Không đưa người qua sông, làm sao cảm nhận được sóng trong lòng? Hoàng hôn không đậm, không vàng, sao mắt trong chỉ toàn cảnh hoàng hôn? Đối với người, ta chỉ cho họ một phần tình cảm gia đình và một phần thờ ơ…

Khách hàng thường xuyên! Kính khách! Xiaolu, lớn đến mức không trở về tay trắng, sau này tôi sẽ không nhắc đến chuyện này nữa! Bà mẹ ba con không ngờ.

Ta biết một người chiều hôm qua buồn lắm, nay sen hè lại nở, chị cả, chị hai cùng sen khuyên em rơi nước mắt (*).

Sáng nay ta biết ai buồn: trời chưa vào thu mà em trẻ ngây thơ mắt xanh trong khăn tang quấn khăn tang…

Có ai đi không? Thật vậy, bạn bè xe hơi thực sự! Mẹ thà coi như chiếc lá, con thà coi như hạt bụi, thà coi như giọt say.

Mây giăng đầu đồi, gió lên trăng lên (**) Chiều lạnh đổ bóng. Thiên khách muốn khóc mà không có nước mắt, đời ồn ào tiếng hận (***). (1941)

(*) Có “dòng nước mắt”.

(**) Có “giá của mặt trăng”.

(***) Khổ thơ cuối của bài thơ này thường không được biết. Đoạn văn này đã được đưa vào bản in của Tiểu thuyết thứ bảy (1940), dựa trên Đại cương Văn hóa Việt Nam 1989-95 (Hà Nội, 1989).

“Tạm biệt” là bài thơ nổi tiếng và tâm đắc nhất trong lòng tôi. Có người đã không ngần ngại liệt nó vào một trong mười bài thơ hay nhất trước chiến tranh (1). Mười năm nay, “Tiễn biệt” cũng được đưa vào Tuyển tập 50 bài thơ trữ tình tiêu biểu của thơ Việt Nam thế kỷ X (2).

Đề tài của bài thơ này là một trong vô số sự phân ly trong “Thơ mới” những năm 1930-1945. Nhưng có lẽ trong văn học Việt Nam trước sau lòng chưa ai viết. Thật bi tráng và trữ tình và mãnh liệt về sự chia ly.

Gửi ai, ta không qua sông.

Từ bao đời nay, sông bến là nơi chia tay. Không chỉ bởi trước đây, phương tiện đi lại chủ yếu của dân làng là thuyền. Dòng sông còn như giới tuyến, vành đai, bao bọc, che chở cho mỗi xóm làng. Ai cũng vậy, khi qua sông cũng là lúc xa quê hương với gia đình và những người thân yêu. Không phải ngẫu nhiên mà Jiang và Zhou đi vào tiềm thức của mọi người như một biểu tượng của sự chia tay và chia tay. Điều này cũng đúng trong thơ ca:

Anh khóa, em tiễn anh ra bến tàu… (“anh khóa”, trần thuận khai)

Chia tay, sóng trên sông dập dềnh, tiếng thuyền gầm, mây trôi, nước trôi, ngày càng trôi. (“Tách”, dzongen)

Nhưng lần này, tác giả không đưa bạn mình qua sông. Khi Ruan Ping viết “Shadows on the Platform” vào cuối những năm 1930, nhiều chuyến đi bắt đầu từ bến xe buýt hoặc sân ga.

Tuy nhiên, hình ảnh con thuyền, bến cảng trong văn học và cuộc sống từ đó đã in sâu vào tâm trí tác giả, khiến ông phải thốt lên:

Tại sao có một giọng nói trong trái tim tôi?

vừa hỏi vừa bày tỏ cảm xúc vui buồn lẫn lộn. Tiếng sóng không đến tận cùng “đời hối hả, tiếng lặng” mà như tiếng đàn khơi dậy nỗi xót xa, căm phẫn của con người giữa người đi và kẻ ở. .

Đã biết “người ta” buồn thì “view” là gì? Chiều hôm ấy, tuy “không nóng, không vàng” nhưng “mắt hoàng hôn rực lên” cũng có thể đẹp. Nhưng nó vẫn có một sự xuất hiện không xác định. Tuy nhiên, không ai chú ý đến khung cảnh bên ngoài vào thời điểm đó. Họ bận rộn với việc “tạm biệt gia đình” và “dửng dưng”. Đối với tác giả, chỉ tồn tại người ra đi, và ông chỉ “đem người ấy đi” chứ không có ý gì khác.

