “Ngựa chưa kịp đóng yên giáp, hãy dẫn đầu trốn qua cầu phao, rồi ngược lên phía Bắc mà chạy”. Một số tự đầu hàng, và một số treo cổ tự tử.

                  Thật là một lũ vô lại, hèn nhát và bất tài. Đoạn văn này đã vận dụng triệt để bút pháp miêu tả của tác giả, kết hợp với nhịp điệu dồn dập, thể hiện sự hoảng loạn và thất bại của quân địch. Đồng thời cũng thể hiện âm điệu vui buồn trước chiến thắng của quân ta và thất bại của quân thù.

                  Về phần Wang Wo Li Chaotong, nhân lúc náo loạn, quân Thanh suy sụp, hoảng sợ bỏ chạy tán loạn, thậm chí còn cướp thuyền vượt sông. Lê chiêu thống sang Tàu cạo đầu, tết ​​tóc, ăn mặc như nam nhi. Vị quân vương đứng đầu muôn dân thật đáng thương, nhưng chỉ vì bản thân và gia tộc, Lý Triều Tông đã phản bội quốc gia, để rồi phải mang nỗi nhục khuất phục, tay nắm xương rơi xuống đất. khách nước ngoài.

                  Mặc dù mô tả lỗi giống nhau, nhưng tốc độ của đoạn văn này chậm hơn. Bày tỏ sự cảm thông và thương cảm cho số phận của Li Zhaotong. Vì cũng là một cựu thần trung thành của Vương triều Ewha nên trước sự sụp đổ của Vương triều Ewha, trong lòng ông không khỏi ngậm ngùi và chua xót.

                  Các tác phẩm không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn hấp dẫn người đọc về nghệ thuật trần thuật. Ghi lại những sự kiện lịch sử qua từng mốc son lịch sử, thể hiện khí thế khẩn trương, khẩn trương, chiến thắng hào hùng của quân đội ta. Nghệ thuật miêu tả nhân vật sinh động, hấp dẫn. Trận đánh nào cũng được miêu tả sinh động, thể hiện khí thế quyết liệt của quân ta và sự thảm bại của quân địch. Nghệ thuật đối đầu giữa địch và địch: một bên hèn nhát, hèn nhát, một bên xông xáo, dũng cảm, tháo vát.

                  Thông qua hồi thứ mười bốn của “Đồng chí Hoàng Lập Nhật”, tác giả cho phép người đọc cảm nhận một cách sâu sắc và toàn diện phong thái anh hùng, dũng cảm và anh hùng của nhân vật chính Nguyễn Quang Trung Bồ tát. Chiến thắng vẻ vang của nhân dân ta trước kẻ thù. Đồng thời, nó cũng cho thấy sự thất bại của nhà Thanh, và tôi rất thương hại cho Wang Li Chaotong.

                  Phân tích tác phẩm Hoàng lê nhất thống chí – văn mẫu 4

                  Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm của một số người họ Ngô. Hai tác giả chính, Wu Zhizhi và Wu Shidu, có thể đã viết nhiều kỳ.

                  Maize Suizhi (1758-1788) là em trai của một danh nhân nổi tiếng. Ông từng làm quan dưới quyền của Li Chaotong, và theo Li Chaotong khi Ruan Huishi Wuyun nhậm chức và tiến lên phía bắc tiêu diệt Ruan Youzheng, đồng thời trình bày cuốn sách Zhongxing để thảo luận về việc khôi phục triều đại Li. Về sau, ông được vua Thông nhà Lê cử lên Lạng Sơn chiêu tập quân lưu vong, lập nghĩa quân đánh Tây Sơn, trên đường ông lâm bệnh tại huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Nhiều nguồn cho rằng ông đã viết bảy màn đầu tiên của câu chuyện.

                  ngô, thì du (1772 – 1840), anh chị của Ngô, học giỏi nhưng chẳng đỗ đạt gì. Trong triều đại Tây Sơn, ông ẩn náu ở khu vực Jinbang của tỉnh Hà Nam. Thời nhà Nguyễn, ông làm quan, bổ chức Giám đốc hải dương học, năm 1827 thì về hưu. Ông là tác giả của bảy hồi tiếp theo trong Hoàng Lê nhất thống chí, hồi thứ mười bốn được trích dẫn ở đây. Ba hành vi cuối cùng có thể đã được viết bởi một thành viên khác của gia đình họ Ngô của đầu triều đại nhà Nguyễn.

                  Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn sách ghi lại các sự kiện của triều Lê, có thể là khi nhà Trinh đánh bại Tây Sơn, trả lại quyền cai trị Bắc Hà cho vua Lê, tuy tác phẩm chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc về mặt văn học. về hình thức Ảnh hưởng, tác giả tôn trọng sự thật lịch sử. Vì vậy, tuy được nhiều người viết, viết trong các thời kỳ khác nhau nhưng về cơ bản nội dung của các tác phẩm đều giống nhau.

                  Trong nền văn học trung đại Việt Nam, Hoàng Lê Rí Thông Chí có thể coi là tác phẩm văn xuôi chữ Hán lớn nhất, có thành tựu nghệ thuật lớn nhất, đặc biệt là ở lĩnh vực tiểu thuyết.

                  Tác phẩm tái hiện chân thực và sinh động bối cảnh lịch sử đầy biến động của nước ta trong ba thập niên cuối thế kỷ XVIII và những năm đầu thế kỷ XII.

                  Mở đầu câu chuyện là sự thối nát cùng cực của xí nghiệp phong kiến. Vào lúc chết, một vị vua không trở thành một vị vua. Vua Lý Tiên Đông sức yếu bệnh tật, chỉ biết chắp tay treo áo, buộc phải làm bù nhìn. Câu nói tâm đắc nhất của ông là: Trời buồn, tôi vui, vua Lý Siêu Tông hèn hạ, cúi đầu trước quân thù, mong cứu vãn ngôi vị mục nát sắp sụp đổ. Quả lê Wangwang cuối cùng xấu đến mức bị cả thế giới đánh giá là miếng thịt để ngoài da.

                  Trong cung, trinh sâm sống xa hoa, ăn chơi trác táng. Vì đặc biệt thích Dang Shihui, vua Zheng đã bỏ rơi con trai cả và lập con trai thứ, gây ra sự hỗn loạn trong dinh thự. Anh em giết nhau. Sự kiêu ngạo tràn lan và cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái phong kiến ​​đã kết thúc và cần được giải quyết. Trong bối cảnh đó, cuộc nổi dậy của Phong trào Tây Sơn là cấp thiết.

                  Sau đó Nguyễn Huệ đánh tan quân xâm lược, lập nên triều Tây Sơn. Nhưng cơ nghiệp của nhà Tây Sơn chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Vị chúa bị nguyền rủa dần giành lại quyền lực, khai phá Tây Sơn và thành lập một triều đại mới (1802). Kết thúc tác phẩm là hoàn cảnh éo le, tủi nhục của Vương Lý Siêu Đồng lánh nạn ở nước ngoài.

                  Tất cả những sự kiện lịch sử trên đều được tác giả ghi lại một cách rất cụ thể. Trong bối cảnh thời đại đầy biến động đó, nổi bật lên là hình tượng của các phe phái chống đối, đặc biệt là hình ảnh vẻ vang của Nguyễn Thuấn, người anh hùng bất khuất của dân tộc.

                  Hồi mười bốn là một đoạn trích dài, kể nhiều tình tiết và diễn biến. Để hiểu đoạn văn này, chúng ta phải hiểu đôi điều về dòng thứ mười hai và thứ mười ba. Khi Bắc Bình vương Nguyễn Huệ ra bắc truy bắt gian thần Vũ Văn Ngạn lần thứ hai, vua Lê Triều Thống không dám rời kinh thành Thăng Long chạy lên vùng biên ải phía bắc chiêu mộ quân phản loạn gần vua để chống trả.

                  Nhưng sức mạnh của nhóm phiến quân nhỏ bé đó không đủ để chống lại quân Tây Sơn. Li Chaotong cử hai cận thần là Li Weidan và Chen Dan’an bí mật chạy sang Trung Quốc để gặp Thống đốc Hải Quang đang là thượng thư và nhờ giúp đỡ. Thượng thư muốn nhân cơ hội cướp nước ta, xin vua cử quân sang đánh.

                  Ra lệnh, các thượng nghị sĩ nhân danh hạm đội kéo quân đến và phá hủy West Hills. Đối mặt với một kẻ thù mạnh mẽ, Quân đội Xishan rút về Sandie. Quân giặc tiến đến Thăng Long không gặp sự chống cự nào, chúng nảy sinh tính kiêu căng tự mãn. Lê chiêu thống làm theo, lấy niên hiệu là An Nam Kiêm vua bù nhìn.

                  Mở đầu hồi 14 nói về việc các bô lão chiêu binh vào Thăng Long. Điều này khiến tôi, Wang Li Chaotong, người biết khả năng điều khiển ma thuật và nhập hồn rất tốt của Ruan Hui, rất lo lắng.

                  Các tướng lĩnh, sĩ phu Thăng Long chỉ biết ăn chơi, hội hè, mặc kệ binh lính tùy ý bỏ cả đội ngũ, lang thang khắp nơi, chẳng nề hà kỷ luật gì cả. Lão cung nhân đến bẩm báo với thái hậu rằng bọn man di chủ quan coi thường thái độ của Tây Sơn, Vương Lý Siêu Đồng của ta có nguy cơ chạy về Trung Quốc lần nữa. Thái hậu hốt hoảng tâu với vua. Bấy giờ nhà vua hoảng sợ vào doanh trại yêu cầu thượng thư lui binh, mắng thẳng mặt nhưng ông ta không dám rút lui.

                  Ở hồi thứ mười bốn này, tác giả đã xây dựng thành công hình ảnh chiến công thần tốc của người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ với sự nhạy bén về lịch sử và lòng tự hào dân tộc mãnh liệt. Kết cục bi thảm của Tống Vương phản bội nhà Lê.

                  Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ được miêu tả là một người tài giỏi, hành động dứt khoát, chủ động, nhanh nhẹn và có mục tiêu rõ ràng. Nghe tin quân xâm lược man rợ đã chiếm tận Thăng Long. Nguyễn Huệ lập tức dẫn quân. Sau đó, chỉ trong hơn một tháng (24 tháng 11 đến 30 tháng 12), Nguyễn Huệ đã làm được nhiều việc lớn: tế trời đất, xưng đế, đem quân bắc phạt, thu cống ở Việt Nam. Tại quận Luoshan, chiêu mộ binh lính và tổ chức một cuộc duyệt binh lớn ở Ngee An, dùng để chiêu dụ các tướng lĩnh, bày binh bố trận, chống lại kẻ thù và đưa ra các chiến lược đối phó với nhà Thanh sau khi chiến thắng.

                  Một yếu tố quan trọng cần xem xét đầu tiên trong bài viết này là tác giả. Khi sáng tạo tác phẩm, tác giả không chỉ tái hiện hiện thực khách quan mà còn thể hiện tư tưởng, tình cảm, quan điểm chính trị, xã hội của mình, v.v.

                  Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phả – một nhóm văn nhân rất trung thành với nhà Lê. Nếu xét từ quan điểm phong kiến, trong mắt Ngô, Quảng Trung Vương là một đối thủ. Tuy nhiên, trong các tác phẩm, hình tượng quang trung-Nguyễn Huệ được khắc họa khá sắc nét, với nhiều phẩm chất xuất sắc như “chiến công nhỏ” trong việc điều binh khiển tướng, sự mưu lược, quyết đoán.

                  Những chi tiết, sự việc trong phần đầu của đoạn trích này cho thấy vua Quảng Trung là người rất mạnh mẽ, quyết đoán chứ không hề độc đoán, chuyên quyền. Ông bằng lòng nghe theo lời khuyên của thuộc hạ: thuộc hạ, lên ngôi để bảo vệ lòng dân, sau đó sẽ xuất binh bắc phạt. Vừa đến Nghi An, ông đã cử người đến cống nạp và hỏi cách đánh quân Thanh.

                  Từ chi tiết này có thể thấy Quảng Trung luôn quan tâm đến dư luận. Khi Công Tử nói: “Công chúa đi chuyến này, mười ngày sau quân Thanh sẽ đại bại”, ông ta “vui mừng khôn xiết”, không chỉ vì Công Tử nói đúng mà còn vì chính sách. Quyết tâm của ông được nhân dân nhất trí ủng hộ. Có bằng chứng cho thấy ngay sau khi ông chiêu mộ quân đội, “trong một thời gian ngắn, đã có hơn 10.000 binh sĩ tinh nhuệ”.

                  Lời nói của vua Quảng Trung cũng rất thuyết phục, vừa khéo léo vừa ôn hòa, vừa cương nghị, có cơ sở. Khi nói chuyện với những người lính của mình, anh ấy cho họ ngồi xuống (một cử chỉ trìu mến mặc dù anh ấy mang danh hiệu vua) và cắt từng từ để mọi người có thể hiểu được. Sau khi cho binh lính thấy nỗi thống khổ của nhân dân dưới ách thống trị của ngoại bang bằng sử sách của các triều đại trước, ông vẫn tuyên bố sẽ trừng trị những kẻ phản bội và những kẻ nửa vời. Điều này càng làm cho các chiến sĩ thêm đoàn kết, quyết tâm đánh giặc.

                  Lời nói và việc làm của vua Quảng Trung đều có lý có tình, quan trọng nhất là hợp với ý dân. Vừa mềm dẻo, vừa dứt khoát, vừa xét xử, đúng tội, vừa đặt lợi ích của nước, của dân lên trên hết đã gây ấn tượng mạnh với quân lính, củng cố quyết tâm đánh giặc. Đây là yếu tố vô cùng quan trọng góp phần tạo nên chuỗi thắng lợi của quân Tây Sơn dưới sự thống trị của Quảng Trung Vương.

