Ba nhánh của Cơ đốc giáo, Công giáo, Chính thống giáo và Tin lành, ngay từ đầu thuộc về thánh giáo của Đấng Christ và được gọi chung là Cơ đốc giáo. Nhưng theo thời gian, các sự kiện xảy ra dẫn đến sự ly giáo hoặc cải cách Cơ đốc giáo một cách đáng tiếc, chia Cơ đốc giáo thành ba nhánh chính kể trên. Ngoài ra, còn có một nhánh khác của Thiên chúa giáo là Anh giáo do vua Henry VIII (1491-1547) của Anh khởi xướng vào năm 1534 nhằm thành lập một giáo hội độc lập cho Anh, vốn được tách khỏi Rome bởi Ngai vàng La Mã thần thánh. (Giáo hoàng Clêmentê VII) không chấp nhận việc nhà vua ly hôn và lập gia đình khác.

Cho đến nay, các tổ chức ly giáo nói trên vẫn chưa liên lạc được với Giáo hội Công giáo, vì còn nhiều trở ngại chưa vượt qua được. Có nhiều lý do, nhưng giới hạn trong phạm vi câu hỏi được nêu ra, tôi chỉ muốn tìm hiểu những khác biệt cơ bản giữa ba nhánh Kitô giáo trên.

I. Chính thống giáo khác với Công giáo La Mã như thế nào?

Trước hết, tên chính thức “chính thống” bắt nguồn từ gốc Hy Lạp “orthos doxa”, có nghĩa là “khen ngợi đúng đắn”, “niềm tin đúng đắn”. . Tiêu đề này chủ yếu được sử dụng để chỉ vị trí của các nhà thờ Cơ đốc giáo đã tham gia vào các hội đồng đại kết Nicea (325) ephesus (431), và đặc biệt là chalcedon (451), những người đồng ý chấp nhận và duy trì những lời dạy đúng đắn của Cơ đốc giáo chống lại những gì được coi là dị giáo hoặc dị giáo. Vì vậy, trong ngữ cảnh này, từ “chính thống” được đối chiếu với từ “dị giáo”, có nghĩa là dị giáo hoặc dị giáo.

Nhưng sau sự kiện năm 1054, hai giáo hội Thiên chúa giáo Hy Lạp (tượng trưng cho phương Đông) và Công giáo La Mã (tượng trưng cho phương Tây) ở Constantinople xảy ra xung đột và ngày 16 tháng 7 năm 1054, giữa michael cerularius bị vạ tuyệt thông (anthemas = excommunications) , Thượng phụ Constantinople và cố Giáo hoàng Leo IX vì những khác biệt lớn về giáo lý, thần học và thẩm quyền, lại sử dụng thuật ngữ “Orthodoxy” (chính thống giáo), ám chỉ việc Nhà thờ Hy Lạp ở Constantinople ly khai khỏi sự hiệp thông với Nhà thờ Công giáo La Mã . Sau đó, Giáo hội Hy Lạp “Chính thống” ở Constantinople đã lan rộng ra các nước trong khu vực như Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Albania, Estonia, Síp, Phần Lan, Latvia, Litva, Romania, Bulgaria, Serbia, Ukraine… Vì vậy, ở mỗi nước đều có cũng là các nhà thờ Chính thống trong một quốc gia, nhưng họ độc lập với nhau về mọi mặt. Tức là các giáo hội không có một vị lãnh đạo chung, mặc dù chúng có chung tên gọi là các giáo hội Chính thống tách ra khỏi Giáo hội Công giáo La Mã. (phong cách phương Tây)

