Mời các em tham khảo các bài văn mẫu hình ảnh người nông dân trong một số tác phẩm văn học mà chúng tôi tuyển chọn dưới đây để giúp các em mở rộng vốn từ và có thêm ý tưởng cho bài viết của mình.
Bài văn mẫu hình ảnh người nông dân trong một số tác phẩm văn học
“Con cò đi ăn đêm…”
…Nước sẽ bị xáo trộn nếu có nhiễu
Đừng khuấy nước đục, hại cò nhỏ
Nhưng có lẽ số phận bất hạnh và những phẩm chất cao cả của họ phải xuất hiện trên trang văn của các nhà văn hiện thực trước Cách mạng tháng Tám 1945 mới được khai thác một cách sâu sắc, triệt để.
Trước hết, một số lượng lớn các tác phẩm văn học từ đầu thế kỷ 20 đến thế kỷ 8 sau Công nguyên phản ánh nỗi khổ của người nông dân Việt Nam.
Đầu tiên phải kể đến hình ảnh người nông dân thấp cổ bé họng phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thống trị, bóc lột, nhục mạ của bọn địa chủ phong kiến cường quyền. Có thể nói, sự “tắt đèn” của ngô Đại Độ đã tạo ra hình ảnh người nông dân phải gánh chịu thuế cao. Mười bảy chương đầu thuật lại vô số cảnh khốn cùng của vợ chồng gà trống vàng trong những ngày sưu thuế. Hồi thứ mười tám “Nước lớn vỡ đê” bộc lộ tình cảnh bi đát của người nông dân, những nạn nhân điển hình nhất của xã hội. Nhà Dậu nghèo, “nhất nhì lớp”, đi khai thuế lại nằm liệt giường. Quả thật, chỉ vì thuế suất, thuế đầu người mà cả gia đình gà trống tan đàn xẻ nghé. Gà trống sắp chết còn bị đánh, bán con bảy tuổi, người không bằng chó. Tiếc thay, chế độ đó vô nhân đạo đến mức nuôi cả xác chết để đánh thuế. Vì vậy, sau khi nộp bộ sưu tập gà trống vàng, gà trống vàng tưởng rằng mình đã trả hết “nợ quốc gia”, không ngờ, quý phi lại nói rằng cô phải trả lại bộ sưu tập lợn chết năm ngoái. Thế là gia đình gà trống bị đẩy đến chỗ cùng. Con cặc lại choáng váng. Nửa đêm, gà trống bị khiêng đi như xác chết, thuộc về gà trống. Với sự giúp đỡ của những người hàng xóm, chú gà trống đã cứu sống chồng cô. Nhưng đến rạng sáng, khuôn mặt của quốc vương và gia đình lại xuất hiện, xông vào với roi, thước và dây thừng. Cuộc sống của gà trống đang gặp nguy hiểm nghiêm trọng. Có thể nói “nợ quốc dân” là tai họa khủng khiếp nhất giáng xuống gia đình Jinji. Bản thân chú gà trống là tội nhân tội nghiệp nhất. Hễ xin cởi dây trói cho chồng, lập tức bị người ta lấy thước đánh. Khất thực cho chồng, tên cai lệ “tát vào mặt” và “vỗ vào ngực mấy cái túi”. Đôi khi anh ta bị một kẻ mạnh mẽ cưỡng bức, và đôi khi anh ta bị một vài cảnh sát bắt và mua một đứa trẻ và cũi chó rẻ tiền. Bị đòi đóng dấu giấy tờ bán con, nhưng gà trống phải trồng một sào ruộng cho “ông Lí”. Điều đau đớn nhất của gà trống là phải “vỡ lòng” bán đứa con gái lớn mới bảy tuổi của mình cho vợ chồng chị để đổi lấy một xu cho chồng giữ. Điều nhục nhã nhất là cô bị Tu Anfu và ông cố của cô xâm phạm. Có thể nói, cuộc sống đầy gian khổ, số phận của đàn gà nằm trong tay những hạng người cai trị nông thôn Việt Nam lúc bấy giờ.