                  Ở những đoạn trích sau, để thể hiện không khí chiến đấu hết sức khẩn trương, quyết liệt, tác giả đã chú ý đến sự việc nhiều hơn nhưng không làm lu mờ hình ảnh tài năng của những người diễn viên. cái thước kẻ. Lời hứa không lay chuyển của anh trước khi rời quân ngũ được hỗ trợ bởi các chiến thuật của anh, được xử lý hết sức nhanh nhẹn và khéo léo trong các tình huống cụ thể: đảm bảo bí mật cho cuộc hành quân, nghi binh tấn công một ngôi làng ở Hawaii, tấn công những người bảo vệ Jade bằng rơm ướt…. .Việc dùng nhiều quân tài tình như vậy khiến quân Thanh vô cùng kinh ngạc, nghe tin xong không còn sức chống cự, đành chôn chân tại chỗ bỏ chạy trong bối rối.

                  Đoạn cuối đoạn trích chủ yếu miêu tả cảnh trốn chạy đầy lúng túng của các tướng quân Thanh. Những “tinh binh, tướng mạnh” bị bỏ lại, nhưng họ không thể đánh trận này, vì vậy họ phải phân tán về nước. Tưởng rằng sau khi thất bại, số lượng bô lão (trước là 20.000 đến 10.000) vẫn đông hơn quân của Quảng Trung Vương, nhưng trước sức tấn công dữ dội của quân Tây Sơn, dưới sự chỉ huy của Quảng Trung Vương, một vị tướng tài ba và cương quyết, họ không có linh hồn để nghĩ về việc chống lại.

                  Ở đoạn này, giọng điệu của tác giả vô cùng hả hê. Khi tác giả miêu tả tài “xuất thần” của quân Tây Sơn, ông viết: “Thật là: tướng từ trời xuống, quân chui xuống đất”… Ngược lại, khi viết về các nguyên lão, họ: “Kính trọng . Các thượng nghị sĩ sợ rằng họ sẽ không để giữ thể diện, một con ngựa không thể yên cương, và một người không thể mặc áo giáp … “. Đó không còn là tiếng nói của người ghi lại sự kiện một cách khách quan, mà là tiếng nói của nhân dân, tiếng nói của dân tộc, để bọn ngoại xâm ngạo nghễ trước đây, nay phải nhục nhã rút lui.

                  Những lời nói giữa Le Chaowang và tôi càng khẳng định thái độ của tác giả khi viết tác phẩm này. Mặc dù luôn đề cao tư tưởng trung nghĩa nhưng các tác giả ít nhiều vẫn thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm trước sự nhu nhược, hèn nhát của quan lại triều đình nhà Lê. Số phận của những kẻ phản dân hại nước cũng khốn khổ như những kẻ cậy đông đem quân đi xâm lược nước khác. Đây là số phận chung của lịch sử đối với những kẻ bán nước, cướp nước.

                  Cuộc xâm lược man rợ là một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc ta. Người làm nên kỳ tích này chính là Quảng Trung-Nguyễn Huệ, một “anh hùng thường dân” vừa có tài thao lược, vừa hết lòng phụng sự nhân dân, phục quốc. Trang sử hào hùng đó đã được ghi lại bởi phái Ngô Gia Văn, một nhóm văn nhân đã vượt qua hệ tư tưởng phong kiến, tái hiện lịch sử một cách chân thực.

                  Phân tích công việc của Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 5

                  Văn học trung đại Việt Nam không thể không nhắc đến “Hoàng Lê Rí Thông Chí” của trường phái Ngô Gia Vân. Tác phẩm này không chỉ là mẫu mực của thể loại, mà còn thể hiện bản lĩnh của người anh hùng Nguyễn Huệ Bù Thần và thất bại thảm bại của vua Lê Triều Thống cùng nghĩa quân bằng ngòi bút sắc sảo, chân thực. Điều này được thể hiện rõ ràng trong màn thứ mười bốn của tác phẩm.

                  Tác phẩm được viết theo thể “chí”: một thể loại văn học cổ đại ghi lại các sự vật và sự kiện, cả văn học và lịch sử. (Thực ra đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, được viết dưới dạng tiểu thuyết chương hồi.) Toàn bộ vở kịch có 17 màn, 7 màn đầu do Wu Zhizhi viết, 7 màn cuối do Wu Shidu viết, 3 màn còn lại là được viết bởi Wu Shidu. được viết bởi mọi người. Tác phẩm này được viết nhiều lần từ cuối thời Lê đến đầu thời Nguyễn.

                  Thời điểm Tây Sơn mất trùng với thời điểm đất nước thống nhất. Đoạn trích Cảnh 14: Giao chiến với Ngu Bá Giao, quân Thanh bại trận, Thành Long bị bỏ rơi, Triệu Tông chạy trốn. Bài viết ca ngợi chiến công hiển hách của Quảng Trung và quân nổi dậy Tây Sơn cũng như sự thất bại của các tướng nhà Thanh và nhóm của Li Chaoshou.

                  Mở đầu đoạn là sự xuất hiện của Nguyễn Huệ. So sánh với các bộ phim trước, có thể thấy Nguyễn Huệ được miêu tả là người rất tài năng và dũng mãnh: “Ruan Hui là một anh hùng dũng cảm và có khả năng lãnh đạo quân đội. Nhìn từ phía bắc và phía nam, ma và thần là rình mò, chẳng ai biết.” Quảng Vài lời của cung nữ cho ta biết con người Nguyễn Huệ tài hoa hơn người.

                  Quân thanh kéo ra Thăng Long để mở rộng thế lực, Nguyễn Huệ nghe tin tức giận, định dẫn quân dẹp giặc ngay. Nghe theo lời khuyên của các tướng, bái trời đất ở núi Binshan, và trở thành vua, và khi triều đại nhẹ, hãy ra lệnh cho quân đội đi. Việc Ruan Hui lên ngôi đã đặt nền móng cho sự tu dưỡng cả tình cảm và lý trí, đồng thời thể hiện tài năng của anh ấy. Tuy là người có tài nhưng anh ấy cũng rất biết lắng nghe người khác, nhất cử nhất động đều được cân nhắc kỹ lưỡng.

                  Khả năng lãnh đạo quân sự và thiên tài quân sự của ông đã được thể hiện qua cuộc hành quân thần tốc đến kinh thành Thăng Long. Ông chọn ngày giáp Tết, khi quân địch đang say sưa chiến thắng, lo ăn chơi lạc thú, và tiêu diệt chúng không báo trước. Vừa đi vừa chiêu binh, chỉ trong vài ngày, Nguyễn Huệ đã dẫn quân đến Bắc Hà.

                  Trước khi chuẩn bị chiến tranh, ông đã nêu gương, khích lệ quân thù yêu nước: “Bọn phương Bắc không phải nước ta, chúng nó phải khác, từ đời Hán đến nay cướp của ta, giết dân ta, cướp của ta sự giàu có của con người , Họ không thể chịu đựng được nữa, ai muốn xua đuổi họ […], hãy xua đuổi họ về phía bắc.” Sau khi đọc truyện ngụ ngôn của anh ấy, tôi không thể không nghĩ đến những chiến công của Chen Guojun, và những ví dụ của anh ấy cũng thuyết phục không kém.

                  Về phương diện dùng người, Nguyễn Huy cũng tỏ ra là một người rất giỏi. Hắn đã nhận ra điểm yếu của mình, Chu và Lân chỉ liều lĩnh và vô tình nên hắn đã bỏ mặc ngô nghê hơn người. Tất nhiên, quan điểm của anh ấy là hoàn toàn chính xác. Bắp đồng ý tự đề cao mình “Biết phòng thủ tránh địch trước mặt” để tránh tổn thất cho quân ta. Đồng thời, đừng đổ lỗi cho bộ phận và hàng xóm.

                  Ngoài ra, chúng tôi coi ông là người có tầm nhìn xa trông rộng, người đã dự đoán chính xác cơ hội chiến thắng của chúng tôi và công việc ngoại giao sẽ được thực hiện sau chiến thắng. Anh gửi bắp, anh lấy, khéo ăn, thương lượng với giặc, để dân ta yên bề gia thất, dựng nước. Xứng đáng là một vị vua có khát vọng.

                  Cảnh đẹp nhất là cảnh ra trận, nghĩ ngợi, hừng hực tinh thần, một mình chiến đấu, hành quân giết giặc. Với tinh thần tôn trọng lịch sử, ngưỡng mộ và chân thành ngưỡng mộ Quảng Trung Vương, các tác giả trường phái Ngô Gia Văn đã làm nổi bật hình tượng Quảng Trung Vương, người anh hùng áo vải, niềm tự hào của cả dân tộc bằng ngòi bút chân thực, đan xen những lời kể. , và miêu tả sinh động .

                  Ngoài một người đàn ông oai hùng trên chiến trường, còn có một kẻ phản bội hèn nhát-Li Chaotong I. Lê Chiêu Thống và bầy tôi trung thành của mình đã đặt vận mệnh của đất nước vào tay kẻ thù xâm lược vì quyền lợi của gia tộc. Tất nhiên, khi họ phản bội tổ quốc, họ sẽ phải chịu tủi nhục và đau đớn. Từ một vị vua Lê Triều Thống có số phận hết sức bi đát. Anh ta không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chạy trốn về phía bắc và chết ở một vùng đất xa lạ.

                  Mặt trái của hình tượng Tây Sơn khởi nghĩa quân là chân dung của kẻ thù xâm lược, cụ thể là qua hình ảnh của thủ lĩnh – nguyên lão. Hắn là kẻ kiêu ngạo, tự mãn, chủ quan, “ngày đêm” kéo quân vào Thăng Long dễ như “đi trên đất bằng”, cho rằng mình không hề hấn gì và không phòng bị.

                  Khi quân Tây Sơn kéo đến, tướng quân nhát gan vô trách nhiệm, sợ mất mật, ngựa không đóng yên, người chưa kịp mặc giáp… lần đầu trượt chân cầu phao; trong quân đội, “mọi người hoảng sợ, lần lượt xin đầu hàng hoặc chạy tán loạn, chém giết lẫn nhau”, “Bộ đội các ngành kinh hoàng, phân tán bỏ chạy, đánh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau” ngã lăn ra chết rất nhiều”, “đến nỗi nước sông Nê-ha đều bị chặn không chảy được nữa”. giọng điệu vội vã, háo hức, gây ra những trận thua liên tiếp và thể hiện tâm trạng hả hê của tác giả.

                  Võ Gia Văn Tông đã ghi lại một cách chân thực và sắc nét hình tượng người anh hùng Quảng Trung bằng điểm nhìn lịch sử chân thực của nhà sử học. Ngoài ra, vua tôi là Li Chaotong đã bị đánh bại, và các tướng của quân đội nhà Thanh đã bị đánh bại. Các đoạn trích được kể theo trình tự thời gian, giọng điệu linh hoạt, có lúc buồn, có lúc khẩn thiết thể hiện tài kể chuyện siêu phàm của tác giả.

                  Phân tích tác phẩm Hoàng lê nhất thống chí – văn mẫu 6

                  “Hoàng Lê nhất thống chí” là một bộ sách lịch sử chương hồi do một số tác giả của “Ngô gia văn phái” đồng tác giả. Tác phẩm phác họa một giai đoạn lịch sử từ khi Trịnh Sơn lên ngôi đến khi Gia Long thu phục Bắc Hà (1868-1802) với nhiều biến cố đẫm máu như: loạn, nhà Lê Trần sụp đổ, Nguyễn Huệ Đại bại quân, Gia Long lật đổ nhà Tây Sơn.

                  Sự sụp đổ không thể tránh khỏi của triều đại Lizheng và động lực sấm sét của phong trào nông dân Tây Sơn là hai nội dung chính được thể hiện trong “Quyền lực đế quốc để thống nhất thiên hạ”. Đặc biệt là hồi 14, thể hiện hùng tráng khí thế quật khởi của dân tộc trước thù trong, giặc ngoài, đồng thời khắc họa hình tượng người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ đã làm nên kỳ tích Đống Đa bất hủ.

                  Cuối năm mới (1788) đầu năm Kỷ dậu (1789), Lý Triều Tông tiếp 29 vạn quân do hội chỉ huy, chúng ta như sống lại những giờ phút huy hoàng, hào hùng trong lịch sử. dân tộc. Đề nghị cầm đầu, xâm lược nước ta. Tác giả “hoàng lê nhất thống chí” viết ở đầu hồi 14:

                  “Đại chiến ngọc hồi, quân Thanh bại trận, bỏ Thăng Long, lập công”

                  Vị cứu tinh của dân tộc lúc bấy giờ là Nguyễn Huệ, người anh hùng Tây Sơn Tây Sơn. Ngày 22 tháng 11 năm ông mất, Thượng thư chiếm Thăng Long. Tướng Ngô Văn Sở lui về kinh thành Tam Điệp. Vào ngày 24, Ruan Hui biết rằng ông lên ngôi vào ngày 25, “tế trời đất với thần sông và núi”, và đổi niên hiệu là Quảng Trung. Nguyễn Huệ Đốc đem quân ra bắc Vào ngày 29, Ngee Ann chiêu mộ thêm 10.000 binh sĩ tinh nhuệ.

                  Ruan Hui tổ chức duyệt binh báo tin chiến thắng với quân Thanh, vạch trần âm mưu “mưu Nam quốc lập quận huyện, chiêu binh mãi mã, cùng nhau lập đại công”… Nhà vua chia quân thành năm trại (tiền, hậu, tả, hữu, trung), rồi nhanh chóng điều binh thành ba đạo đoàn quân cùng với cánh quân ngô công. Quang trung chia quân làm 5 đạo, sai quân ăn Tết trước, dặn các tướng ngày 30 sang ta đánh nhanh quân Thanh, mồng 7 tết vào thành Thăng Long. . Mở tiệc ăn mừng”.

                  Có thể thấy Quảng Trung là người có tầm nhìn chiến lược sâu rộng, tài thao lược khôn ngoan, bản lĩnh vững vàng để đánh thắng quân xâm lược. Lễ lên ngôi của Fuchun, thăng tuyển Ngee Ann và các hoạt động khác cho phép quân lính được ăn mừng năm mới trước; đặc biệt, nhà vua đã tạo ra yếu tố bất ngờ là đột kích vào kho thóc vào đúng thời điểm giao thừa, để họ “chỉ tập trung vào việc vui mừng”. và không bao giờ lo lắng về tai nạn” Thể hiện sự quyết đoán. Khi đất nước anh là một thiên tài quân sự đang gặp nguy hiểm.