Cuối cùng cũng đến lúc chia tay. Rất dũng cảm, đam mê, háo hức đi :

Khách hàng thường xuyên! Kính khách! Con đường tuy hẹp nhưng rộng, không trở về tay trắng, kiếp sau không nói nữa!

Tôi thề! Người đọc không biết anh ta đang đi đâu hay đang làm gì. Sự nghiệp của anh ấy phải rất tuyệt vời. Điều làm tôi nhớ đến lúc anh qua sông, lạnh tê tái, nhấp một ngụm rượu rồi bước thẳng không ngoảnh lại:

Phong thủy tiêu hề, ôn dịch lãnh khốc, anh hùng nhất dĩ vãng, đơn phương si tình. (Gió hiu hiu, sông lạnh, anh hùng mãi mãi không còn.)

Có thể thấy rằng bạn rất năng động, tại sao bạn lại cô đơn như vậy! Đi thôi, nhưng tương lai không rõ ràng:

Ba năm, đừng nhắc tới lão bà của ta.

Anh ấy rất mạnh mẽ, thực ra anh ấy rất yêu mẹ. Và khi anh ấy đi, anh ấy sẽ không bị làm phiền bởi điều đó. Tôi có một chị gái, và bạn. Chị cả “như hoa sen” và em trai “mắt xanh ngây thơ” không muốn anh đi. Gia đình của bạn phải nhỏ và chăm chỉ, bạn đi rồi, ai quan tâm?

Tất nhiên, anh ấy bốc đồng, và anh ấy rất kiên quyết. Nhưng dễ dàng nhận thấy đó chỉ là vẻ bề ngoài. Thật ra, trái tim anh rất mềm yếu. Anh buồn, chắc là lâu lắm rồi chứ không phải chỉ từ “chiều hôm qua” đến “sáng nay”.

Từ mùa hè đến mùa thu, khung cảnh bầu trời thật đẹp. Trong khung cảnh đó, bạn đã quyết định nói lời tạm biệt với gia đình và bạn bè của mình chưa? Mục tiêu của bạn là gì? Chẳng phải anh ấy thoát khỏi những lo lắng và chấp trước sao?

Nhưng anh ấy đã cởi áo và bỏ đi. Đi khi người gửi không biết:

Đi! đúng? người thật!

Giống như một giấc mơ, khi bạn tỉnh dậy thì không còn gì cả. Anh đã đi, thực sự đã đi. Khiến con người đắm chìm trong cơn buồn ngủ. Đời như tỉnh, như mộng! Đã phải chịu đựng!

Mọi thứ đang đến hồi gay cấn. Nhịp thơ trở nên gấp gáp, khó nhọc, dồn dập nhưng đầy chua xót, căm phẫn:

Mẹ thà như chiếc lá, con thà là hạt bụi, thà hơi say một chút.

Anh muốn quên đi tất cả. Quên hết ưu phiền. Như lữ khách trong “chiều” hồ dzếnh. Nhưng thử hỏi: liệu có quên được không?

Mây giăng, gió núi lên trăng lên, chiếu chiều lành lạnh.

Thời gian đã trôi qua. Bóng mặt trời lặn đã khuất. Cái lạnh và bóng tối bao trùm mỗi bước anh đi. Sau đó, lữ khách là một mình. thầm lặng. lặng lẽ. Đích đến vẫn còn xa. Tinh thần cũ đã biến mất. Tôi muốn khóc, tôi muốn hét lên:

Khách sống giữa trời muốn khóc, tiếng đời vội, tiếng lặng…

Lúc đó tôi không biết, ai là người có lỗi? Tự trách mình, hay sự khắc nghiệt của cuộc đời?

