1.Sự ra đời của Chính sách kinh tế mới.
Cuối năm 1920, nước Nga Xô viết thoát khỏi nội chiến và bắt đầu xây dựng một hệ thống xã hội mới trong điều kiện hòa bình, nhưng gặp rất nhiều khó khăn: hậu quả của chủ nghĩa đế quốc và nội chiến đã qua. Nền kinh tế bị thiệt hại nặng nề, tình hình kinh tế – xã hội hỗn loạn, nông dân nhiều nơi tỏ ra bất mãn với chính sách “cộng sản thời chiến”, thể hiện rõ nét nhất trong cuộc bạo loạn ở Crô-a-ti-a. Chính sách cộng sản thời chiến là một biện pháp cưỡng chế khi Nội chiến Nga nổ ra vào cuối năm 1918. Mười bốn nước đế quốc đứng đầu là Anh và Pháp đã can thiệp vũ trang nhằm bóp nghẹt nhà nước Xô Viết non trẻ. Trong hoàn cảnh chiến tranh tàn phá kinh tế, thực hiện khẩu hiệu do Lênin nêu ra: “Tất cả vì mục tiêu tiêu diệt kẻ thù”, chính sách cộng sản thời chiến ra đời nhằm huy động mọi nguồn lực, vật lực để phục vụ chiến tranh. Chính sách cộng sản thời chiến bao gồm:
– Tịch thu thóc lúa thừa của nông dân, nhà nước độc quyền mua bán lúa mì để cung cấp cho các thành phố và quân đội.
– Nhà nước kiểm soát việc sản xuất và phân phối sản phẩm công nghiệp.
– Cấm mua bán trao đổi sản phẩm trên thị trường, đặc biệt là lúa mì và có chế độ chứng từ, phân phối trực tiếp hàng hóa vật chất đến người tiêu dùng.
– Thực hiện chế độ lao động bắt buộc toàn dân, không việc, không ăn.
Kết quả của chính sách này là phần lớn sản xuất tập trung trong tay nhà nước, nhờ khả năng của nước Nga Xô viết giành chiến thắng trong cuộc nội chiến mà không cần sự can thiệp của nước ngoài.
Sau chiến tranh, chính sách này tỏ ra không phù hợp trong điều kiện mới, nông dân tỏ ra bất bình, do kéo dài lệnh cấm mua bán, lưu thông hàng hóa bị thu hẹp, bỏ mặc quan hệ hàng hóa – tiền tệ.
p>
Trước những điều trên, tháng 3 năm 1921, V.I.Lênin đã vạch ra một chính sách kinh tế mới thay thế chính sách cộng sản thời chiến, lần đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm “Bàn về thuế thóc”
2. Nội dung chính của chính sách kinh tế mới (nep)
Chính việc khôi phục và phát triển quan hệ hàng – tiền, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước và các thành phần kinh tế khác, coi đó là biện pháp quá độ, giải quyết vấn đề dây chuyền trung gian, chuyển sang công nghệ hiện đại là con đường phát triển mạnh mẽ phát triển năng suất . Đây là chính thức và những cách thức mới để xây dựng xã hội dân sự, thay thế các chính sách của chủ nghĩa cộng sản thời chiến. Đầu ra không phù hợp với điều kiện đã thay đổi.
Nếp là sự đổi mới ý thức xã hội chủ nghĩa, thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, sự phát triển của quan hệ hàng hóa-tiền tệ, nền kinh tế thị trường và sự giao lưu giữa các thành phố. Nông thôn nằm giữa công nghiệp và nông nghiệp, chính sách thuế lương thực được sử dụng thay cho chính sách trưng dụng ngũ cốc, chú trọng kích thích lợi ích vật chất, lấy nó làm động lực quan trọng để phát triển kinh tế, sử dụng hình thức tư bản nhà nước. Sau đây là nội dung chính của nep:
a.Thuế lương thực.