                  Mượn lời của những người trong cung xưa, tác giả đã làm nổi bật phẩm chất anh hùng phi thường của Nguyễn Huệ trước trận Ngọc thạch: “Không biết Nguyễn Huệ là dũng sĩ nhanh nhẹn, cầm quân trông cậy vào đâu. hắn Đi dạo nam bắc, quỷ hiện như thần, không ai đoán được, thấy hắn chỉ trỏ, nhìn mặt ai cũng sửng sốt, sợ hơn cả sấm sét.”

                  Nguyễn Huệ là bậc anh hùng thiên tài, điều binh khiển tướng, bày mưu tính kế. Ra ngoài như chẻ tre. Bắt sống cả quân Thanh do thám Phúc Xuyên, dùng thủ đoạn chào hàng qua loa, bao vây làng Hehui, quân Thanh “khiếp vía” phải đầu hàng. Dùng phép ghép 3 tấm gỗ thành một bức tường, phủ rơm rạ, có tổng cộng 20 bức tranh, mỗi bức tranh có 20 chiến binh, mang theo đoản đao, xếp thành chữ “nhất”, tiến thẳng về thành Dư Hải.

                  Tất cả pháo binh của quân Thanh đều vô hiệu. Quảng Trung Wang Qixiang đã chiến đấu một mình. Sáng ngày mồng 5, thành Dư Hải bị phá, Đổng Nghiễm định treo cổ tự tử, hàng vạn quân địch bị “tiêu diệt xác nằm đồng, máu chảy thành sông, đại quân tan tác”. .Nhà vua lập trận mai phục ở đê Yên Duyên, Đại Áng, vây quân Thanh ở Quỳnh Đô, giặc chạy đến đầm Mực của Tây Sơn, “bị voi giẫm chết hàng vạn người”.

                  Thắng lợi, Quảng Trung Vương tiến vào giải phóng thành Thăng Long vào trưa mùng 5 tháng Giêng năm Đinh Dậu. Trước hai ngày. Chỉ có tài thao lược vô song cùng niềm tin vào sức chiến đấu và tinh thần yêu nước của quân và dân ta, chúng ta mới có được niềm tin như vậy. Chiến thắng Đống Đa năm 1789 đã làm rạng danh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ.

                  Các tác giả của “hoàng lê nhất thống chí” từng ngấu nghiến phú quý nhà Lê, có cảm tình với nhà Lê, nhưng trước họa xâm lăng và chiến thắng Đông Đại vẻ vang, họ đứng về phía nhân dân. Dân tộc đã viết nên trang sử đẹp nhất, dựng tượng đài uy nghiêm người anh hùng Nguyễn Huệ. Chỉ vài năm sau, trong bài “ai tu van” khi Vương Quang Trung qua đời, Công chúa Yuhan đã viết:

                  “Nhưng nay mặc áo đào, làm nhiều việc giúp dân, dựng nước.”

                  Đó là hình ảnh của người anh hùng văn học mà chúng tôi và nhiều người ngưỡng mộ của chúng tôi chia sẻ. Tác giả của “Huang Liyi Tong Zhi” đã miêu tả và làm nổi bật bi kịch xâm lược của quân Thanh và số phận tủi nhục, bi thảm của bọn quan lại phản bội thông qua thủ pháp nghệ thuật tương phản.

                  Chỉ huy 29 vạn quân sang xâm lược nước ta là thượng thư. Sau khi chiếm được Shenglong, anh ta “không thua một mũi tên nào, như thể có rất nhiều người vào”, và anh ta cực kỳ “kiêu ngạo và vô kỷ luật”. Các tướng chỉ biết “nghịch chơi, không hỏi việc quân”. Họ khoe rằng đầu xuân kéo binh thẳng vào thành Tây Sơn “bắt sống không con nào lọt lưới”.

                  Tuy nhiên, trước sự tấn công dữ dội của Nguyễn Huệ, nhiều đồn lũy của địch đã bị vùi dập. Những người bảo vệ Aniseed đã phải đầu hàng. Trụ bát giác bằng ngọc bị đổ, Đổng bị nghi phải thắt cổ tự tử. Hàng ngàn con địch chết trong đầm mực. “Vì sợ mất mật, ngựa không lắp yên, người không mặc áo giáp… chạy về phía bắc.” Vị tướng “hốt hoảng bỏ chạy tứ phía”. Họ chạy xô đẩy nhau và rơi xuống sông. Cầu phao bị gãy, hàng vạn tên địch rơi xuống nước chết khiến sông Nê-ha bị tắc. Những người sống sót chạy trốn trở về nhà!

                  Những tên Việt gian bán nước như lê chiêu thống, lê quynh, trinh hiền đang tiến vào con đường thổ phỉ. Họ sợ hãi chạy sang tỏ vẻ nghi ngờ “Chợt gặp thuyền chài, cướp vội rồi chèo sang bờ bắc”. Tại cổng thành, Li Chaotong và các cận thần “than thở, phẫn uất và rơi nước mắt”, trông thật thảm thương và nhục nhã. Thượng nghị sĩ đã “xấu hổ”. Không thương xót! lê chiêu thống một lần nữa xin hứa “vui lòng phụng sự tướng quân”, nghĩa là tiếp tục để đàn voi trở về dưới chân tổ tiên! Thượng thư còn khoác lác: “Nguyễn Quảng Trung còn chưa chết, chuyện này còn chưa kết thúc!”

                  Có thể nói, hình ảnh kẻ xâm lược, bán nước được khắc họa bằng nhiều chi tiết mỉa mai, thể hiện sự khinh bỉ sâu sắc. Đọc hồi thứ mười bốn “Đồng chí của Hoàng Lệ Nghi”, ta càng thấy rõ lòng đen của quân xâm lược phương Bắc và âm mưu của triều đình, đồng thời cũng thấy rõ bộ mặt bẩn thỉu của bọn phản quốc. Chúng ta càng thêm tự hào về truyền thống anh hùng ái quốc của dân tộc, vô cùng kính trọng và biết ơn nhà quân sự thiên tài Nguyễn Huệ của Đại Việt.

                  Nghệ thuật kể chuyện và lối viết miêu tả các nhân vật lịch sử (Nguyễn Huệ, Lê Triều Thống, tấn) rất chân thực, sinh động đã tạo nên những vần thơ hay, giàu giá trị văn chương và ý nghĩa lịch sử sâu sắc.

                  Phân tích công việc của Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 7

                  ngo gia van phai là nhóm tác giả thuộc họ ngô. Sự nghiệp văn học nổi bật và tiêu biểu nhất của nhóm nhà văn này là bộ sử ký chương hồi nổi tiếng “Đồng chí Hoàng Lập Nhật”. Tác phẩm này tóm tắt một giai đoạn, một giai đoạn lịch sử đầy biến động từ khi Trịnh Nhân Thâm lên ngôi cho đến khi Gia Long đánh chiếm Bắc Hà.

                  Hồi thứ mười bốn khắc họa chân thực khí thế quật cường, quật cường của dân tộc ta trước thù trong, giặc ngoài và chiến công hiển hách của người anh hùng Nguyễn Huệ. Cuối năm 1788, đầu năm 1789, Lý Triều Tông kéo 29 vạn quân Thanh do Thượng thư chỉ huy sang xâm lược nước ta. Ngày 22 tháng 11, Thượng thư chiếm được Thăng Long, văn phòng của tướng Ngô Văn phải rút về Sandie để hỗ trợ.

                  Từ bấy đến nay, Nguyễn Huệ nổi lên như một vị anh hùng dân tộc. Ruan Hui tự xưng hoàng đế vào ngày 25, “tế trời đất, thần núi”, và gửi quân đến phía bắc. Ông cũng lựa chọn những đội quân tinh nhuệ có tinh thần yêu nước, phản chiến để tham gia chiến đấu bảo vệ đất nước.

                  Ngày 30 tháng 1, Nguyễn Huệ mở tiệc chiêu đãi quân sĩ, định ngày 7 sẽ vào thành mở tiệc ăn mừng. Có thể thấy, Nguyễn Huệ là người hành động cương quyết, có chí tiến thủ, biết địch sâu. Ông cũng là người nhìn xa trông rộng, biết địch biết mình, vô cùng tài thao lược. Kế hoạch kháng chiến được Ruan Hui tiên đoán như tiên đoán.

                  Trong cuộc kháng chiến chống Nhật cứu nước, hình ảnh người anh hùng Quang Trung-Nguyễn Huệ hiện lên trong tư thế oai hùng. Quân Thanh vừa thấy bóng dáng nhà vua liền bỏ chạy đến làng Hạ Hải, huyện Thượng Phúc, quân ta bao vây làng rồi tuyên bố bọn lính đánh thuê “sợ hãi đầu hàng ngay, lương thực vũ khí bị lấy đi .”​. Tất cả đều bị quân nam bắt đi”; khi họ đến Dư Hải vào ngày mồng năm tết, nhà vua sai quân lấy sáu mươi tấm ván gỗ, ba tấm ghép lại, phủ cây nước, mười người một tấm. , và những con dao ngắn trên lưng. , tạo thành từ “nhất” để vào pháo đài.

                  Trong trường hợp đó, tất cả các cuộc phản công của kẻ thù đều bị vô hiệu hóa. Quân Thanh đã tự chuốc họa vào thân khi dùng đại bác khói để dọa quân ta, nhưng họ đã “gậy ông đập lưng ông” với chiến thuật này. Ngay lập tức, Ruan Hui phái một đội quân vác ván gỗ trên vai xông lên, dao và súng va chạm, ném ván gỗ xuống đất, dùng đoản đao chặt đứt. Trận đánh kết thúc với hình ảnh “quân chồng chất, máu chảy như sông, quân tan tác”.

                  quang trung cưỡi voi vào Hoàng thành Thăng Long trưa mùng 5 Tết Kỷ Dậu giải phóng cả nước.

                  Trước tình thế đó, quân Thanh ăn no nê không lo đại sự, thất bại thê thảm. Việc tác giả miêu tả cụ thể, chi tiết và sinh động những hình ảnh tan tác của quân Thanh đã cho thấy rõ sự thất bại thảm hại của quân Thanh. Trái ngược với sự thất bại của quân Thanh, quân ta hùng mạnh “binh từ trời xuống, binh từ đất lên”.

                  Mô tả của Wu Jiayun về thất bại bi thảm của quân Thanh rất hay. Thượng thư sợ ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, liền chạy về phía bắc. Nghi ngờ, Đổng Khiết tự sát, quân Thanh “tháo chạy tán loạn” khắp nơi, tranh giành đẩy xuống sông, chém giết lẫn nhau. Lê Chiêu Thống cũng vội bỏ chạy, cướp thuyền bỏ đi.

                  Đoạn trích hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê nhất thống chí là một đoạn trích tuyệt sắc, vô song, vô cùng hay, vô cùng sinh động. Có một số điểm sáng nghệ thuật đáng chú ý trong đoạn trích giúp làm nổi bật nội dung của truyện. Giọng văn lúc nhanh lúc chậm, thể hiện sự chuyển biến linh hoạt của mạch truyện, khiến người đọc như đang ở trong từng trang viết về cuộc kháng chiến hào hùng của Quảng Trung-Ruan Huitao.

                  Cùng với đó là việc khắc họa hình tượng nhân vật nổi bật, độc đáo. Tướng Ngô Vương, Lý Siêu Tông và quân Thanh đều đại bại. Cùng lúc đó, hình ảnh người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ hiện ra đầy kiêu hãnh, bất khuất với những suy nghĩ của mình.

                  Đoạn trích “Cảnh mười bốn” trong Sử ký của Hoàng Lập Nghĩa cho chúng ta thấy âm mưu thâm độc của quân xâm lược đối với dân tộc ta. Đoạn trích còn cho chúng ta thấy vẻ đẹp của tinh thần đoàn kết dân tộc và tài thao lược siêu phàm của nhân vật kiệt xuất Quảng Trạch đại vương Nguyễn Huệ.

                  Phân tích tác phẩm Hoàng lê nhất thống chí – Văn mẫu 8

                  Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm văn học chương hồi có giá trị lịch sử. Nó phản ánh chân thực và sinh động tình hình xã hội đầy biến động ở Việt Nam trong ba thập kỷ cuối thế kỷ XVIII và những năm đầu thế kỷ XIX.

                  Trong tác phẩm này, tác giả Ngô Gia Văn triều đại Pai đã cố ý xây dựng kết cấu tác phẩm, khắc họa rõ nét chân dung của các nhân vật lịch sử, một trong những nhân vật tiêu biểu là người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Trong hồi thứ mười bốn của tác phẩm “Hoàng Lý Nhật Chí”, các tác giả của trường phái Ngô Gia Văn đã miêu tả Nguyễn Huệ, một anh hùng dân tộc thông minh hơn người và có tài cầm quân xuất chúng.

                  Nhân vật Nguyễn Huệ được miêu tả trong tác phẩm là một người kiêu ngạo, hành động kiên quyết, dứt khoát. Khi hay tin quân Thanh sang đánh chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ lập tức lên ngôi “lễ trời đất”. Lập tức, ông đích thân triệu tập binh sĩ, đốc thúc quân đội vừa có thủy vừa có bộ, tiến lên phía bắc đánh tan quân Thanh. Qua cuộc hành quân này, ta thấy được Nguyễn Huệ là một người vô cùng quyết đoán, nhất là trước những việc trọng đại của vận mệnh quốc gia, ông không bao giờ do dự mà đích thân cầm quân đi giết giặc.

                  Trước khi đưa quân lên phía bắc, Ruan Hui đã triệu tập Ruan Concubine của Lashan Futu để thảo luận về chiến lược. Qua đó có thể thấy được Ruan Hui dũng cảm tháo vát, thông minh hơn người, nhưng không hống hách mà rất coi trọng ý kiến ​​của người hiền tài, biết thu nạp nhân tài. Quả thật, Nguyễn Huệ là một bậc hiền triết tài ba.