Tuy nhiên, ngày nay Thượng phụ của Giáo hội Chính thống Thổ Nhĩ Kỳ ở Istanbul được coi là Thượng phụ Đại kết của Giáo hội Chính thống. Cách đây 5 năm, Đức Bênêđictô XVI (nghỉ hưu năm 2012) đã đến thăm Tổng Giám mục Chính thống Thổ Nhĩ Kỳ và bày tỏ thiện chí đối thoại dẫn đến sự hiệp thông của hai Giáo hội huynh đệ. Chỉ có Chính Thống Giáo Nga cho đến nay vẫn chưa tỏ thiện chí xích lại gần Công Giáo La Mã, vì họ cho rằng sau khi chế độ cs Nga tan rã, Công Giáo muốn “kéo” tín đồ Chính Thống Nga theo Công Giáo và tạo điều kiện thuận lợi cho họ . Tu viện chính thống Nga. Tuy nhiên, sự kiện mới của năm vừa qua (2016) là Đức Thánh Cha Phanxicô gặp Thượng phụ Chính thống giáo Nga tại Mexico, nhưng kết quả của cuộc gặp lịch sử giữa hai nhà lãnh đạo Công giáo và Chính thống giáo Nga không được công bố vào thời điểm đó. Nhưng đây là một dấu hiệu tích cực giữa hai giáo hội anh em.

Trước cuộc Đại Ly Khai năm 1054, hai nhánh lớn của Cơ Đốc Giáo Đông và Tây (Giáo Hội Hy Lạp và Tòa Thánh = the Holy See) vẫn hoàn toàn thông cảm với nhau về mọi mặt, vì hai giáo hội anh em là nguyên thủy Công cuộc truyền giáo của hai tông đồ Phêrô và Anrê có kết quả. Lịch sử truyền giáo cho thấy Phi-e-rơ đã rao giảng ở khu vực ngày nay là lãnh thổ của Giáo hội Công giáo La Mã, trong khi anh trai của ông là Andrew lần đầu tiên đi về phía đông đến Rome, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Do đó, cả Giáo hội Cơ đốc Đông La Mã và Đông Constantinople đều có sự kế vị tông đồ thuần túy.

Dưới đây là những điểm khác biệt giữa Đông và Tây:

Học thuyết

Nhà thờ Chính thống giáo Đông phương – ban đầu thường là Nhà thờ Constantinople của Hy Lạp, không đồng ý với Nhà thờ Công giáo La Mã về việc thêm “filioque” (và con) ) vào Nicea tuyên bố tín điều “từ Chúa Cha và Chúa Con”.

Chính Thống Giáo cũng không công nhận giáo lý Vô Nhiễm Nguyên Tội và Thăng Thiên (giả thuyết), mặc dù họ vẫn tôn kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (theotokos). Vì lý do này, vì họ không công nhận quyền lãnh đạo của Giáo hoàng trong Giáo hội, họ bác bỏ mọi học thuyết mà Giáo hoàng đã tuyên bố một cách không thể sai lầm, như Công đồng Vatican (1870) đã tuyên bố. thừa nhận.

Chính vì họ không công nhận quyền hạn và quyền lãnh đạo giáo hội hoàn vũ của Đức Giáo hoàng, nên cho đến nay đây là trở ngại lớn nhất cho sự thống nhất của hai giáo hội lớn là Chính thống giáo và Công giáo. Ngày nay, mặc dù cả hai bên đã xá tội cho nhau sau năm 1966, nhưng cuộc gặp lịch sử giữa Giáo hoàng Paul VI và Thượng phụ Constantinople, lúc đó là Athenagoras I.

Nhà thờ Chính thống giáo, giống như Nhà thờ Công giáo, có tất cả bảy bí tích hợp lệ. Tuy nhiên, khi rửa tội, họ sử dụng nghi thức 3 lần dìm mình để nhấn mạnh ý nghĩa của sự tái sinh vào một cuộc sống mới, trong khi Giáo hội Công giáo chỉ đổ nước lên đầu hoặc trán của người được rửa tội. Phép báp têm có nghĩa là cả việc tẩy sạch tội lỗi nguyên tổ và tội lỗi cá nhân (đối với những người mới cải đạo) và tái sinh vào cuộc sống mới, mặc lấy Đấng Christ.

Chính vì Giáo hội Chính thống, giống như Giáo hội Công giáo, có tất cả các bí tích hợp lệ, nên người Công giáo có thể tham dự Thánh lễ và lãnh nhận các bí tích Hòa giải và Xức dầu của Chính thống giáo nếu họ không thể tìm được Giáo hội hoặc linh mục Công giáo mong muốn.