Sự ra đời của chính sách thuế lương thực – sự khởi đầu của nep – đã đánh dấu một bước chuyển biến mới về chất trong Liên minh Công nông ở Nga lúc bấy giờ. Theo Lênin, trong tình hình hiện nay ở Nga, “đây là một trong những vấn đề chính trị chủ yếu” [1] . Lê-nin lần đầu tiên chỉ ra rằng để khôi phục và phát triển kinh tế thì phải tiến hành những biện pháp cấp bách và quyết định nhất là cải thiện đời sống của nông dân, phát triển mạnh mẽ năng suất. Bởi vì, theo V.I.Lê-nin “muốn cải thiện đời sống của người lao động thì cần phải có bánh mì và nguyên liệu. Xét từ quan điểm của toàn bộ nền kinh tế quốc dân ta hiện nay” trở ngại lớn nhất là ở chỗ đó. Có như vậy, chúng ta mới có thể tăng sản lượng và thu hoạch lúa mì, tăng năng suất dự trữ và vận chuyển nhiên liệu”[2]. Đồng thời, Lênin cũng phê phán tư tưởng nâng cao ý thức của giai cấp công nhân này. .Một lối sống khác, ở Người dường như là đặt lợi ích xã hội của công nhân lên trên lợi ích giai cấp, tức là chỉ nhìn vào lợi ích trước mắt và lợi ích nhất thời, bảo vệ lợi ích bộ phận của công nhân tại chi phí cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, chuyên chính vô sản và liên minh với nông dân .
Để thực hiện được các nhiệm vụ trên, theo Lênin phải thực hiện chính sách thuế lương thực. Nội dung chính của chính sách này là:
– Nhà nước định trước và ổn định mức thuế lương thực cho nông dân (thường chỉ bằng 1/2 so với trước đây).
– Sau khi nộp thuế lương thực theo quy định, nông dân được tự do bán sản phẩm của mình để mua các sản phẩm công nghiệp cần thiết, nếu sản xuất nhiều hơn và nộp thuế, nông dân sẽ bán được nhiều hơn và kiếm được nhiều tiền hơn.
Chính sách này đã mang lại những kết quả quan trọng cho sự phục hồi và phát triển của nền kinh tế Nga sau chiến tranh.
b.Khôi phục và phát triển quan hệ trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp.
Lênin cho rằng vấn đề trao đổi hàng hóa là hình thức chủ yếu của quan hệ kinh tế thành thị – nông thôn và là tiền đề cần thiết cho sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không giống như cơ chế bàn giao và sung công của các chính sách cộng sản thời chiến tranh trước đây, việc trao đổi sản phẩm kinh tế cho phép những điều sau:
Một là, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng đa dạng của nông dân và xã hội. Thông qua trao đổi hàng hoá sẽ thúc đẩy phân công lao động trong nông nghiệp, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.
Thứ hai,, đây là cách quốc gia giải quyết vấn đề lương thực ở một mức độ nhất định, sản xuất lương thực thương mại nhiều hơn sẽ khuyến khích nông dân mở rộng diện tích. Làm ruộng, làm ruộng. Kết quả là tổng lượng lương thực trong xã hội tăng lên, và ngày càng có nhiều lương thực lọt vào tay nhà nước thông qua trao đổi và đánh thuế.
Thứ ba là, thúc đẩy nền kinh tế thành thị và nông thôn và các hoạt động xã hội khác nhau.
Vì vậy, Lênin đã thể hiện quan điểm “dân nông xuất phát” thành hai chính sách thuế thóc và trao đổi hàng hóa. Điều này cho thấy chính sách thuế lương thực của Lênin cũng bao gồm ý tưởng chuyển sang kinh doanh lương thực. Thiết nghĩ, để thực hiện trao đổi hàng công, nông sản cần giải quyết hai vấn đề:
– Thứ nhất, nguồn hàng công nghiệp để trao đổi.
– Thứ hai, mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế hàng hóa để đạt được sự phát triển kinh tế mới với việc khắc phục, kích thích xu hướng phát triển tư bản chủ nghĩa của sản xuất hàng hóa nhỏ.
Lênin đã nói: Sự phát triển của trao đổi tư nhân là tất yếu đối với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, cấm, cản phát triển có hại cho cách mạng nhưng không được coi thường, buông lỏng việc kiểm tra, kiểm soát phát triển.
c. Sử dụng hình thức tư bản nhà nước.
