<3 Chunhua làm cho văn bản của tôi sống động hơn trong hai tác phẩm này.
Mùa xuân mang trong mình vẻ đẹp tươi mới, khoáng đạt và tràn đầy sức sống. Điều này được thể hiện rất rõ qua bức tranh xuân “Cảnh xuân” của Nguyễn Du và “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. Vậy mời các bạn theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn:
Đề bài:Phân tích vẻ đẹp của cảnh sắc mùa xuân bằng hai đoạn văn:
Xuân én đưa đò đưa, thu chín mươi tuổi cỏ trời xanh điểm vài bông hoa lê trắng
(Nguyễn Du, Kiều Xuyên)
Giữa dòng sông xanh, một bông hoa tím, ôi chim chiền chiện vang trời, từng giọt sáng, tôi đưa tay hứng lấy
(Thanh Hải, Koizumi)
Phác thảo bức tranh mùa xuân trong bức tranh nhỏ ngày xuân và cảnh mùa xuân
I. Lễ khai trương
– Xuất phát từ chủ đề mùa xuân trong thơ, hai bức tranh xuân của Nguyễn Du và Thanh Hải được giới thiệu trong hai bài thơ
– Trích dẫn hai bài thơ xuân của nguyễn du và thanh hà
Hai. Thưa bàtôi
1. Phân tích vẻ đẹp chung của hai bài thơ
– Cả hai bài thơ đều tả mùa xuân với đường nét ung dung tự tại, màu sắc tươi sáng, hài hòa, không gian, cao, rộng, xa, tĩnh, động, có hương vị thơ quen thuộc
<3
– Hai bức tranh xuân tràn đầy sức sống mùa xuân, thể hiện tình yêu thiên nhiên, cuộc sống của thi nhân
2. Vẻ đẹp riêng của từng đoạn
*Bài thơ cảnh mùa xuân
– Tranh thiên nhiên kết hợp giữa tưởng tượng ước lệ với hình ảnh vô cùng tinh tế, ngôn ngữ đặc sắc, ngôn từ miêu tả sinh động, bảng màu thể hiện nghệ thuật
+Hình ảnh mùa xuân tháng ba khoáng đạt tươi mát, cánh én chao liệng
+ Ngày xuân qua mau, ngày xuân như “Diên tiễn”, nhà thơ thở dài xúc động
– Hai câu thơ tổng kết vẻ đẹp của mùa xuân: “Cỏ xanh ngút trời/ Cành lê trắng nở vài bông”
+ Hai câu gợi tả một bức tranh tươi đẹp tràn ngập mùa xuân, hoa trắng cỏ xanh nhưng lại gợi một bức tranh trìu mến, rộng lớn
+ Thảm cỏ xanh mướt làm nền rực rỡ cho bức tranh xuân, điểm xuyết vài bông hoa lê trắng
+ Tranh xuân của Nguyễn Du đan xen giữa hình ảnh thế tục và chất liệu thơ ca, có tính vượt thời gian và đặc sắc bởi sự kế thừa và vận dụng sáng tạo thể thơ cổ “Thiên đạo” của Trung Quốc. -Loài hoa”
<3
– Lối ngắt câu, hình ảnh gợi, ngôn ngữ cô đọng…
+ Mênh mông cỏ cây xanh mướt được kết hợp hài hòa, hình ảnh thu nhỏ trên cành hoa xuân nhưng không ám chỉ cụ thể sắc xuân của vùng miền nào.
→ Ngòi bút của Nguyễn Du là một ngòi bút tuyệt vời, tài hoa, kết hợp miêu tả và khơi gợi, đầy tính tạo hình của ngôn ngữ biểu cảm. Như vậy, ta thấy được lòng người tươi vui, phấn khởi qua vẻ đẹp trong trẻo, tươi tắn, hồn nhiên và nhạy cảm của thiên nhiên.