Về phép xã giao

Nhà thờ Chính thống sử dụng bánh mì có men và tiếng Hy Lạp trong phụng vụ của mình, trong khi Nhà thờ Công giáo sử dụng bánh mì không men và tiếng Latinh trong phụng vụ thánh trước công đồng. Vatican II, và bây giờ là ngôn ngữ của các tín hữu thuộc mọi nền văn hóa và chủng tộc, kể cả người Việt Nam.

Cuối cùng, về kỷ luật văn thư

Nhà thờ Chính thống cho phép kết hôn giữa các phó tế và linh mục, ngoại trừ giám mục, trong khi kỷ luật độc thân áp dụng cho tất cả các cấp bậc giáo sĩ và tu sĩ Công giáo, ngoại trừ phó tế vĩnh viễn.

Cho đến nay, đây là những điểm khác biệt cơ bản giữa Chính thống giáo Đông phương và Công giáo La Mã.

Tuy nhiên, bất chấp những khác biệt và khó khăn nêu trên, Giáo hội Công giáo và Giáo hội Chính thống rất gần nhau về nguồn gốc tông đồ và nền tảng của niềm tin, giáo lý, bí tích và thánh thư. Vì vậy, Giáo lý của Giáo hội Công giáo dạy: “Đối với Giáo hội Chính thống, sự hiệp thông này sâu xa đến mức “chỉ còn thiếu một chút nữa là cho phép cùng nhau cử hành Bí tích Thánh Thể”(x. sgl ghcg, số 838).

Hai. Sự khác biệt giữa đạo Tin lành và đạo Công giáo

Chúng ta nên gọi nhánh này là Cải cách hay Tin lành. Đạo Tin lành chỉ là một trong những giáo phái chính trong nhánh Thiên chúa giáo này, nhưng do đạo Tin lành vào Việt Nam sớm và phát triển nhanh nên người Việt Nam quen gọi chung là đạo Tin lành. (ephata đã thêm)

Nói chung, nhánh Cơ đốc giáo này đã tách khỏi Giáo hội Công giáo sau cuộc Cải cách do Martin Luther, linh mục dòng Augustine khởi xướng ở Đức vào năm 1517, và lan sang Pháp cùng với John Calvin, Ulrich Zwingli và Bắc Âu. cùng nhau đến các quốc gia sau Thụy Sĩ. Hiện ở Hoa Kỳ có hàng vạn giáo phái như vậy, với tên gọi khác nhau, nhưng tất cả đều ít nhiều liên quan đến đạo Tin lành nói trên. Một đặc điểm của các hệ phái Tin lành là không có hệ thống cấp bậc chung như Công giáo, với cấp bậc cao nhất từ ​​trung tâm Rome cho đến các giáo hội địa phương ở mỗi quốc gia. Các nhánh Tin lành gần như độc lập với nhau về quyền lực, nhân sự, tài chính và cách hành đạo.

Từ góc độ thần học

Những cải cách nói trên đã phủ nhận hoàn toàn mọi cơ sở thần học cho các bí tích và phẩm trật của Giáo hội Công giáo. Họ phản đối vai trò trung gian của Giáo Hội trong việc giao hòa con người với Thiên Chúa qua bí tích tha thứ hay hòa giải, vì họ không công nhận rằng các giám mục, linh mục và tu sĩ được tấn phong theo chức thánh và có quyền tha tội nhân danh Chúa Kitô (trong người của Chúa Kitô) và thực hiện tất cả các tác vụ thiêng liêng khác (rửa tội, thêm sức, Thánh Thể, xức dầu, làm chứng).

Quan điểm cơ bản của thần học Tin Lành là con người đã bị tội nguyên tổ tiêu diệt mọi khả năng làm việc lành (việc thiện), nên mọi nỗ lực của cá nhân để được cứu rỗi đều vô ích và vô giá trị. Do đó, chỉ cần tuyên xưng đức tin nơi Chúa Kitô theo thánh thư là đủ để được cứu rỗi. (Đức tin một mình, Kinh thánh một mình).