Ở một góc độ khác, cái nghèo, cái khó lại như một cái xiềng xích khác đeo trên cổ người nông dân. Lão Hạc là một nông dân nghèo, không có ruộng chỉ biết cày cuốc. Anh dành dụm, dành dụm để mua một mảnh vườn nhỏ, tài sản duy nhất giúp anh có thêm vụ mùa. Hoàn cảnh của ông rất cô đơn: vợ chết trẻ, hai cha con chật vật từng miếng ăn, con trai lấy đâu ra trăm quan tiền cưới vợ? Tiền trầu, tiền rượu, tiền cưới, hai trăm. Vợ không cưới được, người con trai buồn bã bỏ nhà cao su, biếu cha mấy nén bạc và con chó vàng, định ngày cưới làm thịt. Vợ mất, con trai bỏ đi nước khác với lời hứa một trăm lạng bạc, những năm cuối đời ông sống cô độc, chỉ có vàng làm bạn. Ông già và Jin Jin sống một cuộc sống của sóc, khoai tây, hến và ốc sên. Nhưng cuối cùng vì quá nghèo nên phải rời xa Cậu Vàng Ngọc Nữ. Trong nụ cười gượng gạo, đầy nước mắt, chua xót, ngậm ngùi cho số phận: “Thì ra cậu vàng còn ăn hơn cả thầy tôi. Ngày nào tôi cũng ăn thế này, lấy đâu ra tiền nuôi tôi? Bán đi, để dành”. tiền bạc gì đó.” Xã hội khắc nghiệt đã tước đoạt Anh dù chỉ một chút hạnh phúc. Thiên tai chưa hết thì bão đã cuốn sạch hoa màu ít ỏi trong vườn. Hai tháng 18 ngày sau đó bệnh tật đã đẩy anh đến tận cùng của sự nghèo khó. Lão hạc ăn mồi chó tự tử. Ông già chết rất đau đớn, thậm chí còn thê thảm hơn: đầu tóc rũ rượi, mắt dài ra, khóc lớn, sùi bọt mép… vật vã suốt hai tiếng đồng hồ rồi mới chết. Cái chết là bạo lực, tàn bạo và đau đớn. Số phận con người, số phận những con người như lão Hạc thật đáng thương.
Bên cạnh hình ảnh lão Hạc, con ông còn góp phần làm rõ hiện thực người nông dân trong xã hội Pháp thuộc. Cuộc sống khổ cực của người nông dân không ruộng đất, phải đi làm thuê mà vẫn không đủ tiền cưới vợ. Con trai của Xianhe là nạn nhân của thử thách hôn nhân nặng nề. Khi người yêu lấy đại gia, anh chán nản chạy lên tỉnh viếng mộ, ký giấy tờ rồi đi làm đồn điền cao su. Anh từ thân phận nạn nhân của đói nghèo, hủ tục trở thành nạn nhân của thực dân Pháp trong đồn điền cao su, có thể tóm tắt trong một bài hát:
“Đi thì dễ, quay lại khó
Anh đi thiếu gia, về là đồ ngốc
hoặc tệ hơn
“Cao su xanh rất tốt
Một xác công nhân trên một cây”
Còn nhiều mảnh đời bất hạnh, con của những bà mẹ nghèo cũng ra vẻ nghèo khó. Cậu bé khuy áo, cậu bé xuân thì, cô bé, em bé trong “Gió se lạnh đầu mùa”, cũng bộ quần áo nâu bạc nhiều chỗ rách vá, lỗ chỗ da sạm đi, một cơn gió làm chúng rùng mình, và răng va vào nhau. Ngoài ban công, cô chỉ mặc bộ quần áo rách tả tơi, khoe mu bàn tay, vì mẹ cô nghèo, chỉ biết mò cua bắt ốc. Nhưng họ vẫn hạnh phúc hơn nhiều so với nhà của một con gà trống. Tôi thực sự chưa bao giờ có một ngày hạnh phúc, chưa bao giờ có một ngày được ăn ngon mặc đẹp. Dù khó khăn đến đâu, tôi cũng có thể chịu đựng được. Nhưng niềm vui nhỏ nhoi nhất là được sống với cha mẹ anh chị em thì không hề. “Hai dòng nước mắt, hôn con lần nữa, rồi trốn trong nón, kẹp nách gói đồ, theo mẹ và cũi về Điện Capitol, để lại quá nhiều nỗi buồn” Hình ảnh ấy đã ở trong tim từ lâu . Nếu xem những đoạn khác trong tác phẩm, điều đáng phẫn nộ hơn nữa là bà nội bắt cô ăn đồ thừa của chó, thân phận của tôi cũng không bằng nhà chó. Đau đớn biết bao, cay đắng biết bao.
Các nhà văn hiện thực xuất sắc như Ngô Đạt Tư, Cao Nan… đã khắc họa mọi mặt nỗi khổ của người nông dân trước cmt8-1945, biết bao con người, biết bao số phận hiện ra trước mắt và in sâu vào lòng ta. và hối hận. Nhưng trong những đêm đen tối của số phận bi đát ấy lại tỏa sáng một phẩm chất rất cao quý và đáng trân trọng.