*Một bài viết nhỏ trong mùa xuân phân tích vẻ đẹp của mùa xuân
+ Cảnh thiên nhiên mùa xuân trong thơ Thanh Hải cụ thể, không gian chân thực, ngôn ngữ thơ hiện đại, đặc biệt là giọng tươi vui, phồn thực nhưng không câm lặng thể hiện niềm yêu đời, khát sống, khát sống . Khát vọng sống vô tận của nhà thơ
+ Cảm xúc của nhà thơ trước thiên nhiên, cuộc sống được thể hiện sinh động qua câu thơ “giọt long lanh rơi/Ta đưa tay hứng lấy” → hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: âm thanh từ đâu phát ra, thính giác này Biến nó thành hình tượng, nó thể hiện tâm trạng ngây ngất của tác giả trước cảnh sắc mùa xuân của đất trời
+ thanh hải sử dụng thể thơ ngũ ngôn để đến gần với tiếng nói trung tâm của nhân dân, tạo nên một giọng điệu nhẹ nhàng, chân chất đi vào lòng người
+ Giọng điệu của bài thơ phù hợp với tâm trạng, cảm xúc của tác giả: vẻ đẹp của thế giới xứ Huế vào xuân, rạo rực, say sưa, ngây ngất
→ Bức tranh xuân không chỉ có vẻ đẹp chung, mà còn ẩn chứa vẻ đẹp chung và nét riêng, bởi mỗi thi nhân đều có những cảm nhận khác nhau
+ Hơn nữa, mỗi nhà thơ sống trong một giai đoạn lịch sử khác nhau, trong một hoàn cảnh khác nhau
+ Qua những bức tranh miêu tả thiên nhiên của mỗi tác giả, ta thấy được tình yêu thiên nhiên tha thiết, nguồn cảm hứng về thiên nhiên là vô tận của nhà thơ.
Ba. Kết thúc
– Khái quát vẻ đẹp của hai bức tranh mùa xuân
– Khẳng định giá trị của bài thơ và hai tác phẩm trong việc vun đắp tâm hồn, tình cảm của con người.
Tiểu Cảnh Mùa Xuân – Mẫu 1
Vũ trụ xoay quanh bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mỗi mùa mang một ý nghĩa khác nhau: mùa đông mang đến sự cô quạnh và lạnh lẽo; mùa thu mang đến cảnh sắc yên bình, nhẹ nhàng; mùa hạ mang đến sự rực rỡ và ồn ào. Và mùa xuân, được ví như sự trở lại của vạn vật, là chủ đề thơ ca luôn được các nhà văn, nhà thơ sử dụng để khơi gợi những cảm xúc chân thật nhất. Thanh Hải trong bài thơ “Mùa xuân nhỏ” và Nguyễn Du (trích Hoa kiều) trích cảnh xuân đều có cảm xúc đặc biệt đối với vẻ đẹp của cảnh thiên nhiên vào xuân.
Mùa xuân luôn được coi là mùa đẹp nhất trong năm. Tại sao? Mùa xuân tượng trưng cho niềm tin, hy vọng và đổi mới. Tranh phong cảnh mùa xuân luôn gợi nhớ đến sự yên bình, nhẹ nhàng pha chút hối hả, tất bật, đánh dấu sự bắt đầu của một thời gian đã qua.
Những bài thơ xuân của Thanh Hải cho thấy những gì Thanh Hải mang đến cho người đọc là một mùa xuân nhẹ nhàng và bình yên. Một bông hoa tím mọc giữa dòng sông xanh biếc tượng trưng cho khát khao, hy vọng và sức sống mãnh liệt, hòa vào tiếng chim chiền chiện ríu rít trên bầu trời, tô điểm thêm cho bức tranh xuân dung dị. Sương xuân còn rơi trên những chiếc lá xanh non, thiên nhiên đang chuyển sắc xuân báo hiệu mùa xuân đã đến. Không khí dịu hơn, làm tan đi cái giá lạnh của mùa đông và mang lại sức sống xanh cho thiên nhiên.
“Sóng xanh lăn tăn, hoa tím khắp trời, từng giọt sáng rơi, tôi đưa tay hứng lấy.”
