Thế Lữ (1907-1989) là bút hiệu của Nguyễn Thu Lễ. Làm thơ, viết truyện, viết kịch bản, làm đạo diễn. Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam. Trong mọi khía cạnh, anh ấy đã đạt được sự xuất sắc. Lữ Thạch là nhà thơ tiên phong, được mệnh danh là “Thi nhân đầu tiên” (1932-1941) trong phong trào “Thơ mới”. Nhiệt tình, tâm huyết, nghiêm túc.
Bài thơ “Nhớ rừng” được viết năm 1934, nằm trong tập “Vần tháng năm” xuất bản năm 1935. Lời tự thú của những người bị bắt và nỗi sầu muộn, lòng căm thù và khát vọng tự do cháy bỏng của những người nô lệ.
Nhốt hận vào lồng sắt. Bị nhốt trong “lồng sắt”, hận thù tích tụ thành “khối”, “gặm nhấm” cho đến bao giờ mới tan, càng “gặm nhấm” lại càng cay đắng. “Bất lực, đau đớn” trong một thời gian dài. Bị “chế giễu”, “nhốt vào tù”, trở thành “đồ chơi” cho “sự kiêu ngạo và ngu xuẩn” của kẻ khác, đau đớn nhất là chúa sơn lâm giờ đây bị coi thường, địa vị bị hạ thấp:
“Hãy chịu đựng con gấu điên,
Với một cặp báo hoa mai trong chuồng vô tư lự”.
Đây là tâm trạng bi kịch tiêu biểu của chúa sơn lâm khi lưu lạc, lạc loài, bị giam cầm. Trong bối cảnh lịch sử của nước ta khi bài thơ ra đời (1934), nỗi nhục nhã, căm thù, cay đắng của con hổ cũng đồng thời với bi kịch “thơ ô, lầm than” của nhân dân ta sống trong tăm tối dưới ách nô lệ.
Chúng ta sống mãi trong tình yêu và nỗi nhớ. “Tình Yêu Và Nỗi Nhớ” sẽ tồn tại mãi mãi và sẽ không bao giờ bị lãng quên. Tôi nhớ “Thời Ta Lang Thang…” và “Nhớ Cảnh Rừng, Bóng Cây Xưa”. Nhớ khúc nhạc rừng hùng tráng: chữ “nhớ”, chữ “và” và các nhịp điệu (4-2-2, 5-5, 4-2-2…) chuyển dịch cân đối, ngân vang một cách man mác. của nỗi nhớ. , thưa cô, thưa cô.
Âm nhạc phong phú ghi lại đời sống nội tâm vô cùng mạnh mẽ của một người đàn ông phi thường với một quá khứ lẫy lừng. Thân hình “như con sóng lăn tăn nhịp nhàng”. Bước đi uy nghiêm và mạnh mẽ “dũng cảm, trang nghiêm”. Một đôi “mắt thần” nên “lãng phí”; “vạn vật im lìm”. uy quyền không thể phá vỡ. Lời bài hát về nỗi nhớ:
“Nhớ cảnh bóng cây xưa
Thì thầm với tiếng gió, và hú núi với âm thanh của nguồn.
Kèm theo những bài thánh ca dữ dội
Chúng ta đứng lên, dũng cảm, trang nghiêm,
Cuộn cơ thể như làn sóng nhịp nhàng
Bóng lặng, lá gai, cỏ nhọn
Trong hang tối, mắt chúa nhăn lại
Chỉ cần làm cho mọi thứ im lặng…”
Các động từ như “khóc, kêu, kêu” diễn tả cái hùng tráng thiêng liêng, hùng vĩ của núi rừng, sông suối. Những vần thơ đẹp đó làm cho thơ mới sang trọng. “Ta nằm xuống”… rồi “Ta sống hoài trong hoài niệm”. Nhớ thời “ra lò…”, nhớ một thời vàng son thịnh hành:
“Ta biết rằng ta là Chúa tể của vạn vật,
Trong không tên, sự hào hoa vĩnh cửu”.
Từ “ta” vang lên kiêu hãnh. The King of the Jungle được miêu tả trong chiều sâu của tâm linh, ở đỉnh cao của quyền uy quyết đoán. Câu hỏi tu từ cứ gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh, khơi dậy dòng lũ “hoài niệm”: “Từ đâu đến…”, “Ngày từ đâu đến…”, “bình minh từ đâu đến”. ..”, “Còn đâu chiều…”. Nhớ mãi, nhớ đêm trăng và dòng suối, nhớ ngày mưa, nhớ bình minh, nhớ giấc ngủ, nhớ tiếng chim, nhớ chiều “đẫm máu” .. .”.
Câu thơ hào hùng kể về bốn nỗi nhớ của chúa sơn lâm, không ngừng nhớ về ngày đêm, chiều chiều, mưa nắng, thức và ngủ, say và lặng, chờ đợi… Thể hiện một không gian nghệ thuật và thông qua tứ họa của họa sĩ để miêu tả. Chúa sơn lâm có khi mơ mộng bên suối trăng, có khi ngồi thiền, có khi trầm mặc, kiên nhẫn chờ đợi “thập…” và “sầu…”! 10 câu thơ này là những câu thơ hay nhất trong bài thơ “Yếu Lâm”:
“Còn đâu đêm vàng bên suối,
Ta say, uống ánh trăng. ‘
Mưa ở đâu
Chúng tôi âm thầm theo dõi các cập nhật của mình
Nơi đâu cây xanh bình minh nắng vàng
Tiếng chim hót giấc ngủ ta có vui không?
Còn đâu buổi chiều đẫm máu sau rừng
Tôi đang chờ chết
Hãy để tôi tiết lộ bí mật
-Than ôi! Đâu rồi những ngày huy hoàng? “
Hồi tưởng về một thời vàng son, một thời huy hoàng, bỗng nhiên chúa sơn lâm chợt tỉnh giấc, trở về thực tại với chiếc lồng sắt, vô cùng đau đớn và cay đắng. Tiếng hổ gầm như long trời lở đất. Sự kết hợp giữa câu cảm thán và câu hỏi tu từ, vang vọng cả một dòng thơ, là lời cảm thán về “sự tích thiêng liêng” của một nhân vật phi thường đã lưu lạc nơi đây, đồng thời cũng là lời cảm thán của lớp người khao khát tự do trong thời đại ấy :
“Than ôi! Đâu rồi những ngày vinh quang?”
Bây giờ tôi ôm mối hận.
Trở về với nỗi buồn và hoài niệm về “Phong cảnh non nước hùng vĩ”. Chỉ có thể nghiêm túc và khó chịu nhắn tin: “Ôi cảnh rừng dễ sợ quá!”.
“Nhớ rừng” là một bài thơ tuyệt vời. Nó đã được liệt kê là mười bài thơ mới hàng đầu. Hình ảnh tuyệt đẹp. Cách diễn đạt và sử dụng ngôn ngữ biến hóa. Nhạc hợp âm và nhạc đa âm tạo nên những tiết tấu du dương. Thơ tả nhạc như quyến rũ, làm say đắm hồn ta.
Hình ảnh chúa sơn lâm hoài niệm về rừng đã được nhiều “lớp sóng” nói đến. Trong nỗi đau yếu cơ, mất đi niềm tự hào, kiêu hãnh. Bài thơ như một lời nhắn nhủ chân tình về tình yêu quê hương đất nước. Tư tưởng lớn nhất của bài thơ này là nói lên cái giá của tự do và khát vọng tự do.