Trong những phẩm chất cao quý của người nông dân, nổi bật nhất là tình thương con vô điều kiện. Tình yêu dành cho con cái là một đặc điểm nổi bật của trái tim người mẹ. Nhà văn Ngô Tốt Tốt đã đặt tình yêu ấy vào một hoàn cảnh hết sức éo le, đau đớn, chị gà trống thương con mà phải bán con đi cứu chồng bị đòn thiếu thuế khi chồng ốm đau hành hạ. Phải bán được chút đỉnh, chị như đứt ruột. Về đến nhà, cô vẫn không báo tin bị sét đánh mà âm thầm chịu đựng nỗi đau dữ dội trong lòng. Khi nhìn thấy đứa con trai ngoan ngoãn, hiếu thảo ấy phải đi làm đầy tớ cho một gia đình ruột thịt tàn nhẫn, nỗi đau như dao cứa vào lòng bà. Cần có tình yêu thương sâu sắc với gà trống, nghiêm túc thì gà trống mới có thể nén đau mà chỉ trưng ra khuôn mặt buồn bã, nước mắt rơi nhanh hơn. Cũng chính tình yêu thương vô bờ bến ấy, để gà trống – người mẹ van xin con trai tha tội: “Con xin mẹ, con xin mẹ, nếu mẹ thương con, thương con thì con hãy đi với mẹ, đừng khóc nữa, bụng con đau lắm. … Bây giờ mẹ phải bán con, con đã chết rồi.” Bà muốn tìm một lời tốt đẹp để thuyết phục con trai mình, nhưng bà lại khóc. Hình ảnh đau khổ của chị thật thê lương, “thấm nức nở từ đáy lòng, nước mắt giàn giụa, gà trống xin sống, xin chết, dắt chó dưới nắng hè. Đứa trẻ vẫn khóc, chó vẫn sủa, cô nhất định giả điếc, mong được đến nhà ông cụ càng sớm càng tốt.” Có thể nói, việc chị Dậu dùng tình thương con trong hoàn cảnh khó khăn ấy chính là điểm nổi bật của tác phẩm. tác phẩm “Tắt đèn”.
Thật cảm động hơn tấm lòng của lão Hạc đối với đứa con trai duy nhất của mình. Anh yêu em và chúc em hạnh phúc. Dù đói khát không có của ăn, nhưng biết con trai không đủ tiền lấy vợ, ông lão vẫn giữ lại mảnh vườn cho con với suy nghĩ “mua của cho mẹ, hưởng cho mình”. Vì nghèo, anh không thể lấy vợ cho con. Còn đau đớn hơn khi đi làm rẫy cao su, “Cái đó của người khác, không phải của mình”. Nhớ anh ấy, anh ấy nói chuyện với Jintong, cảm thấy như nhớ anh ấy, bởi vì Jintong là ký ức của con trai anh ấy. Tôi nhớ em, tôi suy nghĩ sâu sắc, tôi không thể bán mảnh vườn của mình vì tôi sẽ nghĩ về tương lai của bạn sau này. Ông đã hy sinh tất cả cho con cái của mình. Trước khi chết, ông trả lại mảnh vườn cho ông giáo, người hàng xóm, và khi con trai ông về, ông trả lại mảnh vườn cho con trai mình. Anh mất đi nhưng lòng anh vẫn hướng về con, mong rằng cuộc đời con anh không đau đớn như anh. Tình yêu và sự hy sinh của ông dành cho con thật đáng quý.
Ngoài ra, trong hình ảnh người nông dân Việt Nam trước tháng 8/1945 còn xuất hiện nhiều phẩm chất cao quý, đáng quý. Đó chính là lòng vị tha, đức hy sinh vì chồng con trong tính cách của người tuổi gà. Lợi dụng lúc chồng ốm nặng, chị bê bát cháo to đến bên anh, chăm sóc anh dịu dàng, chu đáo, tận tình. Cô muốn xem chồng mình ăn có ngon không. Những tác phẩm của cô xuất phát từ tình yêu chân thành và sâu sắc dành cho vợ. Đỉnh cao của tình cảm nàng dành cho chồng là chiến thắng trước nhà vua và gia đình nhà vua. Chính tình thương chồng, sợ chồng đánh đòn đã trở thành sức mạnh để thu phục hai tên cai lệ và gia đình họ, bảo vệ chồng. Điểm nổi bật nhất của con gà trống là lễ vật hiến tế – tinh thần hy sinh vốn có của người phụ nữ Việt Nam. Cô đã phải hy sinh tình mẫu tử – điều thiêng liêng và cao quý nhất của cuộc đời người mẹ – vì lo cho gia đình, lo cho người chồng khốn khổ của mình. Cô đã chọn con đường mà cô phải khổ, khổ, khổ hơn, khổ gấp trăm, gấp ngàn lần. Qua đó ta thấy gà trống là con gà luôn chịu thiệt thòi, thua thiệt. Hình ảnh chú gà trống càng sáng ngời và đáng quý hơn bởi sự hy sinh thầm lặng nhưng đầy ý nghĩa của cô.