Vẻ đẹp của mùa xuân luôn mặn mà, dù già hay trẻ, mùa xuân luôn được bao phủ bởi vẻ đẹp tự nhiên tươi tắn và dịu dàng. Cũng giống như mùa xuân trong cảnh xuân của Nguyễn Du, một đoạn trích từ một ngoại truyện, tuy đã sang xuân hơn hai tháng nhưng nét xuân dịu dàng vẫn đâm chồi nảy lộc khắp nơi. Đàn én lượn lượn trên trời Báo hiệu mùa xuân sẽ đến rồi đi Cây cỏ hoa lá khắp nơi xanh đến tận chân trời Bốn câu thơ gợi tả một bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp:
“Vào mùa xuân, những cánh én thấp thoáng trên bầu trời với chín sáu chục ngọn cỏ xanh, và một vài bông hoa điểm xuyết trên cành lê trắng như tuyết.”
Qua đoạn trích trong hai bài thơ trên, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên của mùa xuân và cho thấy sức sống của mùa xuân. Bức tranh mùa xuân được phác họa bằng những gam màu khác nhau nhưng vẫn gợi lên vẻ tươi đẹp, xanh tươi mang lại không khí ấm áp, yên bình cho mọi người.
Tranh xuân cảnh xuân Tiểu Xuân – mẫu 2
Vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của đất trời luôn là chủ đề đọng lại trong lòng thi nhân. Trong bức tranh phong phú đầy màu sắc ấy, mùa xuân là mảnh đất được khám phá với vẻ đẹp tươi mới, rộng mở, tràn đầy sức sống. Điều này được thể hiện rõ trong bức tranh xuân “Cảnh xuân” của Nguyễn Du và “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
“Phong cảnh mùa xuân” là một đoạn trích trong phần đầu của tác phẩm nổi tiếng “Hoa kiều”: “Tiện giang du ký”. Trong đoạn trích này, đại thi hào Nguyễn Du đã tái hiện lại một khung cảnh tràn đầy sức xuân:
Xuân én đưa đò đưa, thu chín mươi tuổi cỏ trời xanh điểm vài bông hoa lê trắng
Bằng thể thơ lục bát dân tộc và ngôn ngữ giàu hình ảnh, tác giả đã phác họa khung cảnh giữa tháng ba hoa xuân nở và đàn én bay cao trên trời. “Con én”, một tín hiệu quen thuộc báo hiệu mùa xuân đến, hình ảnh không chỉ tạo nên sức sống trong không gian rộng lớn mà còn mang ý niệm ẩn dụ về dòng sông dài của thời gian: “Thời gian thấm thoắt thoi đưa”, năm tháng trôi đi. bước chân năm tháng, mang theo tâm trạng tiếc nuối của con người. Bầu trời vào xuân được miêu tả bằng vẻ đẹp của nắng xuân ấm áp trong “bóng đèn”. Tuy nhiên, màu sắc nổi bật của Chunhua là các sắc xanh từ “cỏ non” đến “đường chân trời ngang dọc”, gợi không gian rộng lớn, khoáng đạt, tràn đầy sức sống. Cây cối xanh tươi, xanh tươi, căng tràn nhựa sống, tràn ngập sắc xuân. Trên tông màu chủ đạo, điểm xuyết những cành lê là màu trắng tinh khôi: “Một vài bông hoa trên cành lê trắng”. Tác giả sử dụng thành công dấu câu, một biện pháp thơ phổ biến trong thơ ca trung đại để làm nổi bật vẻ đẹp hài hòa, trong trẻo của “cảnh ngày xuân”. Vì vậy, nhà văn Nguyễn Du bằng tài năng sử dụng ngôn ngữ và sự kết hợp các hình ảnh tượng trưng đã phác họa nên một bức tranh mùa xuân gắn liền với không khí sôi động của Tết Thanh minh. màu sắc.