Lênin chỉ ra rằng ở nước Nga, một nước mà kinh tế tiểu nông chiếm ưu thế, chừng nào còn tự do buôn bán, trao đổi, thì sự phát triển của nền kinh tế nhỏ chính là sự phát triển của tiểu tư sản, tính tự phát của chủ nghĩa tư bản. Đây là một sự thật cơ bản của kinh tế chính trị. Vấn đề là nhà nước vô sản nên có thái độ như thế nào?
Như Lênin đã khẳng định, chính sách đúng đắn nhất là giai cấp vô sản cung cấp cho tiểu nông tất cả các sản phẩm công nghiệp mà họ cần, do các nhà máy xã hội chủ nghĩa lớn sản xuất, để đổi lấy gạo, mì và nguyên liệu. Nhưng tình hình hiện tại không cho phép chính phủ Liên Xô làm như vậy. Vậy lam gi? Theo Lênin, có hai giải pháp:
– Hoặc là tìm cách ngăn cấm, chấm dứt hoàn toàn mọi sự phát triển của trao đổi tư nhân phi nhà nước, tức là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và tiểu thương, đó là một xu thế tất yếu của hàng triệu người sản xuất nhỏ, Lênin nói, “chính sách mà muốn áp dụng Nó là ngu ngốc và tự sát với đảng của mình.”
– Hay tìm cách dẫn dắt sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đến con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước. Lênin cho rằng đây là chính sách duy nhất có thể áp dụng và hợp lý.
Người ta đã nhiều lần khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước tiến xa hơn chủ nghĩa tư sản một bước, tiến gần chủ nghĩa xã hội hơn chủ nghĩa sản xuất hàng hóa nhỏ và chủ nghĩa tư bản tư nhân. Ai vào thời điểm đó đã phát hiện ra các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước Nga: nhượng quyền, hợp tác xã, đại lý, cho thuê. Các hình thức này tuy khác nhau nhưng đều nhằm khôi phục và phát triển kinh tế hàng hoá của nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ và bảo đảm cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Rõ ràng, cơ chế kinh tế của thời kỳ Chính sách kinh tế mới là quá độ và gián tiếp, phương hướng của nó là “không phá bỏ cơ cấu kinh tế – xã hội cũ, công thương nghiệp, tiểu nông, công nghiệp, tiểu thương, tư bản chủ nghĩa mà làm hại nhà nước”. đến thương mại. Khôi phục điều tiết, nhưng chỉ khôi phục ở mức độ khôi phục. Cơ chế này hoàn toàn khác với cơ chế kinh tế chỉ huy trực tiếp của chính sách cộng sản thời chiến đã được thực hiện trước đây.
Trong thời đại của chủ nghĩa Lênin, các hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước bao gồm:
– Hình thức thứ nhất là nhượng bộ, mà theo Lênin “là một liên minh, một hợp đồng kinh tế với tư bản tài chính của các nước phát triển” [4]. Ý nghĩa chính trị của Lênin được quan niệm là nhượng bộ – hình thức quan trọng nhất của chủ nghĩa tư bản nhà nước: nhượng bộ là liên minh của một bên chống lại bên kia, chừng nào chúng chưa đủ mạnh thì ta phải lợi dụng chúng. của chiến tranh trong lĩnh vực kinh tế, Nhưng chúng ta không làm năng suất ở đây, sản lượng của chúng ta bị phá hủy, nhưng năng suất tăng lên” [5] .
– Hình thức thứ hai là Hợp tác xã tiểu chủ (htx), là một hình thức tư bản nhà nước vì thông qua hình thức này việc kiểm soát hàng tồn kho được thuận lợi, nhưng nó khác với hình thức nhượng quyền thương mại ở chỗ nó lấy đại công nghiệp làm cơ sở, còn chế độ htx dựa vào sản xuất thủ công nghiệp. Theo Lênin, việc chuyển từ sản xuất hàng hóa nhỏ sang sản xuất hàng hóa lớn là một quá trình phức tạp, bởi giám sát người nhận quyền thì dễ, giám sát xã viên rất khó, đó là cả một quá trình. trên cơ sở tự nguyện.