*

Ông Hoài Thanh thừa nhận trong “Vài suy nghĩ về thơ” (3) rằng ông rất thích “bài tập chia tay” khi viết “Thi nhân Việt Nam”. Không chỉ vì “câu thơ ngắn, lời đanh thép, đường nét chắc nịch, không mềm mại uyển chuyển như phần lớn thơ ngày nay” (4), mà chủ yếu vì phong cách “đau khổ khó hiểu của thời đại”. “. (5)

Không biết “tạm biệt” “bối rối” là gì? Nhưng rõ ràng, khi đọc nó, tôi thấy nó thực sự “đáng thất vọng”. Vẻ đẹp nên thơ, cổ kính của bài thơ cùng với hình ảnh “mỏng manh, ghê gớm, xuyên thấu tâm hồn như dao, tưởng nhẹ mà nặng” (6) đã để lại ấn tượng chân thực, mạnh mẽ và sâu sắc trong lòng người đọc.

Mấy năm trước, người bạn thân của ông là nhà thơ Lương Chu (7) tiết lộ rằng “Vở kịch tạm biệt” là bài thơ ông viết trong lòng khi sinh hoạt. Còn bây giờ. Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ (1941), có thể nói thanh niên tuổi đôi mươi đi làm cách mạng là một việc mạo hiểm. Nó mang hình ảnh của những người anh hùng năm xưa “dứt ruột theo tiếng trống trận” (Lính Vô Danh, pham duy) ra trận, và với khí phách thần thánh “Ra trận sống không tiếc xanh” (Hướng Tây, Quảng Đông ). Không khác gì hình ảnh hào hùng cao đẹp của thế hệ nghệ sĩ đầu tiên tham gia Kháng chiến 5 năm sau:

Trung tâm Hà Nội buổi sớm se lạnh, những con phố dài có phần lộn xộn. (“đất nước”, nguyễn đình thi)

… Còn nhớ đêm đó thiên hạ bừng cháy, cả kinh thành rực cháy, sau lưng thiếu niên không áo trắng, nợ anh hùng mười phương, phất cờ đỏ giày rách, Hành quân bụi ngàn dặm áo bạc Tóc xanh hứa chờ em gió hong khô cây cỏ khi về già Theo tiếng gọi người Hà Nội quay về gánh lấy quê hương! (“Trở về”, chính nghĩa)

*

Cuộc sống thật ngắn ngủi. Anh ấy không viết nhiều (8). Năm 33 tuổi, cái chết đã cướp đi anh. Ông hăng hái ném mình vào cuộc đấu tranh quốc gia. Ông từng làm chủ bút tạp chí “Tiền phong” (1945-1946), sau làm Bí thư “Đội vệ binh”, trong phong trào bảo vệ biên cương (1950), ông bị sốt rét ác tính trước khi qua đời. .Không có cách chữa trị, và anh ta bị bỏ lại với một người liên lạc trong một ngôi nhà sàn ở làng Napo. Người anh là người duy nhất có mặt khi anh mất, đã xin dân làng tấm vải trắng làm khăn tang (8).

Cái chết của một linh hồn thật bi thảm. Nhưng nó cũng đẹp và hào hùng về những anh hùng trên chiến trường. Xinh đẹp và anh hùng, giống như lời “tạm biệt” của bạn!

Lưu ý – Giới thiệu tham khảo:

1.vũ quân phương: trái tim và “lời từ biệt” (“Quân đội nhân dân”, 1990).

2. “Đại cương Văn hóa Việt Nam 1989-95” (Hà Nội, 1989).

3, 4, 5. Hoài Thanh Tuyển Chọn, Tập 2 (Hà Nội, 1983).

6. Tào Ngô: “Rải rác trên đường văn nghệ” (“Văn nghệ quân đội”, 6/1988).

7 Tên thật là Phạm Quang Hà, sinh năm 1915. Để biết thêm, xin xem bài viết của Huang Tian: “Ai là t.t.kh.?” (“Người Chủ Nhật”, 16-7-1989).

8.Suốt cuộc đời không viết nên những bài thơ tâm huyết. Mãi đến năm 1988, tập “Tuyển tập thơ tâm hồn” gồm một số bài thơ tiêu biểu của ông mới được xuất bản.

9.Theo lời kể của Bi Huang: “Cách mạng kháng Nhật và đời sống văn học”, Tập 1 (Nxb Tân Trúc, Hà Nội, 1985).

Kiểm tra tiếng Anh trực tuyến

Bạn đã biết trình độ tiếng Anh hiện tại của mình chưa?
Bắt đầu làm bài kiểm tra

Nhận tư vấn lộ trình từ ACET

Hãy để lại thông tin, tư vấn viên của ACET sẽ liên lạc với bạn trong thời gian sớm nhất.