Nếu như đại thi hào Nguyễn Du mở đầu bức tranh mùa xuân bằng hình ảnh cánh én thì nhà thơ Thanh Hải miêu tả mùa xuân bằng màu tím của hoa:
Giữa dòng sông xanh, một bông hoa tím, ôi chim chiền chiện vang trời, từng giọt sáng, tôi đưa tay hứng lấy
Những bức tranh xuân trong “Mùa xuân nho nhỏ” của thi sĩ Thanh Hải liên quan đến nét đặc sắc của xứ Huế mộng mơ với những hình ảnh quen thuộc: “sông”, “hoa”, chim hạc, “đèn thu”, tác giả đảo ngược, đưa Động từ “mọc” ở đầu câu gợi liên tưởng đến một nhành hoa vươn mình trong nước, khoe sắc tím. Màu xanh, ẩn dụ cho sức sống căng tràn – bức tranh về một mùa xuân còn được tô điểm bởi tiếng hót véo von trong veo, du dương giữa không gian dòng sông xanh, Đó có thể là giọt sương xuân, giọt mưa xuân chưa tan chưa, và vẫn ở trên mặt nước. Những cành cây giữa những chiếc lá đùa giỡn với ánh nắng mặt trời mọc trở nên “lấp lánh”, lấp lánh trong mắt mọi người. Nhà thơ ơi, đây có thể là tiếng chim chiền chiện – thứ âm thanh trong trẻo vang vọng cả mùa xuân của đất trời. Màu xanh thuần khiết nhưng không tan biến mà đọng lại, kết tinh thành những “giọt nắng” rơi vào không trung. Tính thẩm mỹ mới trong cách cảm nhận của tác giả được thể hiện qua phép ẩn dụ chuyển đổi giác quan, không chỉ lắng nghe tiếng chim hót bằng thính giác mà còn “bắt” từng giọt “chớp nhoáng”. Vì vậy, qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” ta thấy được những hình ảnh chân thực, sống động và những cảm nhận tinh tế sâu thẳm trong lòng nhà thơ, thấy được bức tranh mùa xuân xứ Huế đẹp như mơ.
Vì vậy, qua hai bài thơ “Cảnh xuân” của Nguyễn Dục và “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, ta có thể thấy cả hai tác giả đã phác họa một bức tranh mùa xuân tràn đầy sức sống. Sống động, đầy màu sắc và đường nét, nó thể hiện tài năng của nhà thơ. Mỗi nhà thơ đều chọn hình ảnh, ngôn ngữ và nghệ thuật. Qua đây ta thấy được tình yêu và sự đồng cảm mãnh liệt của nhà thơ đối với vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời.
Tuy nhiên, trong mỗi tác phẩm đều phác họa nên một khung cảnh tràn đầy sức xuân. Trong “Cảnh xuân”, đại thi hào Nguyễn Du đã gắn mùa xuân với tiết Thanh Minh, làm nổi bật vẻ đẹp của lễ hội dân gian qua thi liệu và bút pháp của thơ ca trung đại; sự xây dựng và đổi mới liên quan đến vẻ đẹp của xứ Huế mộng mơ.
Vì vậy, mỗi nhà thơ đều dùng tài năng của mình để phác họa nên một loạt cảnh xuân rực rỡ, đặc sắc và tươi đẹp, làm nền cho cảm xúc bộc lộ.
Tiểu cảnh mùa xuân – Mẫu 3
Mùa xuân là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc. Cũng chính vì điều này đã làm rung động trái tim biết bao thi nhân, khiến họ viết nên những vần thơ để lưu lại hơi thở tươi mới của mùa xuân. Thơ xuân cùng một cảm hứng, Nguyễn Du và Thanh Hải là hai nhà văn ở hai thời kỳ văn học khác nhau nhưng cùng tái hiện bức tranh xuân tươi đẹp trong “Cảnh xuân” và “Nho xuân”. “
Trước hết, đối với “Cảnh xuân”, mùa xuân được miêu tả như một dấu tích còn sót lại trong kí ức của tác giả nhưng vẫn hiện lên tươi đẹp:
“Vào mùa xuân, những cánh én thấp thoáng trên bầu trời với chín sáu chục ngọn cỏ xanh, và một vài bông hoa điểm xuyết trên cành lê trắng như tuyết.”
Mở đầu bức tranh, tác giả báo hiệu mùa xuân đến bằng hình ảnh: “Con én đưa thoi”. Đây là một hình ảnh thơ rất quen thuộc trong thơ ca cổ điển. Mượn hình ảnh đàn én bay lượn trên bầu trời mùa xuân, Nguyễn Du đã tinh tế mở ra bức tranh mùa xuân và cho người đọc biết được sự thay đổi của thời gian. Ngoài ý nghĩa là một bức tranh, “Con thoi” còn có thể hiểu là những bước chân của thời gian. Thời gian trôi nhanh như chong chóng, thật hợp lý với câu thơ tiếp theo “thiếu quang đã ngoài sáu mươi”. Thơ là sự nuối tiếc của con người trước thời gian trôi qua một cách cẩu thả. Thời gian đang trôi và mọi người đang bị bỏ lại phía sau. Mùa xuân đến mang theo sức sống và sự hồi phục nhưng cũng đồng nghĩa với sự già đi của đời người. Người nuối tiếc quá khứ.
