Khái niệm phong kiến hay lãnh địa phong kiến đã quá quen thuộc với mỗi chúng ta và không phải ai cũng biết nội dung này. Vậy chúng ta cần biết thêm về lãnh địa phong kiến là gì? Đặc điểm kinh tế – xã hội của lãnh thổ? Hoặc theo dõi các bài viết dưới đây để có thêm kiến thức.
Luật sư Tư vấn pháp luật miễn phíQua Tổng đài: 1900.6568
1. Lãnh địa phong kiến là gì?
Đầu tiên, để hiểu thái ấp phong kiến là gì, cần phải hiểu rằng thái ấp phong kiến là một cấu trúc xã hội xoay quanh các mối quan hệ được tạo ra bằng cách sở hữu đất đai để đổi lấy sức lao động. Ở châu Âu, chế độ này là một tập hợp các thông lệ pháp lý và quân sự phát triển mạnh từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 15.
Từ đó cũng có thể hiểu rằng, lãnh địa phong kiến được hiểu là một vùng đất có diện tích khá lớn, và lãnh địa phong kiến sẽ bao gồm nhiều phần đất đai như đất canh tác, đất canh tác, đồng cỏ, rừng rậm,… đồi núi sinh sống. ..cũng như lâu đài, biệt thự, lâu đài, nhà thờ, và những ngôi làng nhỏ của nông dân, với tư cách là một tiểu bang hay còn gọi là đơn vị độc lập và khép kín, tự cấp, tự túc.
Theo đó, họ chia các vùng lãnh thổ thành hai loại: vùng đất trang viên và vùng đất một phần. Đất trang viên là đất rất tốt thuộc sở hữu của một lãnh chúa. Địa tô là ruộng đất dư thừa, tức là ruộng đất mà lãnh chúa chia cho nông nô hoặc cho nông nô thuê và canh tác ruộng đất do nông nô đánh thuế.
Nếu xét theo nghĩa đen, chúng ta có thể hiểu phong kiến là một từ nguyên Hán Việt, và nguồn gốc của từ này xuất phát từ hệ tư tưởng chính trị thời Tây Chu, Trung Quốc. Lúc này, nhà vua đã đưa ra chế độ thiết lập các nước chư hầu cho các họ hàng nước ngoài có thái ấp, hệ thống này được gọi là “phong kiến họ hàng nước ngoài”. Bởi vì hệ thống này tương tự như hệ thống thái ấp của các vị thần ở châu Âu, từ “phong kiến” được sử dụng để dịch féodalité từ tiếng Pháp. Tuy nhiên, hai thuật ngữ này chỉ phản ánh hình thức phân phối ruộng đất chứ không phản ánh bản chất của hệ thống. Trong các ngôn ngữ châu Âu, féodalité bắt nguồn từ tiếng Latin feed, có nghĩa là “vương quốc cha truyền con nối”.
Các đặc điểm của hệ thống và xã hội phong kiến này và lãnh địa phong kiến này sẽ phản ánh các hình thức thừa kế và sở hữu đất đai của chế độ quân chủ chuyên chế cổ đại. Trong nhiều trường hợp, thời kỳ đầu của chế độ quân chủ còn được gọi là thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, chế độ quân chủ hiện đại là chế độ quân chủ lập hiến vì chế độ phong kiến chỉ đơn giản phản ánh một giai đoạn, giai đoạn hoặc hình thức quân chủ.
2. Đặc điểm kinh tế xã hội của lãnh địa phong kiến:
Kinh tế
Đặc điểm kinh tế của lãnh địa phong kiến là:
+ Là nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, giao thương với bên ngoài rất hạn chế.
+ Lực lượng sản xuất chủ yếu trong lãnh địa là nông nô. Tầng lớp này có quan hệ mật thiết với đất đai và gắn bó với lãnh chúa. Họ là chủ sở hữu của đất đai và trả tiền thuê và thuế sau khi thu hoạch.
+ Ngoài nông nghiệp là ngành sản xuất chính, vùng còn tham gia vào nhiều ngành kinh tế khác như: rèn vũ khí, dệt vải…
+ Việc buôn bán với nước ngoài rất hạn chế và không thường xuyên. Họ chỉ trao đổi với những sản phẩm mà bên ngoài không sản xuất được như sắt, muối, đồ trang sức, tơ lụa,..
+ Nông nô được lãnh chúa Cày Cày cho thuê đất, ngoài dệt vải, may quần áo, đóng giày, chế tạo vật dụng, vũ khí…, họ chỉ mua được một số đồ sắt, tơ lụa, đồ trang sức đẹp.
+ Thủ công nghiệp cũng chỉ hoạt động trong lãnh thổ, nông nô làm nghề dệt vải, may vá, chế tạo công cụ… và các nghề phụ khác, lãnh chúa có thợ rèn, xưởng gốm và các xưởng thủ công mỹ nghệ, may mặc riêng.
+ Lãnh thổ là đơn vị chức năng kinh tế – tài chính tự nhiên, tự cấp, tự túc, giao dịch kinh doanh trong nước đóng vai trò thứ yếu.
– Đời sống chính trị trên lãnh thổ:
+Mỗi lãnh thổ là một đơn vị chức năng chính trị độc lập, chúa được coi là vua con, có quân đội, tòa án, luật pháp, chính sách thuế khóa, tiền tệ…
Về chính trị
Tính chất chính trị của lãnh thổ là điển hình của chế độ phong kiến tập quyền của Tây Âu, đối lập với chế độ phong kiến tập quyền của phương Đông. Đời sống chính trị của xã hội này là thế này:
+ Mỗi vương quốc phong kiến là một đơn vị chính trị riêng biệt. Nơi đó được xây dựng như một con hào riêng biệt, bất khả xâm phạm và được canh phòng cẩn mật.