Ngược lại, Giáo hội Công giáo tin rằng con người vẫn có trách nhiệm hợp tác với ân sủng của Thiên Chúa để được cứu rỗi. Nói cách khác, để được cứu độ, trước hết phải trông cậy vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Đức Kitô, đồng thời phải có thiện tâm và ơn cộng tác để thực hiện lời hứa khi chịu phép rửa. Nếu không, Thiên Chúa không cứu được ai cả, vì Chúa Giêsu đã nói rõ: “Không phải ai cũng nói với tôi:Lạy Chúa, lạy Chúa, con không được vào nước thiên đàng đâu! Nhưng thôi. bằng cách vâng lời Cha tôi trong Chỉ những ai hợp ý trời mới được vào..( mt 7, 21 ).

Nói cách khác, bạn không cần phải làm lễ báp têm và sau đó chỉ cần hát Hallelujah và kêu cầu danh Đấng Christ thì bạn sẽ được cứu. Điều quan trọng hơn là sống theo đường lối của Chúa, nghĩa là thực hiện những lời đã hứa khi chịu phép rửa tội: mến Chúa, yêu người và tránh xa tội lỗi. Nếu không, mọi thứ đều vô ích.

Các anh em Tin Lành không cùng quan điểm thần học này nên chỉ tập trung vào việc đọc và rao giảng Kinh Thánh mà không nhấn mạnh đến sự đóng góp của con người như Chúa Giê-su đòi hỏi ở trên. Họ không tin hoặc công nhận bất kỳ bí tích nào khác ngoại trừ phép báp têm và Kinh thánh. Một ví dụ là Bí tích Hòa giải, cho phép các giám mục và linh mục Công giáo tha thứ cho hối nhân nhân danh Chúa Kitô (in the person of Christ).

Lại nữa, vì họ không công nhận Bí tích Thánh Thể, nên họ không tin rằng Chúa Giêsu thực sự hiện hữu dưới hình bánh và rượu, mặc dù một số hệ phái Tin lành có nghi thức bẻ bánh và uống rượu trong các buổi nhóm của họ. bài giảng. Nhưng nó không cử hành Bí tích Thánh Thể (thánh thể) như các nhà thờ Công giáo và Chính thống giáo. Nhiệm vụ quan trọng của họ đơn giản là giảng kinh, vì họ chỉ tin vào kinh (sola scriptura).

Nhưng Kinh Thánh được giải thích theo cách giải thích của riêng họ nên có nhiều mâu thuẫn hoặc mâu thuẫn với cách hiểu và cách giải thích của Giáo hội Công giáo.

Ví dụ, đoạn Tin Mừng trong Ma-thi-ơ 22:8-9 nơi Chúa Giê-su dạy các sứ đồ: “Chưa được gọi”Ai ở dướiCha đâu, thầy…”, các anh em Tin Lành hiểu hết lời Chúa (nghĩa đen) trong ngữ cảnh của câu nói trên, nên họ chỉ trích Giáo hội Công giáo gọi linh mục là “tà giáo = tà giáo”. , père, padre)!

Thật ra, Giáo hội cho phép gọi như vậy vì dựa trên giáo huấn của Thánh Phaolô và giáo huấn này, Công đồng Vatican II trong hiến chế tín lý lumen gentium đã dạy:“Linh mục phải là linh mục thuộc linh nhờ phép báp têm và sự dạy dỗ đã sanh ra họ”(1 Cô-rinh-tô 4, 15; lg 28).