                  Biết rằng số lượng quân địch kéo đến Thăng Long là rất lớn – 29 vạn quân, lại thấy địch và ta chênh lệch về sức mạnh, Nguyễn Huệ ra sức chiêu mộ quân. Các binh sĩ, hãy tổ chức một cuộc diễu hành lớn trong thị trấn để tăng sức mạnh cho quân đội của chúng ta. Đồng thời, quân đội cũng được chia thành bốn đạo: tiền, hậu, tả, hữu; lên kế hoạch tấn công địch.

                  Vì vậy, Nguyễn Huệ là một nhà chiến lược bậc thầy, không chỉ nâng cao sức mạnh của quân đội mà còn bố trí, vạch ra những kế hoạch cụ thể và đầy đủ. Đây là tiền đề cho sự thành công trong tương lai. Nguyễn Huệ là người khôn ngoan, biết “đánh” quân để nâng cao nhuệ khí, tinh thần chiến đấu.

                  Ông phân tích kỹ lưỡng tình hình quân địch ở kinh thành Thăng Long, đồng thời kế thừa truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc ta từ thời hai người phụ nữ Ding Tianhuang, Li Dahan, Chen Xingdao và Li Tai. Lấy đó làm tiền đề, Người kêu gọi toàn quân: “Các đồng chí đều là những người có lương tâm, phải đoàn kết với tôi, cùng nhau làm nhiều việc lớn.”

                  Những lập luận sắc bén, chặt chẽ và hợp lý của Ruan Hui đã truyền cảm hứng cho tinh thần chiến đấu và niềm tự hào của toàn quân, đồng thời truyền sức mạnh tinh thần mạnh mẽ vào cuộc chiến sắp tới. Với tư cách là một vị tướng, Nguyễn Huệ cũng đề cao kỷ luật nghiêm minh, kiểm soát chặt chẽ bọn phản nghịch, nghiêm trị những kẻ hai lòng phản bội tổ quốc, phản bội nhân dân, không bỏ sót một ai, đừng nói là tôi không làm’. đừng nói trước.”

                  Sự linh hoạt của Nguyễn Huệ còn thể hiện ở khả năng dùng người, cầm quân, đưa ra những sách lược, chiến thuật đánh giặc độc đáo, hợp lý. Quân của Nguyễn Huệ tiến quân rất nhanh, vì người chỉ huy bày ra sách lược thay phiên nhau, ba người thay phiên nhau hành quân nên quân tiến liên tục không ngừng nghỉ, ai nấy đều được nghỉ ngơi. Do đó, quân đội Tây Sơn hành quân cực kỳ nhanh chóng.

                  Phương pháp đối phó với vũ khí của địch cũng rất độc đáo, khiên che bằng rơm ướt, tên lửa của địch sẽ không hiệu quả với chiến lược này. Ruan Hui cũng thực hiện các chiến thuật ngăn chặn, sai thuộc hạ của mình kéo cờ và đánh trống ở phía đông, và kẻ thù rút lui, khiếp sợ và bỏ chạy về nước.

                  Chính vì vậy, các nhà văn của trường phái Ngô Gia Văn đã khắc họa một cách sinh động hình ảnh Quang Trung Nguyễn Huệ là một vị anh hùng trí tuệ và dũng mãnh. Điều đáng nói ở đây là nhà văn Ngô Chia đời Lê đã viết về Quảng Trung với tinh thần ngợi ca như vậy, tức là phản ánh từ lập trường của dân tộc. Điều này làm cho công việc trở nên bổ ích hơn.

                  Phân tích tác phẩm Hoàng lê nhất thống chí – văn mẫu 9

                  trong Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái, có thể nói tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc có lúc còn lấn át thành kiến ​​nhà Lê. Điều này dẫn đến văn bản xác thực và xuất sắc.

                  Khi nói “nhà văn là người thư ký trung thành của thời đại”, có lẽ người viết câu này nghĩ đến những chương văn sống động, chân thực, phản ánh trung thực bản chất của thời đại mà nhà văn đang sống. Điều này khiến độc giả Việt Nam nhớ đến một tác phẩm “chân thực và đẹp đẽ” như vậy: “Đồng chí Hoàng Lập Nhật” của trường Ngô Giai Văn. Có quan điểm cho rằng: Trong “Đồng chí Hoàng Lệ Nhật” do trường Ngô Gia Văn viết, có thể nói tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc có lúc còn lấn át thành kiến ​​đối với nhà Lê. Điều này dẫn đến các trang viết xác thực và được viết tốt. “Chỉ qua màn thứ mười bốn của tác phẩm, chúng ta có thể thấy rõ điều này.

                  “Đồng chí Hoàng Lập Nhật” phản ánh giai đoạn lịch sử của nước ta cuối thế kỷ 19. Bấy giờ, triều đình nhà Thanh của Lê Cái đang suy tàn, thối nát, các cuộc khởi nghĩa nông dân lần lượt xuất hiện, tiêu biểu là phong trào nông dân Tây Sơn của ba anh em Nguyễn Việt, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lộc. ngo gia van phai là một tập thể các nhà văn bao gồm các anh em họ ngô như ngô thì chi, ngô thì du, v.v. Họ là quan của vua Lê, chúa Trịnh.

                  Hồi thứ mười bốn của tác phẩm tái hiện chiến thắng oanh liệt của Quang Trung-Nguyễn Huệ vào Tết con Gà và việc vua Lê Triều Thống đánh tan quân Thanh. Thường thì phái Ngô gia văn phải coi quân của Quang Trung là “giặc cỏ” khi ra triều đình. Nhưng nằm ngoài những quan điểm chính trị thông thường, gia đình họ Bắp có quan điểm tiến bộ về sự kiện lịch sử này.

                  Họ nhìn cuộc nổi dậy dưới góc độ khách quan của một phong trào lịch sử. Vì vậy, hình ảnh vua Quảng Trung hiện lên với vẻ đẹp khác thường của tướng mạo. Còn những tướng lĩnh và cựu binh đó thì ngu ngốc và thảm hại, thật đáng thương. Chính sự chân thực của lịch sử và sự sống động của tác giả đã tạo nên một chương truyện “thật và đẹp” như vậy.

                  Trong tuyển chọn, hình tượng người anh hùng dân tộc Quảng Trung hiện lên vô cùng cao đẹp và phi thường. Là người hành động mạnh mẽ, dứt khoát, đầu óc minh mẫn, sâu sắc, nhạy cảm. Khi nghe tin giặc đã chiếm được Thăng Long, ông quyết định thân chinh cầm quân không chút do dự. Trong tháng từ ngày 24 tháng 11 đến ngày 30 tháng 12, anh ấy đã làm rất nhiều việc liên tiếp.

                  Cúng tế trời đất, lên ngôi thu phục lòng dân, nhân danh Bắc tiến đánh giặc. Sau đó, thống đốc đưa quân lên phía bắc, trên đường đi, Quảng Trung đã gặp các cống binh ở quận Luoshan, chiêu mộ quân đội và tổ chức một cuộc duyệt binh lớn ở Ngee Anfu để chiêu dụ các tướng và lập kế hoạch giao chiến với quân đội. Những điều này rất nhanh chóng và rõ ràng. Nó cho phép nhà vua chiêu mộ những người tài giỏi và một số lượng lớn các tướng lĩnh ưu tú. Lời khiển trách của ông đối với chiến sĩ thật sâu sắc và sắc bén:

                  “Tóc dài đánh nhau, răng đen đánh nhau, đánh bạo loạn, thiết giáp vô song đánh nhau, cùng nam hùng đánh nhau…”

                  Câu này khẳng định chủ quyền quốc gia của ta, khẳng định hành động xâm lược phi nghĩa, dã man của kẻ thù, đồng thời nêu bật dã tâm thâm độc của kẻ thù. Đồng thời, phát huy truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta, kêu gọi các chiến sĩ chấp hành kỷ luật. Bài Bác giống như một bài thơ ngắn, khơi dậy lòng yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc. Bèn họp các tướng bàn cách đối phó với quân Thanh. Ông khôn ngoan trong việc xét đoán và dùng người.

                  Ngoài ra, quang trung-nguyen hue còn là một người có tâm cạnh tranh và có tầm nhìn. Vừa dấy binh, vừa khẳng định “kế hoạch đã định… trong vòng mười ngày sẽ đánh đuổi quân Thanh”. Sau đó, ông còn hoạch định một kế hoạch ngoại giao hậu chiến cho một nước “lớn gấp mười lần ông”, có thể dẹp yên quân thù, để cho chúng ta được yên ổn, và nuôi dưỡng sức mạnh của chúng ta. Điều này chứng tỏ cho Nguyễn Huệ thấy ông thực sự là một nhà quân sự tài ba và một nhà chiến lược tài ba. Trong chiến tranh phong kiến ​​ở Việt Nam, ít vị tướng nào có thể tính toán sâu xa như thế.

                  Trở thành vua trong một trận chiến và thể hiện kỹ năng của bạn. Nhà vua chủ trương một cuộc hành quân thần tốc. Ngày 25 tháng 12, ông xuất quân ở Huế. Ngày 29 đi Ngee Ann (350km vượt đèo). Đoàn duyệt binh tổ chức duyệt binh, duyệt binh trong một ngày. Ngày 2: Đi tam điệp (150 km). Tối ngày 30 tháng Chạp, chúng tôi lên đường về Thăng Long. Và điều đặc biệt là tất cả đều đi bộ! Xuất phát từ Tam Thạch (150 cây số), hai bên tiến quân đánh địch.

                  Mùng 5 Tết là Nhâm Thìn (trước đây Quảng Trung vốn định là mùng 7 tết nên dời sớm hơn 2 ngày!). Dù phải hành quân liên tục nhưng toàn đội vẫn đang có phong độ tốt. Điều này khẳng định tài cầm quân của vị tướng là vua Quang Trung.

                  Trong trận chiến với quân đội, hình ảnh nhà vua hiện lên vô cùng oai phong, lẫm liệt. Ông đã đích thân chỉ huy quân đội và đóng vai trò tổng chỉ huy trong thực chiến, lập kế hoạch, tấn công và tổ chức quân đội từ việc chỉ huy quân đội tấn công, cưỡi voi để thúc giục và mưa đạn.

                  Dưới sự lãnh đạo tài tình của Nguyên soái Bu, quân đội Tây Sơn đã đánh một trận lớn: họ bắt được các trinh sát của Fuchuan, giữ bí mật và tạo ra bất ngờ; tấn công Yubao, bọc nó trong rơm ướt, tránh tên lửa của kẻ thù… đội quân làm cho kẻ thù khiếp sợ.

                  Khi tác giả khắc họa hình ảnh Nguyễn Huệ, vua Quảng Trung, thể hiện sự trân trọng hiện thực lịch sử và ý thức dân tộc. Dù đồng cảm với nhà họ Lý nhưng họ cũng không thể bỏ qua việc Lý Vương nhu nhược “gà trống cắn gà nhà”. Những chiến công hiển hách của Quang Trung là niềm tự hào của cả dân tộc. Ngoài ra, các biên kịch còn khắc họa sinh động hình ảnh bọn côn đồ bán nước, cướp nước

                  Các thượng nghị sĩ, bạn đang nghi ngờ, Dong không đề phòng, chỉ là lễ hội hóa trang. Họ kiêu ngạo gọi quân Tây Sơn là “giặc cỏ”. Nhưng khi đội quân “giặc cỏ” kéo đến, họ chỉ biết bỏ chạy và chết thảm. Thượng nghị sĩ cắt râu bỏ trốn, nghi ngờ Dong tự sát. Xô đẩy, giẫm đạp lên nhau, bộ đội chạy về quê. Vua tôi phản dân hại nước, Lý Siêu Đồng cũng chịu chung số phận. Bi kịch và nhục nhã nhất là nhà vua đành ngậm đạn đi về phương bắc, rồi chết rét nơi xứ người.

                  Đây là đoạn văn miêu tả chân thực cảnh ngộ của vua Lê Triều Thống. Tác giả bày tỏ một số cảm xúc cá nhân của những người hầu cũ của gia đình họ Lê ở đó. Điều này xuất phát từ những giọt nước mắt của người dân địa phương và thái độ quan tâm thể hiện qua giọng nói thảm thiết của họ.

                  Màn thứ mười bốn của “Đồng chí Huang Liri” và tất cả các tác phẩm của trường Wu Jiayun đều là những tác phẩm văn học và lịch sử thực sự sống động và chân thực. Tập thể các nhà văn không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ “Thư ký của thời đại” mà còn để lại dấu ấn đậm nét về tài và đức trong lịch sử văn học nước nhà.

                  Phân tích tác phẩm của Hoàng Lê nhất thống chí – văn mẫu 10

                  Những chiếc áo sơ mi màu đào ngày nay đã giúp mọi người xây dựng nhiều dự án.

                  Hai dòng trích trong bài thơ riêng của Công chúa Yuhan khóc chồng không phải là quan điểm của tác giả, đồng chí Huang Liri. Đoạn trích hồi thứ mười bốn này đã dựng lại hình ảnh Nguyễn Huệ nhưng ở một góc độ khác, sự đồng cảm khác, sự cảm thông khác dành cho Lí Vũ.

                  Hình tượng này thuộc lĩnh vực không gian nghệ thuật, lĩnh vực ý thức hệ phản tư tưởng. Sự lệch lạc của Nguyễn Huệ không nằm ở ý nghĩa ngợi ca mà trong từng lời nói, từng lời miêu tả, chân dung người anh hùng áo vải đang dần hiện ra. Khi tấm bia hoàn thành, chính tác giả cũng không khỏi ngạc nhiên, một điều thực sự hiếm thấy trong văn học Trung Quốc.

                  Hồi thứ mười bốn mở đầu bằng hành động đê hèn “cõng rắn cắn gà nhà” của Lý Triều Đông. Thượng thư và đội quân hai vạn của ông ta bị kéo đến để thực hiện kế hoạch phản dân hại luật lịch sử của nước Lê, với hai mục đích khác nhau, trên danh nghĩa là giúp nước nhỏ, làm nước lớn (Vương quốc của Con Thiên Chúa hay nước láng giềng?) . Nhưng trên thực tế, chúng có gì đó khó hiểu.