– Một hình thức thứ ba của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong lĩnh vực thương mại, trong đó nhà nước thu hút tư bản thương mại, trả cho họ một khoản hoa hồng để bán sản phẩm của nhà nước và mua sản phẩm của những người sản xuất nhỏ.
– Hình thức thứ tư là nhà nước cho tư bản thuê nhà máy, khu mỏ, rừng, đất đai.
Lênin đánh giá cao vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước khi sản xuất hàng hóa nhỏ vẫn còn phổ biến, và khẳng định rằng “không phải là cuộc đấu tranh của công nghiệp quốc doanh chống lại chủ nghĩa xã hội, mà là cuộc đấu tranh của giai cấp tiểu tư sản cộng với chủ nghĩa tư bản tư nhân chống lại chủ nghĩa tư bản nhà nước ” và chủ nghĩa xã hội” [6]; “Chủ nghĩa tư bản dân tộc là một tiến bộ lớn. Tuy nó đòi hỏi học phí, nhưng đó là một chính nghĩa đáng giá. Nó chẳng những không làm cho chúng ta diệt vong mà ngược lại, nó có thể đưa chúng ta đến chủ nghĩa xã hội an toàn nhất .đường”[7].
Có thể thấy, trong tư tưởng kinh tế của Lênin, chính sách kinh tế mới có liên quan đến việc vận dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước và Lênin đã phát hiện ra tính quy luật của sự chuyển biến của kinh tế tư nhân. Tư bản cá thể và tư nhân chuyển hóa lên chủ nghĩa xã hội thông qua hình thái kinh tế tư bản nhà nước. /i>
v.i.Lê-nin đã giải thích những chức năng mới của nhà nước vô sản trong phát triển kinh tế, như: điều tiết việc mua bán hàng hoá và lưu thông tiền tệ, tổ chức bán buôn và bán lẻ quốc thương, phát triển quan hệ hàng-tiền, quan hệ tín dụng, tính thương mại như việc thực hiện nep một phần quan trọng của. Sở dĩ Lênin coi thương nghiệp là một mắt xích trong quá trình phát triển nền kinh tế mới là vì mục tiêu quan trọng của nền kinh tế mới là thiết lập một khối liên minh kinh tế giữa giai cấp công nhân và nông dân trong điều kiện kinh tế còn lạc hậu, manh mún, mà thương nghiệp là mũi nhọn duy nhất. kinh tế giữa họ liên kết.
3. Ý nghĩa của việc thực hiện chính sách kinh tế mới.
v.i Lênin bảo vệ và phát triển học thuyết Mác – Ăng-ghen, nâng nó lên một tầm cao mới trong bối cảnh lịch sử phát triển từ chủ nghĩa tư bản sang giai đoạn tiên tiến của chủ nghĩa đế quốc cuối và đầu thế kỷ 20. Lênin kế thừa học thuyết chủ nghĩa Mác trong điều kiện mới , sáng tạo ra lý luận khoa học về chủ nghĩa đế quốc, đồng thời sáng tạo ra lý luận mới về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người đã xác định kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoạch định chính sách kinh tế mới (nếp), vạch ra những nét cơ bản về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước kinh tế kém phát triển.
Khi hoạch định chính sách kinh tế mới, Lênin khẳng định: “Chúng ta phải thừa nhận rằng toàn bộ quan niệm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi căn bản”[8]. Những ý tưởng của Lenin trong NEP về sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần, sự phát triển của quan hệ hàng hóa-tiền tệ trong nền kinh tế thị trường và việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước dường như mâu thuẫn với các quan niệm của chủ nghĩa Mác. Engels lập luận rằng chủ nghĩa cộng sản đã bãi bỏ thương mại, cùng với việc loại trừ sản xuất hàng hóa khi xã hội nắm quyền kiểm soát tư liệu sản xuất.