Một điểm khác biệt nữa trong việc đọc và hiểu các sách Phúc âm là Phúc âm Mác kể về một ngày nọ, khi Chúa Giê-su đang giảng dạy cho một nhóm người thì Đức Trinh Nữ và các môn đồ đến. Có người trong đám đông thưa với Chúa: “Thưa Thầy, mẹ con và các anh chị đang tìm Thầy ngoàithầystrong>strong> ( mc 3, 32 ). Các anh em Tin Lành đã dùng câu này để phủ nhận niềm tin của Công giáo và Chính thống giáo rằng Đức Trinh Nữ Maria là một trinh nữ suốt đời vì họ tin rằng Đức mẹ đồng trinh sinh ra Chúa Giê-su sau khi sinh thêm con, tức là họ chỉ tin vào Đức mẹ đồng trinh cho đến khi sinh ra Chúa Giê-su, thật ra từ “anh em” trong ngữ cảnh trên chỉ là tình nghĩa anh em, chị em thiêng liêng. , đó là Công giáo Cách hiểu và giải thích Kinh thánh khác với Cơ đốc giáo Chính thống. Tin vui.

Xét cho cùng, xét về quyền bình đẳng, các giáo phái Tin lành không công nhận giáo hoàng là đại diện duy nhất của Chúa Kitô trên trái đất để chăn dắt đàn chiên của mình.

Vì không công nhận Giáo hoàng là người đứng đầu duy nhất của Giáo hội Cơ đốc nên đây là một trở ngại lớn đối với các nhánh Tin lành muốn hợp nhất với Giáo hội Công giáo.

Về Thánh Thể:

Tất cả các nhóm Tin Lành và Anh Giáo đều không có các bí tích quan trọng như Thêm Sức, Thánh Thể, Hòa Giải, Xức Dầu Bệnh Nhân và Truyền Chức, bởi vì họ không có Kế Vị Tông Đồ. .Quan trọng hơn, người sáng lập của họ là một người bình thường (Martin Luther, John Calvin, Henry XIII) chứ không phải ở Phi-e-rơ (Mounts 16, 18-19 ) và Chính Chúa Giê-xu Christ, Đấng đã thành lập Giáo hội tồn tại bên trong Giáo hội Công giáodo những người kế vị thánh Phêrô đứng đầu và các giám mục hiệp thông với ngài“, như Công đồng Vatican II đã được Công đồng chung lần thứ nhất công nhận (x. lg số 8). , các nhánh Tin lành và Anh giáo không có linh mục và giám mục hiệu quả để thực hiện các bí tích trên.

Hầu hết các nhóm Tin lành và Anh giáo chỉ có lễ rửa tội. Nhưng nếu nhóm nào không rửa tội bằng nước và công thức ba ngôi như nhóm bahai hullah thì sẽ không có hiệu quả (void). Do đó, sau khi gia nhập Giáo hội Công giáo, bất kỳ người theo đạo Tin lành nào chưa được rửa tội bằng nước và công thức trên đều phải được rửa tội lại với tư cách là người dự tòng. Nếu họ được rửa tội cách hiệu quả, họ chỉ cần tuyên thệ đức tin khi trở thành người Công giáo.

Đây là những khác biệt cơ bản giữa Công giáo và Tin lành. Tuy nhiên, Giáo hội Công giáo vẫn tin tưởng vào những người anh em bất đồng chính kiến ​​này và hy vọng đạt được tình liên đới với họ thông qua những nỗ lực đại kết mà Giáo hội đã theo đuổi và cầu nguyện trong nhiều năm.

Chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa những người có cùng niềm tin vào Chúa Kitô nhưng không hiệp thông và hiệp nhất với Giáo hội Công giáo, một Giáo hội duy nhất. Chúa Giêsu, được thành lập trên tông đồ Phêrô, được giám sát bởi Đức Thánh Cha, cũng là Giám mục Rôma, và có sự hợp tác và tuân phục hoàn toàn của Hội đồng Giám mục.

I. Phanxicô Xaviê Oh Dong-hwan

Kiểm tra tiếng Anh trực tuyến

Bạn đã biết trình độ tiếng Anh hiện tại của mình chưa?
Bắt đầu làm bài kiểm tra

Nhận tư vấn lộ trình từ ACET

Hãy để lại thông tin, tư vấn viên của ACET sẽ liên lạc với bạn trong thời gian sớm nhất.