Sau nét bút đầu tiên, nhà thơ bắt đầu miêu tả cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân ở hai câu tiếp theo:
“Trời đầy cỏ xanh, điểm xuyết vài bông hoa lê trắng”
Thơ có xu hướng gợi nhiều hơn miêu tả. Hai câu thơ đủ phác họa một khung cảnh mùa xuân đầy sức sống. Màu xanh là màu của sự sống, màu của sự lan tỏa, mà Nguyễn Du đã miêu tả ở đây, lan tỏa, màu xanh của cây cỏ đi liền với màu xanh của đất trời. Nguyễn Du dùng những nét vẽ thẳng đem đến cho người đọc một cảm giác rất thực, một bức tranh thực vật tươi mới và đầy sức sống. Vẻ đẹp của nguyễn du nằm ở những bông hoa lê trắng tinh điểm xuyết trên nền xanh. Dù chỉ là “một vài bông hoa” nhưng sắc trắng của hoa lê cũng đủ làm nổi bật khung cảnh của cả một mùa xuân. Những cánh én, màu xanh của cây cối, màu trắng của hoa tạo thành một bức tranh tràn ngập sắc xuân trong “Cảnh xuân” của Nguyễn Du.
Nếu “Cảnh xuân” của Nguyễn Du là một cảnh xuân của thời Thanh Minh và đặc trưng của thi ca cổ điển, thì “Cảnh xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là một cảnh xuân xứ Huế, dịu dàng và thân thuộc.
Giữa dòng sông xanh, một bông hoa tím, ôi chim chiền chiện vang trời, từng giọt sáng, tôi đưa tay hứng lấy
Đầu bức tranh cũng là màu xanh, nhưng không phải màu xanh của cỏ mà là màu xanh của dòng sông. Trên nền trời xanh ấy, thanh hải đã tinh tế điểm tô một bông hoa tím, màu đặc trưng của xứ Huế. Vẻ ngoài của hoa tuy cô độc nhưng không hề lẻ loi, lẻ loi như “bọn củi trôi” mà tràn đầy sức sống. Nó thể hiện một lẽ sống, một khát vọng sinh tồn mãnh liệt được nhà thơ thể hiện qua từng câu chữ. Trên nền trời xanh có tiếng “chim chiền chiện” vui tươi. Câu cảm thán “Ồ” kèm theo câu hỏi “Hehe” gợi chất giọng Huế gợi cảm, dịu dàng. Chính vì những cảnh sắc và âm thanh vui tai đó mà tác giả đã hết sức trân trọng và nâng niu mùa xuân. Chữ “giọt” ở đây là giọt mưa? sương? Hay nắng? Hay tiếng chim hót cô đọng lại thành tiếng “didi” mới được các nhà thơ đón nhận và nâng niu? Dù là câu nào đi chăng nữa, ta cũng thấy được tình cảm tinh tế và tình cảm sâu sắc của nhà thơ đối với mùa xuân. Hành động “giơ tay lên”… “bắt đầu” thể hiện điều này rất rõ ràng.
Vì vậy, hai đoạn này là bức tranh mùa xuân tràn đầy sức sống. Nó không chỉ thể hiện không gian tươi đẹp của mùa xuân mà còn thể hiện một cách tinh tế tài năng của tác giả. Nhưng nếu “Cảnh xuân” là không gian mùa xuân gắn liền với tiết Thanh minh, được miêu tả bằng dấu câu và sử dụng những hình ảnh ước lệ, tượng trưng đặc trưng của thơ cổ điển, thì “Mùa xuân nho nhỏ” là một không gian với nhiều hình ảnh quen thuộc, một không gian xuân rực rỡ sắc màu. . Dòng trong giai điệu.
Giai đoạn lịch sử và những hoàn cảnh riêng khác nhau khiến hai bài thơ hoàn toàn khác nhau nhưng nhìn chung đều thể hiện tình yêu thiết tha đối với thiên nhiên, quê hương, đất nước của nhà thơ.