Thực ra, cần phải hiểu những điều kiện lịch sử cụ thể của các quan điểm cổ điển, những kết luận nêu trên của Mác và Ăng-ghen là dự báo về giai đoạn phát triển của chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là dự báo về giai đoạn thấp hơn của nó, đó là , chủ nghĩa xã hội. Điều này càng khẳng định: đây là một xã hội vừa mới thoát ra khỏi xã hội tư bản và do đó là một xã hội còn mang dấu vết của xã hội chủ nghĩa về mọi mặt kinh tế, đạo đức, tinh thần. Nó ra đời từ xã hội cũ… Phương pháp luận cổ điển đã chỉ ra một cách đúng đắn rằng cơ sở để xoá bỏ chế độ tư hữu là lực lượng sản xuất phải được phát triển đến một trình độ, một trình độ nhất định và một trình độ xã hội hoá cao chứ không phải chỉ mệnh lệnh hành chính hay mong muốn chủ quan.
Biện chứng của lịch sử là muốn xóa bỏ chế độ tư hữu thì phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường để thực hiện chế độ tư hữu trong một thời gian ngắn. Đây là quy luật khách quan và biện chứng của sự phát triển đã được Lênin vận dụng sáng tạo trong nền kinh tế mới. Nhiều nước XHCN trước đây như Liên Xô cũ, Đông Âu chủ trương nhanh chóng xóa bỏ chế độ tư hữu, thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, không thừa nhận kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, không phát triển hàng hóa – tiền tệ. quan hệ và kinh tế thị trường chính vì không nhận thức và vận dụng quy luật này, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa chủ yếu hướng nội, chưa tích cực tham gia các nhiệm vụ hợp tác quốc tế, coi nhẹ vai trò của ngành dịch vụ trong nền kinh tế. Tâm lý này cản trở sự phát triển và dẫn đến khủng hoảng trầm trọng.
Đại hội Đảng (12-1986) đánh dấu một bước ngoặt trong công cuộc đổi mới, nhất là đổi mới tư duy kinh doanh, với quan điểm nhìn đúng sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói đúng sự thật. Đảng ta khẳng định quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển nền kinh tế có tính tự cung tự cấp cao sang nền kinh tế hàng hóa, khẳng định tính tất yếu của việc vận dụng quan hệ hàng hóa – tiền tệ trong điều kiện xã hội chủ nghĩa, và coi kế hoạch hóa là cơ chế quản lý của nền kinh tế mới Đặc điểm thứ nhất, sử dụng đúng quan hệ hàng – tiền là đặc điểm thứ hai. Vì vậy, mặc dù ý thức của đại hội lần này chưa đạt đến ý thức kinh tế thị trường, nhưng nó đã đặt nền móng cho sự phát triển của đảng ta cho các kỳ đại hội sau.
Đảng ta càng nhận thức sâu sắc hơn mối quan hệ giữa mục đích và phương tiện. để xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng cả chủ nghĩa xã hội. >[9]
Phải đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001), Đảng ta mới chính thức đề ra khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và khẳng định phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán và là định hướng chung phát triển kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là mô hình kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển, không chỉ mang những đặc điểm chung của kinh tế thị trường hiện đại mà còn có những đặc điểm riêng phù hợp với điều kiện của đất nước Việt Nam. Nghị quyết Đại hội IX xác định mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là bước phát triển mới về nhận thức lý luận so với mô hình kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành. Dựa trên cơ chế thị trường và sự điều tiết của nhà nước theo quy định của Quốc hội viii. Tập Cận Bình đã đưa quan điểm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vào Đề cương xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ xã hội chủ nghĩa (Biên bản bổ sung năm 2011).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Trung Quốc, trên cơ sở tổng kết thực tiễn và lý luận phát triển kinh tế thị trường Việt Nam trong 30 năm qua, rút kinh nghiệm quốc tế, đã bổ sung, hoàn thiện và xác định các nội dung cụ thể. , quan niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam phù hợp với bối cảnh mới. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành toàn diện, đồng thời phù hợp với các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của một nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. “.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế tư nhân là nền kinh tế chủ đạo, kinh tế tư nhân là là cơ thể chính. là động lực quan trọng của nền kinh tế, các chủ thể kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh theo pháp luật và nguyên tắc thị trường, giữ vai trò chủ đạo trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu thúc đẩy giải phóng năng suất; Chiến lược và kế hoạch được cấu hình. Nhà nước giữ vai trò định hướng xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và nguồn lực của Nhà nước để định hướng, điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội vào từng bước và từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò chủ đạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xác định rằng “đến năm 2020, phù hợp với các tiêu chuẩn chung của nền kinh tế thị trường hiện đại và các tiêu chuẩn quốc tế, phấn đấu cơ bản thiết lập mục tiêu của một hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ; bảo đảm đồng bộ giữa hệ thống kinh tế và hệ thống chính trị, đồng bộ giữa quốc gia và thị trường”[10].