+ Lãnh chúa cai trị lãnh thổ của mình như một vị vua của một quốc gia. Nó có tòa án riêng, quân đội riêng, tiền tệ riêng, hệ thống thuế riêng, thang đo riêng. Không ai có quyền can thiệp vào việc cai trị của lãnh chúa.
Về xã hội
Đặc điểm của xã hội phong kiến Tây Âu tam quyền phân lập được thể hiện rõ nét nhất trong đời sống của hai giai cấp lãnh chúa và nông nô.
Kính gửi chúa:
Đây là danh hiệu được trao cho những người sở hữu hoàn toàn các lãnh địa phong kiến Tây Âu thời trung cổ châu Âu. Ở Tây Âu, lc thường xuất phát từ các tướng lĩnh quân đội, những người có công lập quốc và có công thu được vùng đất Ifosim. Rồi dần dần chiếm lấy mảnh đất đó làm của riêng, kiểm soát hoàn toàn lãnh thổ của chính mình. Một số LC thậm chí còn sử dụng “quyền miễn trừ” để biến lãnh thổ của họ thành quốc gia của họ. Mỗi lc cũng có quan hệ gắn bó nhất định với các chúa khác trong chế độ đẳng cấp phong kiến, bộ lạc, bộ lạc.
Dưới thời phong kiến, lãnh chúa là một người có thế lực, sống một cuộc sống sung sướng xa hoa bằng cách bóc lột sức lao động của nông nô và sưu cao tô thuế. Họ không phải làm bất cứ việc gì, suốt ngày chỉ vui chơi, tiệc tùng, cưỡi ngựa, bắn cung… sống trong tòa lâu đài nguy nga, lộng lẫy và rực rỡ ánh đèn. Quốc vương sống một cuộc sống nhàn hạ và xa hoa. Hạnh phúc, chỉ luyện cung tên, cưỡi ngựa, khiêu vũ, tiệc tùng trong thời bình.
Đối với nông nô: Bị bóc lột nặng nề và đối xử rất dã man.
+ Đời sống nông nô: Nông nô là những người sản xuất chính trên đồng ruộng. Họ bị ràng buộc bởi các lãnh chúa của mình, được cấp đất canh tác và phải nộp địa tô nặng nề, bên cạnh nhiều loại thuế khác mà họ phải đóng. Nhưng họ vẫn được tự do sản xuất, sở hữu nhà riêng, nông cụ và gia súc.
Nông nô gắn bó với ruộng đất, gắn bó với lãnh chúa. Họ là lực lượng sản xuất chính của xã hội, nhưng họ không có tiếng nói. Họ sống trong cảnh nghèo khó và phải trả tiền thuê mặt bằng nặng nề cho lãnh chúa của mình, đôi khi bằng một phần tư sản lượng thu hoạch của họ. Ngoài ra họ còn phải chịu nhiều thứ thuế khác như: thuế hôn nhân, thuế thân, thuế thừa kế tài sản,… Họ bị nhà chúa đối xử bất công, tàn ác. Họ là những người bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất trong bộ máy phong kiến, hoàn toàn lệ thuộc vào địa chủ phong kiến, bị phong kiến, địa chủ đô hộ. Mặc dù nông nô không phải là tài sản của địa chủ phong kiến, nhưng khi phong kiến, địa chủ bán ruộng đất thì nông nô cũng bị bán, sản phẩm do nông nô làm ra thuộc sở hữu của địa chủ phong kiến.
Giai cấp nông nô được coi là tầng lớp nghèo khổ trong xã hội và họ là những người sản xuất chính trong các lĩnh vực. Họ gắn bó và phụ thuộc vào lãnh chúa của họ, những người được cấp đất đai để canh tác, trả địa tô nặng và nộp nhiều loại thuế khác.
Nhưng họ vẫn được tự do sản xuất và có gia đình riêng, nông cụ và gia súc.
3. Sự hình thành lãnh chúa và nông nô trong lãnh thổ phong kiến:
– Do chính sách của Đức:
+Bộ máy nhà nước cũ bị bãi bỏ, nhiều vương quốc mới được thành lập;
+ Thủ lĩnh tự xưng là vua và phong các tước hiệu: công tước, bá tước, nam tước…
+ Tịch thu và chia ruộng đất của các chủ nô cũ;
+ Từ bỏ tà giáo và theo đạo Thiên Chúa;
+ Xây nhà thờ, tìm cách lấy ruộng của dân.
– Chính sách của Đức dẫn đến kết quả sau:
+ Quý tộc và vũ công (từ các dân tộc Germanic, sau khi chiếm được đất đai, đế quốc tự lập làm vua và tự xưng), tăng lữ quý tộc (từ bộ phận bỏ đạo nguyên thủy và theo đạo Thiên chúa), đặc quyền và giàu có quan chức. Những giai cấp mới này trở thành giai cấp gọi là lãnh chúa, nắm trong tay nhiều quyền lợi và ruộng đất.
+ Nô lệ và nông dân trở thành nông nô, phụ thuộc vào lãnh chúa của họ.
Trên đây là những thông tin mà chúng tôi cung cấp về nội dung “Lãnh địa phong kiến là gì?”. Đặc điểm kinh tế – xã hội của vùng lãnh thổ” và các thông tin pháp luật khác căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành. Hi vọng những thông tin trên sẽ hữu ích với bạn đọc.