                  “Coi bài đăng kìa, họ bắt tôi phải xử nghiêm trọng, nên tôi chỉ lang thang bên sông, dọa cho họ mất uy tín”. Tại sao các thượng nghị sĩ không hành động? Thái độ “binh bất động” này hoàn toàn không giống lúc kéo binh tới vội vã. Từ cửa thành tiến vào Thăng Long, quân của thống đốc ngày đêm dũng mãnh hành quân xuyên rừng, vượt núi. Nay ta đã đến kinh thành, địch còn chưa tới, sao vội ngăn cản?

                  Sự mất lòng tin của thượng nghị sĩ ở nơi làm việc đã được dự đoán: “Họ chỉ là khách, và chuyến đi này cũng là một vấn đề khó khăn, vì vậy hãy tiến lên phía trước.” Vì vậy, đối thủ của Ruan Hui không hẳn là bán nước, mà là cướp nước. Những kẻ bán nước hèn hạ, nhưng bất lực. Còn bọn cướp, không những tướng mạo hùng mạnh, mà dã tâm của chúng cũng không thể xem thường. Trong chiến tranh, phần thắng luôn thuộc về kẻ mạnh.

                  Vì vậy, sức mạnh của lời nguyền được thể hiện ở nhiều khía cạnh trong soái ca. Các lão nhân của Trường Yên cung thấy vậy cũng hiểu ra: “Ruan Hui là một anh hùng kỳ cựu, dũng cảm và tài giỏi. Nhìn anh ta từ bắc chí nam, ẩn như hiện, không, không. Ai đoán được. Loại quan điểm này là đương nhiên Không sai, nguyễn hữu chinh, vu văn kế thừa ngôi nguyễn huệ trừng phạt.

                  Tuy nhiên, hình thức trừng phạt “bắt con như bắt con, giết văn như giết lợn” chưa từng thấy trong lịch sử các nhân vật kiệt xuất của nước ta. Vì tính hiệu quả, tính tức thời của hành động giống như một cái chớp mắt và đổi chủ. Tên của Ruan Huiwei giống như Thunder Tiger, “không ai dám đối mặt với nó”. Bức chân dung ấy thực sự huyền thoại, một ngôi sao băng nhưng không hề lẻ loi.

                  Có nguồn ắt có cội sâu. nguyễn huệ đã làm như cha ông đã làm trước hiểm họa xâm lược “không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều ác”. Nguyễn Huệ đã đứng lên trong hoàn cảnh đó, tâm, chí của Nguyễn Huệ chính là tâm, là tâm của tiền nhân. Ngọn cờ đạo đức dẫn đường mau tiến, do nhân tâm trăm người mở rộng.

                  Sự thấu hiểu và lắng nghe chân thành, khiêm tốn của Nuan Hui đủ để tạm thời làm dịu đi cơn bão hận thù. Vua Beiping đã rất tức giận khi nhận được tin Ruan Wenchuan đã chạy trốn khỏi Sandie đến Fuchun, và quyết định dẫn quân ngay lập tức. Bất chấp sự phản đối của các tướng lĩnh, ông đã chấp nhận “Min Zun” làm lễ đăng quang. Khi đến Sandie, Si và Qilin đã mang theo dao để nhận tội, vì họ thực sự có tội. Chủ tướng (và tân vương) hẳn chưa hiểu tội ác lớn nhất trong quân đội phải bị xử lý như thế nào.

                  Quả thật đây là chân lý “thua chém tướng”. Nhưng không có luật chống lại loài người. Trái tim của cơ sở, Shed không như vậy, và đó là chiến lược của Corn để chấp nhận nó. Thay vào đó, những gì đáng lẽ phải bị trừng phạt lại được khen ngợi. Không phải mọi nhà lãnh đạo quân sự đều có thể đủ khả năng để biết và thuê những người thân cận với Sanyin. Không phải ngẫu nhiên mà Ruan Hui có thể đạt được “đồng xu bay” mà ông từng làm về mặt tập hợp và tổ chức lực lượng.

                  Tướng của Nguyễn Huệ vốn hèn, theo lệ cứ ba thanh niên (ba đinh) lấy một người rồi vào Nghệ An lĩnh quân. Nhưng chẳng mấy chốc sẽ có hơn một vạn tinh anh. Niềm tin vào Vua ánh sáng dựa trên trái tim của người đó. Không biết ông nói với mọi người hay nói với chính mình trong cuộc gặp kỳ lân Tam Điệp: “Lần này ta dẫn quân, đã có sẵn sách lược tấn công rồi.” /p>

                  Chỉ cần mười ngày để đuổi một chàng trai trẻ đi. “Có tâm, có tầm, một nhà thao lược phải có sức mạnh mưu lược, nhưng linh hồn của sức mạnh là dũng khí. Như chúng ta đã biết: Thượng thư quyết tâm tiến vào sào huyệt của Nguyễn Huệ ở phú xuân, mục tiêu là “giặc nhất định sẽ bắt từng người một, từng người một không lọt lưới” và sẽ đến với niềm tự hào “Sông nước Nam”. See”. Ruan Hui chỉ đánh một trận và đuổi chúng về phía bắc. Thượng thư đi nam, Nguyễn Huệ đi bắc, hai người đi ngược chiều nhau, nhưng đều tranh thủ thời cơ của cây. đã được giảm xuống một mốc.

                  Đặc biệt với Nguyễn Huệ trước một trận chiến có vẻ cận kề (thù nhiều địch nhiều) dám gặp tướng quân “mồng bảy tết ta vào kinh thành Thăng Long ăn mừng” điều này cho thấy rõ Nguyễn Huệ quyết tâm đánh tan quân xâm lược. Quả thật, theo dõi cuộc hành quân của Nguyễn Huệ từ Tam Cốc, người đọc sẽ hiểu thế nào là thần tốc hành binh, quân của Nguyễn Huệ chia làm 5 đạo, gồm thủy quân, nhưng chủ yếu là bộ binh.

                  Phương tiện hành quân không nói đến lừa ngựa, chỉ kể một số voi, trong đó có voi Vương Quảng Trung cưỡi. Do đó, quân đội chủ yếu đi bộ, không chỉ từ Sandie mà còn từ Ngee Ann, khi nhà vua ra lệnh cho quân đội “đi theo nhóm nếu binh lính không ngay thẳng”. Vậy “đi” là đi bộ. Họ chỉ đi chiến đấu. Tuy nhiên, vào đêm ngày 30 tháng Chạp năm Kỷ Dậu (1788) vẫn còn ở Tam Nghĩa, và ngày mồng Ba tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), ông đến Hạ Hải và vượt qua hai con sông. của lời nói và quyết tâm. Hơn 100 km, và rời đi trong ba ngày.

                  Duy trì tốc độ như vậy, vào sáng sớm ngày 5, dưới sự chỉ huy của San Yidong, quận trưởng Điền Châu, đội quân lớn đã đến pháo đài Yuhai và vượt qua sự kháng cự không đáng kể của pháo đài. Đại quân tiến về Thăng Long. Đâu là sự thật và đâu là sự thật, như vua Quang Minh đã nói: “Hãy nhớ, đừng tưởng ta khoác lác!”.

                  Trong lịch sử chống xâm lược của dân tộc Việt Nam, dường như có hai câu nói giống nhau, xét về kết quả thì thắng hơn bại. Đây là câu trả lời của vua Trần Hưng Đạo đối với “quân giặc năm nay đánh không yên” và lời khuyên trên của Nguyễn Huệ. Cùng với cuộc hành quân thần tốc độc nhất vô nhị trong lịch sử chiến tranh, phong cách chiến đấu của King of Light thay đổi như một vị thần và không cuốn sách nào có thể sánh được. Đây là cách bao vây, chia cắt địch, tạo yếu tố bất ngờ. Đối phương bị rơi vào thế cờ sẵn sàng, không thể quay đầu lại. Tại sao quân do thám của quân Thanh khi đến sông Qinggui đã bỏ chạy, còn Quảng Trung thì đuổi theo đến cùng?

                  Thật ra số lượng quân địch không nhiều. Điều quan trọng đối với Quảng Trung là trận chiến lớn tiếp theo, và thượng nghị sĩ không thể chủ động lên kế hoạch cho một ngày mưa. Đảm bảo tính bất ngờ là một nửa trận chiến. Vì vậy, trong pháo đài Hehai, những người lính trong pháo đài không biết gì cho đến khi Guangzhong North Horn hét lên. Do bị động, bất ngờ nên “mọi người khiếp sợ lập tức đòi đầu hàng, lương thực vũ khí bị thuộc hạ lấy đi”. Suy cho cùng, chiến thắng hay thất bại phụ thuộc vào hai yếu tố: thể lực và sức mạnh.

                  “Li” có liên quan đến “cái đó” và “cái đó” mà Quân đội Tây Sơn có thể tạo ra “lực lượng”. Quang trung tận dụng và tạo điều kiện thuận lợi cho hai yếu tố trung tâm then chốt này. Bất ngờ là một khía cạnh của nó. Thời gian và địa điểm của cuộc tấn công thật đáng kinh ngạc. Ngoài ra còn có sự bất ngờ trong cách chiến đấu. Ngay cả khi kẻ thù biết khi nào nên tấn công—nhưng không biết cách tấn công phía bên kia, thì việc chống lại cũng khó khăn không kém. Vì vậy, Goosebumps là một chiến thắng nhanh chóng, dễ dàng. Thay vì đánh vào mái tôn, địch tự kiềm chế. Nó cũng phụ thuộc vào kỹ năng. Giành được những chiến công rực rỡ mà vẫn giữ được sức mạnh đòi hỏi phải đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật.

                  Nhưng đối với thành Dư Hải, cửa ngõ vào thành Thăng Long, lối đánh của Hồ Hải không còn áp dụng được nữa. Để áp đảo kẻ thù ngay từ đầu, cần có một biện pháp khác để vô hiệu hóa cuộc phản công của kẻ thù. Quang trung làm lá chắn bằng rơm và ván gỗ, tức là lá chắn bằng mộc, đơn giản nhưng sáng tạo, để quân vẫn đi được.

                  Phép thuật khiến những mũi tên do kẻ thù bắn ra “trượt”. Quân địch không còn cách nào khác đành phải thổi khói từ ống khói để làm quân Hung Quân hoang mang, nhưng đột nhiên hướng gió đổi chiều, quân Thanh phải tự sát, khốn khổ không chống đỡ nổi. Căm hận vì có tướng giỏi, binh lớn, tài thao lược mà phải trói tay đầu hàng, Nhiên Đồng bị treo cổ.

                  Những gì Nguyễn tổng kết trong kiệt tác “Đánh một trận như ý – Chim đấu trong hai trận đấu” đã được Quang Trung cùng thời kế thừa. Để triệt để, nó không chỉ có thể quét sạch toàn bộ quân địch, mà còn có thể phá vỡ hoàn toàn ý chí của kẻ thù, đặc biệt là ở những khu vực trọng điểm như cứ điểm Yuhai, ánh sáng và trung tâm phối hợp tấn công, và hai cánh như đôi kìm. Thực lực của kẻ địch không nhỏ như ở Hạ Hải, nhưng ở trong vòng vây “song song”, hắn cảm thấy bất lực. Quân chiến đấu đã bị đánh bại, và quân rút lui thậm chí còn bối rối hơn.

                  Chạy về phía đê Anduyan, quân Quảng Trung đánh trống phất cờ, quay sang đường Vạn Kiều để chạy trốn, quân voi của quân Quảng Trung từ Daiangla đến chặn đường. Cái chết nhục nhã hơn đối với họ là cùng cảnh ngộ, hoảng sợ, phải trốn vào đầm Mực, để cho “quân Tây Sơn lùa voi giẫm chết hàng vạn người”.

                  Để duy trì địa vị và thế lực này, quân Tây Sơn tiến thẳng vào thành Thăng Long. Điều thú vị là quy mô của trận chiến trong ánh sáng ngày càng lớn hơn, và sức mạnh của vòng xoáy cũng dần tăng lên, phá vỡ tất cả các cửa bên ngoài và tiến vào tổng hành dinh mà không gặp phải bất kỳ trở ngại rõ ràng nào.

                  Những trở ngại đó, dù là Đồng nghi hoặc Thượng thư, dù là Hồ Hải, Dư Hải hay cả Thăng Long, quân xâm lược đều ở trong những tình thế khác nhau: sợ hãi, điên cuồng, bất lực. Nhà sư nghi ngờ Dong tự tử, khuyên một khi “sợ mất mật” không nên quay đầu lại. Thế là “ngựa không yên, người không mặc giáp”, chạy về hướng bắc.

                  Chi tiết thật này tuy là một chi tiết nhỏ nhưng lại có ý nghĩa rất lớn. Mới mấy ngày trước, hai mươi vạn đại quân từ phương bắc kéo đến càn quét nước nam, hợm hĩnh là bây giờ đến một mảnh áo giáp cũng không mua nổi, huống chi là phản quốc. Tính cách đê hèn của y được miêu tả trong nhiều trường hợp, chẳng hạn như giọt nước mắt tiễn biệt thượng thư của Lệ Vương Bắc Kinh, vừa đáng buồn vừa nực cười. Vậy là bức phác họa nhân vật trung tâm này vừa xong mấy dòng cuối cùng.

                  Dưới bầu trời quang đãng dưới làn mưa súng đạn ở thủ đô, tượng đài có một không hai trong lịch sử văn học Trung Quốc này vẫn sừng sững. Trong khúc khải hoàn, vua Quảng Trung là một biểu tượng có ý nghĩa thuộc về đất nước. Đó là đạo đức của người Việt Nam, tài năng của người Việt Nam, sức mạnh của người Việt Nam. Phải chăng Nguyễn Du đã ít nhiều tái hiện lại hình ảnh khi Nguyễn Du biến người anh hùng trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân thành anh hùng tái thế – tu hải trong Thanh tâm tài nhân?

                  Trở lại quan điểm của tác giả Hoàng lê nhất thống chí, nhìn chung đó là quan điểm khách quan. Do đó, hình ảnh của nhân vật trung tâm dường như có ánh sáng chiếu qua nó. Nhưng bên cạnh đó, còn có những yếu tố duy tâm vượt ra ngoài quy luật lịch sử và nhận thức nhân sinh. Chẳng hạn, nhà văn nhiều lần nhắc đến trời khi tường thuật sự việc hoặc tâm tư của nhân vật. Bầu trời là bầu trời, một định mệnh mà mọi người không thể chống lại. Kể về trận Yuhai, chính quân Thanh đã chủ động sử dụng hỏa hổ.