Tranh xuân cảnh xuân Tiểu Xuân – mẫu 4
Vẻ đẹp của mùa xuân luôn có một sức hút kỳ lạ, chỉ cần nói đến “mùa xuân” thôi cũng khiến người ta rạo rực và háo hức muốn thử. Mùa xuân cũng là lý do khiến nhiều nhà thơ không thể thờ ơ, đặt bút xuống, viết nên những vần thơ hay để ca ngợi và bày tỏ. Hai thế hệ nguyễn du và thanh hải sống ở hai thời đại khác nhau nhưng đều có tình yêu với mùa xuân sâu sắc, họ đã viết về mùa xuân bằng những tình cảm sâu sắc, nồng nàn nhất:
“Chín sáu mươi năm trước mùa xuân, én bay về trời, cỏ xanh đến tận chân trời, cành lê trắng như tuyết điểm xuyết một vài bông hoa”
và
Giữa dòng sông xanh, một bông hoa tím, ôi chim chiền chiện vang trời, từng giọt sáng, tôi đưa tay hứng lấy
Trong cảnh xuân ở Nguyễn Du và Koizumi ở Thanh Hải, mùa xuân rất nên thơ. Mùa xuân mang đến sức sống mới cho vạn vật trong tự nhiên, cây cối, hoa lá đều xanh tươi, tràn ngập yêu thương. Tiếng chim ríu rít trong nắng xuân tươi đẹp. Hai bức tranh xuân từ hai thời đại, hai không gian xuân cách nhau hàng trăm năm mà xuân vẫn vậy, chất xuân vẫn đượm đà, vẫn mang dáng dấp của xuân Việt Nam, đầy gợi cảm, đầy trống vắng , nhẹ nhàng, như một bức tranh Sự hài hòa của âm thanh, màu sắc, vạn vật dệt nên trong khung trời xuân. Tranh xuân đều có chim tung cánh, tranh nào cũng có hương hoa, tranh nào cũng có xuân. Hai bức tranh mùa xuân đều được cảm nhận qua tâm hồn thi nhân dạt dào cảm xúc, yêu thiên nhiên, có sự cộng hưởng thẩm mỹ tinh tế trước thiên nhiên.
Dường như trong sâu thẳm những cuộn tranh đầy xuân ấy, ẩn chứa nụ cười lặng lẽ kiêu hãnh của nhà thơ trước cảnh sắc mùa xuân tươi đẹp, ẩn chứa cả tấm lòng hân hoan, tự hào của nhà thơ.
Bên cạnh vẻ đẹp của sự tươi mới, ta còn có thể thấy ở hai bức tranh mùa xuân ở hai tác phẩm đều mang một vẻ đẹp riêng. Trong mùa xuân nhỏ ở Thanh Hải, tác giả miêu tả sự dịu dàng và nhàn nhã của mùa xuân, tràn đầy tự nhiên và chân thành.
“Mọc giữa lòng sông gợn sóng, hoa tím một trời
Bài thơ ngũ ngôn ngắn gọn, không cường điệu, không khoa trương, chỉ cô đọng biết bao hình ảnh: cỏ cây hoa lá, tiếng chim hót, dòng sông mà sao cảm động đến lạ. Trong làn hương thơ mộng, một bông hoa màu tím mọc lên, đặc biệt bắt mắt giữa làn nước trong xanh, chỉ có hoa lục bình là vẫn tỏa sáng, vẫn đẹp và tràn đầy sức sống. Đóa hoa ấy là hoa của đời, góp phần đẹp đẽ trong công cuộc xây dựng đất nước, âm thầm tô điểm cho đời? Con trùng hót mừng xuân sang, hình ảnh con chiền chiện hót “vang trời” rung rinh lạ thường, và một loài chim nhỏ khác cũng góp tiếng hót làm đẹp mùa xuân, làm đẹp cho đời.
“Mỗi giọt long lanh rơi, tôi đưa tay hứng lấy”
Thanh Hải tận hưởng mùa xuân bằng năm giác quan. Điều mà tiếng chim hót mang đến là cơn mưa Didi, hay giọt nắng xuân, hay giọt sương mai đầy bay bổng. Vẻ đẹp của mùa xuân được viết bởi Thanh Hải, những tình cảm trân trọng và nâng niu nhất, thật đẹp.