Đó cũng chính là tấm lòng nhân hậu, chất phác, hiền lành của hạc. Ông lão chăm sóc con chó một cách âu yếm như một đứa trẻ. Khi lâm vào cảnh cùng quẫn, anh ta không còn gì để nuôi sống bản thân, ngay cả bản thân cũng không có, định bán đi nhưng lần nào cũng do dự. Bán đi, ông rơi nước mắt ngậm ngùi: “Mỉm cười như mếu máo, nước mắt giàn giụa trên mặt”, nhất là khi thấy “Tui già rồi mà lừa một con chó” thì ông buồn lắm. Nỗi thương cảm, tự trách của ông dành cho cậu vàng biến thành nỗi đau khôn xiết: “Mặt lão chợt co lại… miệng thì nhỏ như đứa trẻ. Bằng cách này, Lao He vẫn là một nông dân đáng tự hào. Ông già nghèo nhưng không hèn nhát. Ông không xin ăn mà chỉ giúp đỡ. Ông thậm chí còn đoán rằng vợ của giáo viên phàn nàn về việc giáo viên không thể làm gì để anh ta, vì vậy anh ta đã tránh mặt thầy, tôi rất vui mừng. chết, thương tiếc cho nó: “Tao không nhà cửa, chết không biết ai lo cho; mày muốn làm phiền láng giềng thì mày nhắm mắt không đời…” Thật là một nhân vật hiếm có trên thế giới. Dù cuộc sống có khó khăn đến đâu, Crane vẫn là một nhân cách cao đẹp.
Không chỉ là hình ảnh đẹp của những lão nông như lão hạc, những cô thôn nữ như chị gà mà còn có một cô bé bảy tuổi với những phẩm chất đáng quý. Em ngoan ngoãn, chăm chỉ, nhanh nhẹn, tháo vát, yêu thương, hiếu thảo. Cha tôi bị bắt làm con tin, bị đánh đập, bị trói ngoài nhà công vụ, mẹ tôi tất bật chạy vạy để lấy tiền của cha tôi, một mình tôi quán xuyến mọi việc trong nhà. Trong khi ôm nàng, chàng “rần rần rửa khoai, tra nồi, nhóm lửa thắp bếp”. Anh ấy rất chu đáo, luôn chăm sóc bố mẹ. Khi nhìn thấy mẹ, anh ta chào và hỏi bà có giúp anh ta “cởi trói” không. Anh tự hỏi làm thế nào chiếc mũ của anh bị “xé thành từng mảnh” và những ngón tay của mẹ anh “làm thế nào để buộc một miếng giẻ?”. Khoai đã chín, cô bé chạy đi lấy hai cái bát lớn, gắp những cục khoai to và đổ đầy hai bát, một cho bố và một cho mẹ. Anh ân cần mời mẹ ăn khoai, quạt cho khoai gần nguội, để hai đứa trẻ đang đói ăn ngon lành. Từng lời nói, việc làm, từng cử chỉ của cô bé thật nhẹ nhàng, thật tình cảm. Tuy còn trẻ nhưng anh là một người con đầy đức hy sinh. Khi biết mình bị bán lấy tiền nuôi cha, anh bàng hoàng, hoảng sợ, đau đớn và gào khóc thảm thiết. Đây là người con ngoan ngoãn và rất hiếu thảo, cậu “thấu nỗi đau của mẹ” và hoàn cảnh đau đớn của cha nên “gạt nước mắt” chấp nhận hy sinh cứu cha. Có thể nói, từng chút một đã trở thành biểu tượng cảm động của lòng vị tha, đức hy sinh và lòng hiếu thảo. Những con người tí hon đã góp phần làm nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm “Tắt đèn”.
Điều chắc chắn là với nghệ thuật đặc sắc hóa nhân vật, tài khắc họa diễn biến tình cảm nhân vật tinh tế, sâu sắc, các tác phẩm văn học trước 8-1945 đều đã tạo nên hình tượng ấy. Người nông dân Việt Nam với những nét đặc sắc khó có thể biến mất khỏi tâm trí bao thế hệ người đọc. Tôi cảm động biết bao trước nỗi khổ của bao mảnh đời bất hạnh. Và càng tuyệt vời hơn, bởi họ là tập hợp những phẩm chất cao quý của bản chất con người: yêu chồng, thương con, yêu gia đình, vị tha, nhân hậu, hy sinh, tự trọng… Những phẩm chất cao quý, bản chất lương thiện của người nông dân sẽ không bao giờ được che đậy bởi thời gian trôi qua.
►► Click ngay vào Tải về bên dưới để tải bài văn mẫu Hình ảnh người nông dân trong một số tác phẩm văn học văn lớp 8 hay nhất file word, pdf hoàn toàn miễn phí.