                  Đòn phản công này không phải là vô hiệu, bởi vì kẻ chủ mưu có một chiếc áo choàng. Nhưng đột nhiên, trong một khoảnh khắc, trời nổi gió. Đây là biểu hiện của bầu trời. Khi Quang Trung dẫn quân vào Thăng Long, các nhà sư không hề hay biết. “Ừm, vở kịch còn chưa kết thúc, sắc trời đã thay đổi.” Đã là “luật trời”, ai hợp tác thì đại nghĩa, ai chống đối thì làm thượng thư, học giả, thất bại là lẽ đương nhiên.

                  Vào lúc chia tay, Li Chaotong đã thú nhận với ông già rằng: “Nàng không có tài, không thể tuân thủ quy tắc. Cảm ơn tướng quân, thần theo lệnh của hoàng đế mà đến giải cứu”. Chúc tướng quân về triều được chữ “Vạn phúc”, ý này không nhất định chỉ có ý nghĩa tiêu cực, điều tích cực, đổi ngôi cũ lấy ngôi mới, đổi nắng lấy mưa đổi sương. Khách quan hợp với lòng người.

                  Sự tiến bộ vượt bậc ở đây chính là ở chỗ, cuộc sống đã đem đến cho tác phẩm văn học những chân lý nghệ thuật mới, vượt ra ngoài mọi định kiến, áp đặt của con người.

                  Phân tích công việc của Hoàng Lê Nhất Thống Chí – Mẫu 11

                  Truyện Quang Vương đại phá quân thời Trung Cổ đến nay vẫn còn nhiều người chưa biết. Người Việt Nam từ lâu đã tự hào về những cái tên Hà Nội, ngọc hồi, khuông thượng, đống đa, nhưng dường như không phải ai cũng biết điều này, và phần lớn chiến tranh vẫn đang được nhắc đến. Những chiến công anh hùng không được lấy trực tiếp từ lịch sử.

                  Mọi người không rõ rằng kiến ​​​​thức lâu đời về các sự kiện tiêu diệt hàng loạt quân đội được chứa đựng trong một tác phẩm ngày nay vẫn được coi là hư cấu, cuốn sách có tựa đề “Đồng chí của Huang Liri of the Corn Family” ở Zuo Qing The Village of Love (nay thuộc Hà Nội, không phải Hexi mà nhiều sách ghi sai). Thật vậy, nếu bạn muốn sống lại không khí của những năm tháng chiến thắng đó, thì không gì tốt hơn là đọc lại Màn thứ mười bốn của tiểu thuyết lịch sử Bánh ngô.

                  Nhưng trong ý định ban đầu của nhà văn Huang Liri Tongzhi, màn thứ mười bốn này không được tạo ra để ăn mừng chiến thắng của Quảng Trung. Nếu còn nghi ngờ, mời bạn đọc lại hai đoạn mở đầu, như mọi khi, tác giả muốn tự mình tóm tắt nội dung của toàn bộ câu chuyện:

                  Douyu, quân Thanh bị đánh bại, bỏ lại Shenglong và tướng quân bỏ trốn.

                  Rõ ràng, theo tác giả, đây là một câu chuyện về lê vương, đứng ở góc độ của lê vương, trên tinh thần “hoàng đế thống nhất”. Vì vậy trong tiểu thuyết trích đoạn này, nếu chỉ dùng một từ “vương” để xưng hô với ai thì đó phải là Lý Triều Tông, nếu có một đội quân tên là “Yibing” thì đó chỉ có thể là quân của “Lê triều” (và thực quân thì gọi là Khởi nghĩa quân, Khởi nghĩa quân, Tây quân thì chỉ gọi là “Bing”, “Bing”, không có chữ “Yi” bên cạnh).

                  Cuối đoạn trích, tác giả còn ghi lại chi tiết cảnh hai mẹ con Lý Tử gặp người dân địa phương tại trại Thái Bình. Nó không nhằm mục đích hài hước, để người đọc có cơ hội cười nhạo một kẻ ngốc xấu tính. Thay vào đó, tác giả dường như đang cố gắng làm cho cuộc gặp gỡ tỏa sáng với vẻ đẹp của một tấm lòng trung kiên ngoan đạo, ngay cả khi nhà vua của mình đang gặp khó khăn.

                  Trong chi tiết này có vui có buồn, có cơm gà chữa nhanh, con đường tắt dẫn đến loạn lạc, tác giả dường như muốn nói: Đối với những nước khuất phục, lòng dân vẫn yên không hòa giải. Kết thúc…

                  Có nghĩa là, về quan điểm chính trị, đồng chí Huang Liri, tác giả, đứng về phía đối lập với Phong trào Khởi nghĩa Tây Sơn. Nhưng rất may, họ đã không chiến thắng được chính mình. Tình cảm chính trị đó không thể khuất phục được tình yêu sự thật, cũng như lương tâm của con người biết điều đó và háo hức nói ra điều đó. Loại tình cảm chính trị ấy không thể chuyển hóa thành lực lượng văn học, không đủ sức chi phối nội dung văn học.

                  Tôi tự hỏi liệu tác giả của màn thứ mười bốn của “Đồng chí Le Rit” có nghi ngờ rằng tôi đang viết bản án cho chế độ mà tôi luôn tôn trọng bằng cách sử dụng tác phẩm nghệ thuật này không? Và liệu rằng chàng trai hào hoa có tỉnh táo nhận ra rằng mình đang hát một bài hát cho những người đã kết thúc số phận của lịch sử Ewhabang hay không.

                  Nhưng đó là sự thật. Một sự thật rất thú vị khi chúng ta tiếp nhận, chiêm ngưỡng và suy ngẫm về tác phẩm của Hoàng Lê nhất thống chí. Nhưng tác giả của trang mà chúng ta đang nói đến là một nhà văn, một nghệ sĩ. Là nghệ sĩ, anh không cho phép mình nói ra sự thật một cách phiến diện, phiến diện. Cốt truyện bắt đầu với những điều dường như đối lập.

                  Đội quân của nhà Thanh đột nhiên được nhắc đến, như thể đó là một đội quân hung hãn, có sức mạnh rung chuyển thành phố và phá hủy biên giới, và không gì có thể khuất phục được:”Nguyên lão nói sau khi cùng quân đội của mình đến Xuyên rừng, vượt núi như đi bộ trên mặt đất, ngày đêm không nghỉ, vô tư tiến thẳng đến thành Thăng Long, không sót một mũi tên, như thể vào chốn không người. quả trứng đụng hòn đá?Tuy nhiên, hôm sau, tác giả nói thêm: “Chưa bao giờ việc cầm quân lại dễ dàng đến thế”.

                  Nhưng sự thoải mái không bao giờ kết thúc, và chính nó khiến những người có kinh nghiệm và nhạy cảm nghi ngờ. Từ xa xưa, người xưa đã hiểu rằng khi bất cứ điều gì đi đến cùng cực, tất yếu sẽ gặp phải những thay đổi cuối cùng. “cùng một biến” (phải được thay đổi ở cuối). Nhưng rẽ theo hướng ngược lại.

                  Còn về mầm mống của sự thay đổi đó, tác giả đã không để độc giả phải chờ đợi. Người xưa đã dạy: “Không kiêu thì thắng”, nhưng quân Thượng thư chưa thắng trận, chúng đã quá kiêu ngạo: “Quân đồn tự ý bỏ đội ngũ, tự mình xông pha”. ngày, bỏ qua các vấn đề quân sự ở tất cả. Mầm mống của sự thất bại được tách ra từ đây.

                  Sau lời nói của cựu cung nhân Trường Yển phủ, chuyện đã xảy ra trở nên rõ ràng hơn. Mức độ chính xác và sâu sắc về mặt lịch sử của những tuyên bố này là không rõ ràng, nhưng về mặt văn học, các chi tiết rất hấp dẫn. Chẳng những lời của cựu triều thần tóm tắt đại cục, cho dù có thắng lợi cho vua Lê cũng chẳng nghĩa lý gì, mà hiểm họa triều đình đã âm ỉ bên trong như tia lửa. Tường.

                  Không hẳn bởi những dòng chữ ấy nhanh chóng để lại ấn tượng về một Nguyễn Huệ bái bai, một Nguyễn Huệ kiêu hãnh, để rồi Nguyễn Huệ bằng xương bằng thịt hiện ra trong chương truyện: Trông ông tiến bắc. Tiến về phía Nam, thoắt ẩn thoắt hiện như ma, thần thông không ai đoán trước được. Hắn giành lấy công lý như một đứa trẻ và giết Văn Nhất như một con lợn…

                  Thấy hắn lật tay, tất cả mọi người trong mắt lộ ra vẻ thất vọng, sợ hơn cả sấm sét. Chỉ sợ hắn rất nhanh sẽ trở về, bọn hắn thống soái quân nhớ nhà, địch nhân sao có thể sống sót? “Dường như có âm vang của một chiến công hào hùng trong những lời này. Lời cảnh báo của người trong cung.

                  Từ đó vẫn có thể thấy được sự quan tâm đến chi tiết của những người trong cung, hóa ra một con đĩ bình thường bị vua ruồng bỏ, xa rời cung điện lại biết nhiều gấp đôi về quân sự so với “Mẹ của thế giới” Thái hậu. Về sau, Thái hậu đem chuyện ấy tâu vua, vua nói với nhà sư, trẫm vẫn hiểu: một kẻ tự cao tự đại, nắm binh quyền trong tay, lại còn không biết đến nữ nhân!

                  Vì vậy, một người đàn bà vô danh cũng đã mở rộng tầm mắt cho cả một bộ triều thần, vua quan, tướng lĩnh về cách đánh, thế trận, cách điều binh khiển tướng. Câu nói của cô hầu gái già đã khiến hoàng hậu “sốc” và khiến lê vương “hoảng sợ”. Nhưng đó là tất cả. Tác giả Hoàng Lệ Nhất Chính thừa nhận và muốn chúng ta hiểu rằng: không gì có thể trao ý chí và hành động cho những kẻ yếu đuối.

                  Mặc dù rất lo lắng và giận dữ mắng mỏ nhau nhưng họ không hề có động thái gì. Vì lo lắng, những lời trách mắng sẽ qua nhanh. Còn những người đó lại tiếp tục nằm trong sự hưởng thụ, lười biếng tự lừa dối mình và người khác, nghĩ rằng: “Phải tính toán cho kỹ, không thể đợi đến ngày mồng sáu mùa xuân rồi mới xuất binh, cách quân không xa. ” ..

                  Tác giả cho chúng ta thấy một mầm mống khác của sự thất bại của Tập đoàn Li Chaotong. Nó nằm ở bản chất của một chế độ không còn khả năng hành động, không còn sức mạnh, ý chí và quyết tâm hành động. Trong khi kẻ phản bội đang uể oải, kiệt sức vì sự kiêu ngạo và thờ ơ, thì Linoleum Hero đã nhanh chóng hoàn thành núi công việc.

                  Đúng là nếu như quân Thanh chỉ biết chơi đùa thì quân Tây Sơn luôn bận rộn chuẩn bị. Không có chuyển động về phía quân sự: về phía tây, tình hình thay đổi từng ngày. Nhất định không phải là trùng hợp, khi mạch truyện chuyển sang thời gian bên là: “Ngày 20 của tháng hiện tại (tức tháng 11 âm lịch, 1788 âm lịch). Sau khi trở về Sandia không lâu. , ngày tuyết thứ 24 đã qua . Đến với phú xuân”.

                  Chỉ một tháng sau, Nguyễn Huệ đã hoàn thành mọi công việc nội chính, ngoại quốc” và “được lệnh xuất quân ngay hôm ấy, 25 tháng Chạp”. “. Hơn 10.000 người ngay lập tức được quân đội kén chọn và ngay lập tức gia nhập quân đội. Sau đó vào ngày 30, quân đội đến Sandie, và đêm đó, năm đội quân tràn ngập Beihe. Khi có thời gian, hãy tổ chức tiệc ăn mừng. tòng quân, ăn tết trước.

                  Chúng ta đang chứng kiến ​​văn chương của Hoàng Lệ Nhất Nhất, một cỗ máy hoạt động hết công suất, mạnh mẽ, hơi thở gấp gáp, máu chảy trong huyết quản, sức lực dồi dào, rạo rực, say mê. Tác giả của hồi thứ mười bốn Hoàng Lê Nhất Thống Chí thuộc một gia đình danh giá nhất nhì đất Bắc. Còn nguyễn huệ là dân miền trung.

                  Nhưng không vì thế mà Ngô gia phái vội sa thải vị thủ lĩnh Tây Sơn là một võ tướng, nông dân thất học. Thay vào đó, Con nhà Bắp vượt qua nhiều định kiến ​​để mang đến cho độc giả sự thật đầy tri thức và sâu sắc. Hãy nghe lại câu chuyện ngụ ngôn về Hoàng đế Quang Trung trong cuộc duyệt binh ở thị trấn Ngee Ann.

                  Phải chăng tôi đã nhận ra hồn thiêng Nam Quốc từ lời văn, giọng động viên nghiêm nghị của các tướng sĩ, đặc biệt là giọng hào sảng, đầy khí khái văn binh ngô đại cao bất khuất, hào hùng ở phần mở đầu của thiên cổ hùng văn ? Phải là một trí tuệ và một tâm hồn rất rộng mới có thể chứa đựng và lồng ghép được nhiều tinh hoa dân tộc như vậy trong một bài diễn văn xúc động.

                  Nhưng tác giả sẽ dần dần cho chúng ta hiểu rằng trọng số của hai khối niềm tin còn lại rất khác nhau. Tự tin quân sự là tự tin kiêu ngạo và mù quáng, tự tin trong tưởng tượng, không biết đối thủ và không biết tình hình. Và sự tự tin của Tây Sơn đã được củng cố qua rất nhiều sự chuẩn bị, từ sự cứng rắn trong đấu pháp cho đến sự tu dưỡng, rèn giũa lòng quyết tâm. Vì vậy, khi trận chiến thực sự diễn ra, đó là một trận chiến hào hùng, trong khi bên kia chỉ thấy sự hoảng loạn, hèn nhát và sợ hãi.