Những bức tranh xuân của Nguyễn Du cũng rất ấn tượng và độc đáo. Tác giả tô điểm thêm bằng thể thơ lục bát đậm hồn dân tộc và bút pháp tài tình, đưa ta đến một không gian mùa xuân yên ả, khoáng đạt.
“Chín sáu mươi năm trước mùa xuân, én bay về trời, cỏ xanh đến tận chân trời, cành lê trắng như tuyết điểm xuyết một vài bông hoa”
Cánh én tung bay trong cảnh xuân thanh bình, én báo hiệu mùa xuân đến, én mang theo cả mùa xuân. Ánh sáng tinh khiết và mềm mại của tháng ba mùa xuân thật ấm áp và nhân hậu. Cỏ non xanh mướt trải dài đến tận chân trời, đẹp quá, thơ mộng quá, không gian mùa xuân cao rộng, mềm mại, uyển chuyển, tràn đầy sức sống. Sức xuân, sắc xuân tràn ngập trong từng cánh chim, từng ngọn đèn, từng cảnh vật. Điểm xuyết một vài bông hoa lê trên nền xanh, trắng làm nổi bật nét riêng, nhìn rất hài hòa, đẹp và duyên dáng. Trước mắt người xem là bức tranh xuân đặc biệt nhẹ nhàng và sinh động, một bức tranh xuân đầy ý nghĩa của ngày tháng Ba, lễ tảo mộ hàng năm theo truyền thống dân tộc Việt Nam.
Trong sự phát triển của thơ ca, trong nền văn học dân tộc có rất nhiều bài thơ về mùa xuân, mỗi bài thơ có một khí chất riêng, mỗi người một cảm nhận riêng. Trong vô số tác phẩm viết về mùa xuân ấy, thơ xuân của Nguyễn Du và Thanh Hải vẫn chiếm một vị trí rất quan trọng trong nền văn học dân tộc và trong lòng mỗi người đọc từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tiểu cảnh mùa xuân – Mẫu 5
Từ xa xưa, mùa xuân đã là chủ đề của thơ ca. Có thể nói, nhà thơ nào cũng ít nhất một lần trong đời viết về mùa xuân. Mùa xuân là mùa của cây cối rợp bóng mát, mùa của hoa trái trĩu quả, mùa của cỏ ngon và bầu trời trong xanh. Mùa xuân là mùa của tình yêu nồng cháy, mùa của niềm vui và kỷ niệm. Cuộc đời ngắn ngủi của nhà thơ Thanh Hải tuy viết không nhiều, nhưng ông đã để lại được một bài thơ xuân ấm áp yêu thương, tô điểm thêm chút sắc màu cho bức tranh xuân rộng lớn của thi ca nước nhà.
Mở đầu bài thơ là khung cảnh mùa xuân rực rỡ sắc màu hòa quyện giữa núi rừng và đất trời, tràn đầy sức sống. Hình ảnh thơ thay đổi theo cái nhìn của nhà thơ. Không gian thay đổi từ thấp lên cao, từ gần đến xa, từ xa đến tối. Hình ảnh thơ Thanh Hải không mới, không nổi bật nhưng gây được sự chú ý của người đọc. Đơn giản để thu hút sự chú ý. Đầu tiên là hình ảnh bông hoa tím giữa dòng sông xanh:
“Bông hoa tím nở giữa dòng sông xanh”.
Tuy không đột ngột nhưng sắc tím của lan dạ hương lập tức tạo thêm sắc thái nhẹ nhàng cho bức tranh, phảng phất chút u sầu. Từ “mọc” làm cho câu thơ trở nên phong phú nhưng cũng không thoát khỏi nỗi cô đơn của “một bông hoa tím”. Bài thơ này làm ta nhớ đến bài Lục bình tím của Bích Tuyền:
“Có loài hoa buồn, trôi theo dòng nước, chìm vô định mãi vẫn trôi, nên hoa thắm màu tím yêu thương. Có loài hoa vừa hé nở, em đi lấy chồng, rồi em ở lại.” , Tôi sẽ trìu mến đứng đó và nhớ ngồi cho đến khi Hua’er buồn và lơ lửng. “
Bèo tây nở quanh năm chứ không chỉ vào mùa xuân. Nhưng trong bức tranh thanh xuân ấy lại góp một chút màu trầm lặng. Những bông hoa dạ lan hương theo kiểu héo úa, không xum xuê và không rực rỡ. Đứng trong bức tranh xuân xanh bất tận lại càng thấy cô quạnh hơn.