Rõ ràng là c. Đánh dấu và ph. Ăng-ghen chỉ đưa ra dự đoán khoa học về xã hội cộng sản thông qua phân tích thực tiễn của chủ nghĩa tư bản, đòi hỏi Đảng Cộng sản phải phát triển một cách sáng tạo học thuyết của Chủ nghĩa Mác và Ph.Ăngghen vào điều kiện cụ thể của đất nước mình. Chủ trương của Lênin, rút ra từ thực tiễn nước Nga, được tổng kết như sau: “Trên cơ sở tất cả những bài học của nền văn minh vĩ đại của chủ nghĩa tư bản, chúng ta không thể tưởng tượng ra một loại chủ nghĩa xã hội nào khác ngoài chủ nghĩa xã hội”[11 ]
Trong việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước, cần tránh khắc phục chủ nghĩa duy ý chí, chủ nghĩa giáo điều và những quan điểm chủ quan cánh tả xuyên tạc lý luận tư duy cổ điển. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu, Liên Xô cũ và Việt Nam thời kỳ trước cách mạng đã cho thấy rõ điều này. Cuộc sống cho thấy mô hình chủ nghĩa xã hội cũ là kế hoạch hóa tập trung cao độ, chỉ chú trọng thúc đẩy đổi mới và phát triển quan hệ sản xuất, chưa quan tâm đúng mức đến vai trò của lực lượng sản xuất. Nền kinh tế đã bế tắc mô hình này và đang rơi vào khủng hoảng sâu sắc.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ ra bài học đầu tiên của 30 năm cải cách, mở cửa là “trong quá trình đổi mới phải chủ động, kiên định sáng tạo vì mục tiêu độc lập dân tộc và độc lập dân tộc”. xã hội chủ nghĩa, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với điều kiện đất nước Việt Nam”[12].
Kể từ khi thành lập Chính sách mới cách đây 35 năm, Đảng ta đã vận dụng, vận dụng sáng tạo và phát triển Chính sách kinh tế mới của Lênin trong phát triển nền kinh tế đa dạng, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập quốc tế phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. quốc gia. Công cuộc phát triển kinh tế – xã hội của nước ta đạt được những kết quả quan trọng, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển hơn nữa của đất nước trong tương lai.
Trước yêu cầu và yêu cầu mới của thực tế, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã bổ sung nhiều nhận thức chỉ đạo mới về hệ thống phát triển, nhấn mạnh sự cần thiết phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, thúc đẩy đổi mới, chuyển đổi số với định hướng xã hội chủ nghĩa định hướng, hình thành mô hình kinh tế mới Trong mô hình kinh tế Trung Quốc, phát triển các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân, được coi là động lực quan trọng. Trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030 xác định “Đổi mới toàn diện, đồng bộ, hiện đại hóa, nâng cao chất lượng hội nhập và thực hiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, pháp chế hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết thúc đẩy phát triển đất nước…phát triển nhanh, hài hòa giữa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, phát triển kinh tế tư nhân thực sự là một động lực quan trọng của nền kinh tế.[13]
Trong phương hướng phát triển đất nước 2021-2030, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ các tư tưởng, đồng thời xây dựng và hoàn thiện cơ chế phát triển bền vững kinh tế, chính trị, văn hóa và kịp thời loại bỏ các vấn đề về môi trường xã hội, các trở ngại, khơi dậy mọi tiềm năng, nguồn lực là động lực mới để đất nước phát triển nhanh và bền vững.” Đồng thời, chủ trương tiếp tục “hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế, thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi cho việc huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để thúc đẩy đầu tư. “Đầu tư, sản xuất và quản lý; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế” [14].,.
pgs.ts Chen Ruanxuan
Ủy ban lý luận t