                  Trong Lê nhất thống chí, trận đánh phi thường này chỉ được kể lại bằng ngôn ngữ văn xuôi và câu chuyện hết sức đời thường. Và câu chuyện không dài, và nó chỉ có hai trang được in trong một cuốn sách giáo khoa. Nhưng hai trang đó vô cùng quý giá, bởi nó không chỉ rất thực mà còn rất sống động, rất khí thế để chiến thắng ngày nay vẫn là nhanh nhất trong lịch sử Việt Nam.

                  Người đọc truyện có thể vào đây mà tưởng tượng ra hàng loạt trận đánh, mỗi hoành tráng, mỗi chớp nhoáng, không trận nào giống trận nào. Hai con sông Gián và sông Thanh Quyết giao tranh, sau khi cái gọi là “quân phản loạn” của Lê Chiêu Thống đến quận Thanh, từ xa thấy bóng quân Tây Sơn thì sợ hãi. của việc đánh mất mật ong của mình và hòa tan chính mình. . Nhưng trốn thoát, chỉ bị bắt sống, không trốn thoát.

                  Rồi đến trận sông biển, Quảng Trung vương uy như sấm, dám nhậm chức. Tôi mới chỉ thấy khả năng chống que một lần trong ngọc bích, nhưng nó yếu và tồn tại trong thời gian ngắn làm sao! Họ bắn để không trúng ai. Họ sử dụng các ống khói để thổi khói và lửa nhằm bảo vệ khỏi các cuộc tấn công bằng lửa khi gió chuyển hướng.

                  Tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí càng viết, chúng ta càng thấy sự khác biệt giữa một nhóm Thượng thư – Lê Chiêu Thống và các Tướng của Quang Trung. Đối với quân bar, súng và súng phun lửa là vô nghĩa và chẳng làm được gì ngoài việc tự thiêu.

                  Đối với quân đội Tây Sơn, những nhu yếu phẩm hàng ngày như ván và rơm là đủ để khiến họ trở nên bất khả chiến bại. quân thanh vừa chạy vừa chết hàng nghìn con như mực, quynh đỏ. Tuy nhiên, quân xung kích của Quảng Trung trong trận ngọc bích chỉ khoảng 600 người nhưng vẫn chọc thủng được tuyến phòng thủ mạnh nhất.

                  Lợi thế của những tên trộm và những kẻ phản bội, như tác giả của tác phẩm này đã chỉ ra, là nhiều binh lính hơn và nhiều vũ khí hơn. Nhưng ý chí chiến đấu, tinh thần chiến đấu và sự sẵn sàng chiến đấu là những gì họ không có. Tôi không thể nhìn thấy ở những kẻ này một chút nào, dù chỉ một chút tình cảm mà Trần Quốc Quân đã khắc sâu trong lòng các tướng lĩnh của mình trước đây: “Hãy nhớ câu đó” “Củi lửa, liều mạng thì nên dùng” súp nóng” Một cái gì đó để thổi các món ăn nguội “như một biện pháp ngăn chặn”.

                  Tác giả của câu chuyện này đã nói rất rõ ràng: họ có thể yên tâm và thoải mái ăn lửa mà không lo tai nạn. Ưu tiên hàng đầu không phải là nổ súng, mà là chạy trốn nhanh chóng. Hành động thứ mười bốn của đồng chí Huang Liyi đã gần như trở thành một tấm bia đá mạnh hơn tấm bia đá hàng chục, hàng trăm lần, dùng để ghi lại và cười nhạo sự hèn nhát của một nhóm quân vương và bộ trưởng mãi mãi.

                  Những chi tiết cụ thể, sinh động nêu ra ở đây quả thực có sức thuyết phục hơn bất cứ lý lẽ nào. Quang trung là vua nhưng vẫn tự mình cưỡi voi chiến. Với tư cách là tổng chỉ huy, trưởng lão sợ hãi trước khi chiến đấu, vội vàng bỏ chạy, “Ngựa không thể yên cương, người không thể mặc áo giáp.”

                  Những người lính dưới quyền họ chưa bao giờ chiến đấu, họ chỉ biết chạy, để rồi sự hèn nhát đó nhận hình phạt cuối cùng: không ai đánh nhau, nhưng người chết đuổi theo rất nhiều, và nước lớn như sông Neha có thể tìm thấy ít hơn. Phải bịt kín, không chảy được. Cảm kích: “Đa tạ tướng quân…tất cả đều là ân đức của tướng quân!”.

                  Dù muốn hay không, đồng chí nhà văn Huang Liri phải thừa nhận rằng sức mạnh duy nhất trong trận chiến chỉ có thể được tìm thấy từ Quân đội Tây Sơn.. Sức mạnh này đến từ con người. Để tấn công bằng những tấm rơm ngâm nước làm lá chắn và tường chống đạn không thể đến từ một quý tộc sang trọng.

                  Còn có sự phấn khởi đoàn kết một lòng, không ngại gian khổ, hy sinh, đó là ngọn lửa rực rỡ đốt cháy tinh thần yêu nước của đông đảo quần chúng nhân dân. Sức mạnh vô địch của người dân và trí tuệ vô song của người lãnh đạo khiến đội quân của những người bình thường trong nháy mắt vươn lên tầm thần thánh. Và cảnh thứ mười bốn của Huang Liyi’s Tongzhi sẽ thực sự trở thành một bài hát, mỗi câu dường như được ghi nhớ mãi mãi.

                  Rồi trong tập đó, người viết còn phải cảm ơn Lê Chiêu Thống khi phải bỏ chạy khỏi Thăng Long. Rồi tác giả sẽ kết thúc câu chuyện này bằng hai câu thơ, như khơi dậy bao nỗi xót xa, uất ức:

                  Chia nước non sau khi tính xong biên ải có buồn không?

                  Nhưng có lẽ gia đình ngô chỉ lãng phí như vậy. Nỗi tiếc thương đó có lẽ không thể truyền tải đến trái tim của hầu hết những người đã đọc câu chuyện này. Bởi trước đó, các nhà văn đã quá thành công trong việc khắc họa một triều đại đã chết: một triều đại cần phải sụp đổ và phải được gửi xuống mồ một cách vui vẻ chứ không buồn bã. Tác giả cũng thành công trong việc tạo ra cảm giác chiến thắng hào hùng này thực sự thuộc về quân khởi nghĩa Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của người anh hùng dân tộc Quảng Trung.

                  Phân tích tác phẩm Hoàng lê nhất thống chí – Văn mẫu 12

                  “Hoàng Lê nhất thống chí” được viết bằng chữ Hán. Tác phẩm ghi lại sự thống nhất của nhà Lê khi Tây Sơn phá trinh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Không những không còn là sự thống nhất của nhà Lê mà còn viết tiếp, tái hiện giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến ​​Việt Nam cuối thế kỷ 18 và những năm đầu thế kỷ 20. Chính văn là hồi thứ mười bốn, nói về việc Quảng Trung đại quân bại trận.

                  Ngô Gia văn Phái là một nhóm nhà văn xuất thân từ một gia đình họ Ngô sống ở làng Zuoqingai, nay thuộc huyện Qingai, tỉnh Hexi. Nhà họ Ngô là một gia tộc danh tiếng ở Bắc Kinh, không chỉ có nhiều đại thần, có quan hệ mật thiết với triều đình, tài văn chương cũng thuộc hàng top trong thiên hạ. Hoàng Lê nhất thống chí là công sức của nhiều thế hệ nhà văn họ Ngô Chia. Đây được cho là bộ tiểu thuyết lớn nhất và có giá trị nhất trong văn học trung đại.

                  Thông qua hồi 14, tác giả “Đồng chí Hoàng Lê II” đã tái hiện chân thực hình tượng thần kỳ của người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ với góc nhìn lịch sử đúng đắn và lòng tự hào dân tộc. Số phận của các tướng nhà Thanh cũng giống như số phận bi thảm của vua tôi Lý Siêu Thông. Cách kể chuyện xen kẽ, cụ thể, sinh động để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người.

                  Trước sức mạnh của địch, quân Tây Sơn của Thăng Long rút về Cát Đức và sai người đến báo cáo với Nguyễn Huệ ở Xuân Cung. Sau khi nhận được tin báo vào ngày 24/11, Ruan Hui lập tức tổ chức lại quân đội và chia quân đội thành hai đạo: bộ và thủy. Ngày 25 tháng 12, làm lễ đăng cơ, Quảng Trung lên ngôi, trực tiếp chỉ huy hai đạo quân tiến lên phía bắc. Vào ngày 29 tháng 12, khi quân đội Tây Sơn đến Ngee Ann, Quảng Trung đã dừng lại một ngày, chiêu mộ hơn 10.000 quân và phát động một cuộc duyệt binh. Ngày 30, quân của Quảng Trung tiến ra Tam Nghĩa, Đồng Tự và Kỳ Lân. Quảng Trung khẳng định: “Đuổi quân Thanh ra ngoài không quá mười ngày.” Cũng trong ngày 30 tết, giặc còn đánh còn binh lính, nhưng ông đã nghĩ ra kế xây dựng đất nước 10 năm sau chiến tranh. Ông còn tổ chức tiệc khao quân, thầm hẹn ngày mồng 7 sẽ ra Thăng Long mở tiệc linh đình. Cùng đêm đó, quân nổi dậy tiếp tục. Khi quân Tây Sơn đến Qingguihe để tham gia do thám của quân Thanh, Guangzhong đã ra lệnh bắt tất cả bọn họ, không để sót một ai.

                  Từ rạng sáng mùng 3 Tết, quân khởi nghĩa Tây Sơn đã đánh một trận vui vẻ, khiến toàn quân run sợ. Trưa mùng 5 Tết, Quảng Trung dẫn đại quân thắng trận vào Thăng Long, kết thúc cuộc trường chinh lịch sử, quét sạch quân xâm lược bờ cõi.

                  Hồi mười bốn cũng khắc họa đậm nét hình tượng nhân vật chính Quang Trung-Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ xuất hiện với tài năng kiệt xuất hiếm có trên đời. Trước hết, ông là một vị vua yêu nước và nhân dân. Khi nghe tin quân giặc đã vào thành, lòng ông sôi sục, muốn dẫn quân ra đánh ngay. Nhân vật chính có tấm lòng yêu nước thương dân cao cả, luôn lo lắng cho nước và cho dân, căm ghét bọn cường hào, tham lam. Vì vậy, khi kẻ thù chà đạp lên quê hương, cướp bóc của dân nghèo, anh ta không thể tha thứ. Khi đất nước sạch bóng quân thù, Người tiếp tục quan tâm đến nhân dân, mở rộng sản xuất, xây dựng cuộc sống yên bình. Trái tim của một người đàn ông khôn ngoan là bao nhiêu.

                  quang trung là người biết xét người, biết trọng dụng nhân tài. Còn ngô thì nhận lấy, đánh giá cao, coi nó như một mưu lược “đa năng” để hành quân và rút lui, đoán nó là chủ mưu, không những bảo toàn được binh lực mà còn gây tổn thất. địch chủ quan. Anh ấy cho rằng việc sử dụng chửi thề là biết cách trì hoãn chiến tranh bằng cách sử dụng ngôn ngữ một cách thông minh.

                  quang trung còn là người thông minh, nhạy bén, quyết đoán, hành động quyết liệt, cứng rắn. Anh làm những gì anh nói, nhanh chóng và gọn gàng. Ngay khi quân địch vào thành, ông đã vạch ra một kế hoạch chống lại kẻ thù. Bằng lối hành quân kiên cường, kiên cường, ông cùng nghĩa quân khởi nghĩa đã đặt nền móng chói lọi để giành thắng lợi bất ngờ, khiến quân địch khiếp sợ, thậm chí bị lạc đường bỏ chạy mà không biết vì sao.

                  quang trung là người nhìn xa trông rộng. Vừa đánh giặc chưa chiếm được một tấc đất, Quảng Trung Vương đã dứt khoát nói rằng “bách chiến đã bày”. Quang trung nói chuyện với ông ta trên lưng ngựa về chính sách đối ngoại và kế hoạch hòa bình trong 10 năm tới, rất rõ ràng. Đối với kẻ thù, mối nhục của một cường quốc còn đó, chiến công không thể dứt ngay được, đây là chuyện thường tình. Vì vậy, sau thắng lợi, cần thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình để chờ thời cơ. Ông quả quyết: “Đợi 10 năm Thái Bình chiêu binh, nước thịnh dân mạnh, chúng ta không việc gì phải sợ”.

                  quang trung là vị tướng có tài thao lược hơn người. Cho đến ngày nay, những hành động nhanh chóng của Guangzhong vẫn khiến chúng ta kinh ngạc. Vừa hành quân vừa giết địch, Quảng Trung Vương định từ ngày 25 tháng 12 đến ngày 7 tháng 1 đến Thành Long ăn máu, kỳ thực vượt quá 2 ngày. Bộ đội hành quân đường dài, liên tục nhưng đội quân vẫn có trật tự, giữ bí mật, không làm phiền lòng dân, giữ vững được sức mạnh là nhờ tài tổ chức của người chỉ huy.

                  Kuang Wang Zhongyi lãnh đạo quân đội, và danh tiếng của anh ấy rất xứng đáng. Ông là một nhà chỉ huy chiến dịch thực thụ, một vị tướng lỗi lạc trên chiến trường. Dưới sự lãnh đạo tài tình của tổng tư lệnh, quân khởi nghĩa Tây Sơn đã đánh một trận oai hùng, áp đảo quân địch. Khí thế của quân khiến quân thù khiếp sợ, hình ảnh người anh hùng được khắc họa sinh động: trong cảnh “thuốc súng mịt mù khói, nhìn gần chẳng thấy gì”, nhà vua “cưỡi voi”. ” nổi bật. Hoàn thành” mặc áo khoác ngoài. Một chiếc áo choàng màu đỏ bị đen bởi tiếng súng.

                  Hình tượng người anh hùng được khắc họa đậm nét, cốt cách hiên ngang, trí trong, sắc cạnh, trung quân như thần. Quang trung nguyễn huệ là người tổ chức và linh hồn của những chiến công lớn.

                  Với ước mơ trở thành anh hùng giúp ích cho đất nước và thế giới, Ruan Tingzhao đã mạnh dạn miêu tả Lu Wenxian là một nhân vật cao quý và thậm chí phi thường. Lục Vấn Thiên là một nhân vật lý tưởng, hoàn toàn phù hợp với tiêu chuẩn của một anh hùng hào hiệp, tuổi trẻ tài cao, tràn đầy khát vọng cứu đời bằng danh và tài.

                  Trong trích đoạn “Ôn Thiên Kiều Kiều Ân Yến”, nhân vật cao ngạo, quân tử và tấm lòng trong sạch nhìn thoáng qua đã thấy rõ. Trước bọn cướp hung hãn, anh đã dũng cảm xông tới đánh cho bằng được:

                  “Trong thời gian ngắn, tứ phương đều tan vỡ, chúng vung dao, giương súng tìm đường tẩu thoát.”

                  Trước khi Kiều nguyễn nga giữ đúng lễ nghĩa:

                  “Chờ một chút, đừng ngồi đó, cô ấy là con gái và tôi là con trai.”

                  Bắt nợ ân tình, tôi từ chối thẳng thừng, giữ vững đạo làm người:

                  <3 anh hùng".

                  Lục Văn Tiến quả là một con người đại liêm, anh hùng, liêm khiết, nhân hậu, là hình ảnh cho niềm tin và khát vọng của nhân dân ta về một xã hội công bằng.

                  Hồi 14 của tiểu thuyết “Hoàng Lý Nhật Chí” thể hiện rõ xu thế lịch sử nước ta thế kỷ XVIII. Trên cơ sở ý thức tôn trọng sự thật lịch sử và ý thức dân tộc, các nhà trí thức, văn nhân Ngô Gia Văn Pai đã từng là công thần và mang ơn nhà Lê rất nhiều, nhưng cũng không nên làm ngơ trước vị vua Lê yếu kém và ghi nhận những thành tựu vẻ vang của nhà Lê. Tây Sơn quân, thể hiện hình ảnh người anh hùng Quảng Trung vương mặc áo vải, niềm tự hào của dân tộc.

                  Phân tích tác phẩm Hoàng lê nhất thống chí – văn mẫu 13

                  Hoàng Lê nhất thống chí của nhóm Ngô gia văn phả từ lâu đã được coi là bộ sử đặc biệt quan trọng và là tài liệu quý cho giới sử học nhà nước. Tuy nhiên, ngoài khuôn khổ giá trị của một cuốn sử thông thường, tác phẩm này còn có giá trị văn học hay và đặc sắc, rất tiêu biểu cho thể loại tiểu thuyết lịch sử, viết theo lối chương hồi. Vở kịch có tổng cộng mười bảy màn.

                  Đây là một bộ truyện dài về lịch sử, đầy thăng trầm, đầy bạo lực, đau thương, máu và nước mắt trong ba mươi năm qua của triều đại phong kiến ​​Việt Nam trên thế giới. xviii Đến mấy năm đầu thế kỷ XII, từ khi Trịnh Tsan lên ngôi đến khi Gia Long đánh chiếm Bắc Hà, lật đổ nhà Tây Sơn, lập nên triều Gia Long – Nguyễn. Trong các tác phẩm, tiêu biểu có cảnh thứ mười bốn: “Đấu ngọc, hồi quân, bại trận”.

                  Ra Thăng Long, Thoát Thoát Thủ Thông” là một trong những phần hấp dẫn nhất của tác phẩm “Huang Liyi Tong Zhi”. Tác giả đã dựng lên chân dung của những người anh hùng trong trang phục dân tộc. Người dân Nguyễn Huệ đã nhanh chóng đánh bại quân Thanh trong trận chiến thần tốc trận chiến , tái hiện một cách sinh động thất bại của quân Thanh và số phận bi thảm của vua Lý Triều Tông của chúng ta.

                  Có thể nói, dưới ngòi bút của tác giả, người đọc như được sống lại thời khắc đau thương của lịch sử dân tộc khi vua Thông nhà Lê băng hà vào cuối năm 1788, đầu năm Kỷ Dậu 1789. 29 vạn quân xếp hàng Thượng thư dẫn binh sang xâm lược nước ta. Ngày 22 tháng 11, quân Thượng tướng chiếm được thành Thăng Long, tướng Ngô Văn Trụ phải tạm rút về phòng thủ ba thành.

                  Trước vận mệnh “ngàn cân treo sợi tóc” của lịch sử Việt Nam, Nguyễn Huệ xuất hiện như một vị cứu tinh hiển hách. Ruan Hui đã rất tức giận khi biết tin, “quyết định dẫn quân ngay lập tức.” Chỉ trong hơn một tháng, Ruan Hui đã làm được rất nhiều việc: lên ngôi vào ngày 25, “tế trời đất cùng thần sông núi”, rồi thúc quân tiến lên phía bắc.

                  Ngày 29 Tết Ngận An, nhà vua chiêu binh, mở cuộc duyệt binh hoành tráng, quy tụ hơn 10.000 tinh binh, bác bỏ âm mưu và sự tàn ác của bọn phong kiến ​​phương bắc xâm lược, kiên định truyền thống yêu nước của dân tộc chống ngoại xâm, ra lời kêu gọi tòng quân. “Cùng nhau dựng nghiệp lớn”.

                  Truyện ngụ ngôn như tiếng sấm, như tiếng hò vang khắp sông núi, khơi dậy lòng yêu nước và truyền thống hào hùng của dân tộc. Hơn thế nữa, nhà vua còn bày ra kế sách tác chiến: “Lần này ta sẽ đích thân thống lĩnh quân đội, ta có một chiến lược tấn công, mười ngày có thể đánh đuổi quân Thanh, chia quân thành năm đạo. ” Hôm ấy là ngày 30 tháng Chạp, nhà vua mở tiệc chiêu đãi quan quân, vào thành Thăng Long ăn mừng vào ngày mồng 7 Tết…

                  Như vậy ta thấy lượng trung vương – nguyễn huệ là người mạnh mẽ, dám nghĩ dám làm, có trí tuệ sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng trong việc đánh giá tình hình địch ta, vua chưa phân thắng bại, nhưng vua đã nhìn ra chính sách đối ngoại, kế hoạch hòa bình 10 năm tới.

                  Mượn lời của một cung thủ già, tác giả đã làm nổi bật phẩm chất anh hùng phi thường của Nguyễn Huệ trước khi Trận Ngọc bắt đầu: người cầm quân nhìn từ bắc chí nam, hiện ra trên mặt như một bóng ma, không ai ngờ được .

                  Thấy anh ta lật tay, lại nhìn anh ta, ai cũng sợ hết hồn, sợ sấm sét “”. Những nhận xét đó không phải là không có cơ sở. Cụ thể, khi trực tiếp chỉ huy quân đội của nhà vua, vua Quân trung tỏ ra uy nghiêm, oai hùng trong trận mạc, và có tài thao lược hơn người.

                  Khi sang đóng ở sông Ly gián, thanh quynh, tàn quân vừa thấy bóng vua liền “bỏ chạy trước”, Tề triệu quân đến, “Ai nấy đều kinh hãi, xin đầu hàng ngay. Lương thực khí giới đã hết”. Sáng mùng 5 Tết, gần đồn Dư Hải, để chống pháo địch, Quảng Trung Vương sai thuộc hạ lấy ván gỗ, sáu mươi tệ, ba tấm ván. trong một, phủ rơm bên ngoài. Cứ mười người dội một hình nước lên người, mang theo đoản đao, theo sau là hai mươi tên vũ trang xếp thành chữ “nhất”, tiến thẳng vào đồn.

                  Do đó, súng của kẻ thù bắn ra là vô dụng. Vì gió bắc, quân Thanh dùng súng phun khói thuốc súng lên trời nhằm làm quân ta hoang mang, nhưng gió đột ngột chuyển hướng nam, quân Thanh tự sát. Trước tình thế ngàn năm có một, nhà vua lập tức hạ lệnh cho mọi người khiêng những tấm ván gỗ mới đóng, xông lên phía trước, dùng kiếm và súng va chạm, rồi dùng dao ngắn ném những tấm gỗ xuống đất để chặt.

                  Kết quả là quân Thanh “xác chết ngổn ngang, máu chảy như sông, quân Thanh đại bại”. Thừa thắng xông lên, Quảng Trung vương cưỡi voi khải hoàn, oai phong lẫm liệt, giải phóng thành Thăng Long vào trưa mùng 5 Tết, sớm hơn dự định ban đầu hai ngày. Giặc bỏ chạy, nhà vua mai phục quân ở đê Yên Duyên và Đại Áng, vây quân Thanh ở Quynh Đô, giặc chạy đến đầm Mực, cuối cùng quân Tây Sơn “dẫm voi chết hàng vạn”. mọi người”..

                  Nhà văn miêu tả chi tiết, sinh động sự bại trận của các tướng lĩnh quân Thanh và số phận tủi nhục, bi thảm của bọn vua chúa phản nước hại dân bằng giọng điệu đáng thương nhưng cũng rất đỗi tự hào. Vua Quảng Trung tiến đánh Thăng Long, rồi kéo đại binh vào thành. Các bậc trưởng lão và vua chúa Thăng Long chỉ chú tâm vào Hội xuân, yến tiệc linh đình, không lo tai nạn.

                  Trái lại, quân ta hung như hổ báo, thế như chẻ tre, “tướng từ trên trời xuống, binh mã từ dưới đất lên”. Không chuẩn bị cho cuộc tấn công bất ngờ, nguyên lão sợ mất mật, ngựa không kịp lên yên, người không kịp mặc áo giáp, cứ thế chạy về phía bắc. Dong Sui khả nghi treo cổ tự tử, quân Thanh đều “hoảng sợ, phân tán bỏ chạy, đánh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau, chết rất nhiều. Một lúc sau, cầu lại gãy, quân lính đều rơi xuống nước, còn sông vì thế mà bị tắc, không chảy được nữa”.

                  Nhưng vua tôi phản nước, hãm hại số phận bi thảm của người dân Lý Triều Tông, lại còn chịu nỗi nhục của kẻ mất nước. Lê chiêu thống cũng cùng đồng bọn “đem hoàng hậu ra ngoài”, phiêu bạt khắp nơi, cướp thuyền của người dân để mưu sinh, may được thổ dân cưu mang nuôi sống, dẫn đường chạy thoát. Khi đuổi kịp các bậc trưởng lão, vua tôi “nhìn nhau thở dài, tủi thân khóc ròng”, về sau phải cạo đầu, tết ​​tóc, như một kẻ mãn nguyện…

                  Cho đến nay, có thể thấy tác giả Wu Jiawenzong là một người tôn trọng lịch sử và sự thật khách quan. Họ tuy là cựu thần nhà Lê, lợi dụng nhà Lê, không có cảm tình với Tây Sơn quân, thậm chí coi Tây Sơn quân là kẻ thù, nhưng họ vẫn viết ra công tích Quảng Trung và nghĩa quân. Những người lính trong bộ quần áo hả hê, mạnh mẽ, kiêu hãnh.

                  Đó là do người trí thức có lương tri và ý thức dân tộc. Họ đã nhìn thấy những hạn chế, sự thối nát, hèn nhát của nhà Lê và sự hung hãn, độc đoán của quân Thanh, không thể khoanh tay đứng nhìn. Vì vậy, chúng tôi vô cùng khâm phục tình cảm, tinh thần trách nhiệm và tình yêu đất nước, dân tộc của nhóm nhà văn Ngô Gia Văn.

                  Đoạn “Mười bốn hồi” trong “Hoàng Lý Nhật Chí” là một câu nói nổi tiếng hay và đặc sắc, có nhiều thành tựu nghệ thuật: miêu tả rất sinh động, đặc biệt có thể để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người; giọng điệu thay đổi linh hoạt, Phù hợp với mọi đoạn, mọi hoàn cảnh lịch sử. Cảnh miêu tả cuộc tháo chạy của các tướng lĩnh quân Thanh là biểu hiện hả hê, mãn nguyện của kẻ chiến thắng khi đứng trước thất bại thảm hại của kẻ thù: giọng điệu vội vã, gấp gáp, gây hỗn loạn.

                  Miêu tả cuộc chạy trốn của Vương Lý Chiêu Đồng dài hơn, giọng chậm rãi hơn, toát lên sự chua xót, ngậm ngùi… đặc biệt thành công nổi bật của đoạn trích là nghệ thuật miêu tả hình tượng. Các nhân vật trực diện với bản chất: Quý phi (tướng quân nhà Thanh) kiêu căng ngạo mạn, khi quân Tây Sơn tấn công thì “sợ mất mật” hèn nhát dẫn quân bỏ trốn;

                  Vua Thông nhà Lý hiện lên với hình ảnh ích kỷ, phản động, hèn hạ, vì lợi nước mà nhục nhã, cướp của dân mà chạy trốn; Hòang Trung Vương, nhân vật chính trong truyện, hội tụ nhiều đặc điểm của người anh hùng “Phàn Wusong Daoan” , mặc trên trời, đạp đất…tất cả trong một, tạo nên một tiểu thuyết lịch sử thành công rực rỡ viết theo thể văn chương hồi.

                  Khép lại đoạn trích “Cảnh mười bốn”, người đọc thấy được âm mưu thâm độc của quân xâm lược phương Bắc đối với dân tộc ta. Đồng thời, qua đoạn trích, ta càng thêm tự hào về truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc Việt Nam đã thấm nhuần và biết ơn sâu sắc các bậc anh hùng, trong đó có vua và các nghĩa sĩ. Sanguang Zhong-Ruan Hui.

Kiểm tra tiếng Anh trực tuyến

Bạn đã biết trình độ tiếng Anh hiện tại của mình chưa?
Bắt đầu làm bài kiểm tra

Nhận tư vấn lộ trình từ ACET

Hãy để lại thông tin, tư vấn viên của ACET sẽ liên lạc với bạn trong thời gian sớm nhất.