Từ “hoa” nói lên tất cả. Dường như nó sẽ nở hoa đến cuối cùng, cho nó sức sống cuối cùng trước khi chết. Cô đơn, lẻ loi, buồn bã, không phải là điểm sáng nghệ thuật như cành lê trắng trong thơ Nguyễn Du:
“Trời đầy cỏ xanh, điểm xuyết vài cành lê hoa trắng”.
Phải không Thanh Hải muốn dùng bông hoa dạ lan hương tím ấy để nói về kiếp người, kiếp người trong thế giới sinh vật bao la. Dòng sông xanh ấy là dòng đời chở bao sinh mạng của biết bao con người. Hoa hay đời bé nhỏ, trôi nổi. Hoa chỉ nở một lần rồi luân hồi. Chữ “tía” khiến người đọc chạnh lòng. Màu tím là màu tím rực rỡ, màu tím tận cùng. Cái đẹp đang ở thời kỳ huy hoàng và lộng lẫy nhất. Điều đó có nghĩa là nó sắp tàn, tạo ra một cảm giác tiếc nuối vô cùng.
Có thể nói đây là tâm trạng thật của Thanh Hải khi nằm trên giường bệnh. Khi sắp từ giã cõi đời, nỗi lo vẫn khiến nhà thơ muốn sống đến cùng. Anh cũng muốn tiếp tục bền bỉ, làm xanh và tô điểm cho cuộc sống tươi đẹp này, dù nó rất lặng lẽ. Chính niềm khao khát ấy đã làm nên ấn tượng cho bài thơ này. Ca từ giản dị, không màu mè, kỹ thuật đảo ngữ tài tình, để hình ảnh thơ nổi bật trên nền cảnh rộng lớn.
Nhà thơ đứng dưới đất, như muốn thoát khỏi sự bóng gió ấy, ngước mắt nhìn trời cao, không khỏi kinh ngạc:
“Ôi, tiếng chim hót thật to.”
Tiếng chim chiền chiện vút lên trời xanh, khuấy động không gian tĩnh mịch. Tiếng chim hót líu lo, thanh cao cùng những âm thanh mê hoặc rơi vào không gian đầy quyến rũ.
Nếu ở trong nước, ít ai không biết đến loài chim này. Đó là một “nữ ca sĩ” cao. Tuy nhỏ nhưng hát rất rõ. Chim chiền chiện thường bay cao lên trời. Cánh chim bay cao cho đến khi hóa thành một hình hài nhỏ bé cất tiếng hót líu lo. Tiếng hát vang khắp đất trời, vạn vật im lìm, cỏ cây lặng lẽ nghe khúc nhạc xuân sôi động.
Nó hát bằng tất cả năng lượng của nó. Đôi khi như một tiếng hét giận dữ. Đôi khi nó giống như trò chuyện tinh thần. Đôi khi gắt gỏng và chua ngoa. Tiếng chim hót, hương hoa hòa quyện với cảnh sắc mùa xuân. Tiếng ríu rít kết nối vạn vật thành một bản nhạc say sưa bất tận.
Nghe tiếng chim hót, nhà thơ đã nghĩ “làm sao mình hát cho trời cao”. Nhà thơ vừa ngưỡng mộ vừa đồng cảm với cô ca sĩ. Làm thế nào để giải thích sự nhiệt tình đó? Ngay cả những nghệ sĩ nước nhà cũng không thể đưa ra câu trả lời thỏa đáng.
Thông qua hình ảnh con chim chiền chiện, thanh hải nhẹ nhàng gửi gắm đến người đọc một thông điệp, nếu đã từ bỏ chính mình thì không cần biết tại sao và tại sao. Sống đơn giản và cống hiến cuộc đời mình cho giới thượng lưu. Cuộc sống là về sự cho đi. Nhỏ bé như nó, bình thường như nó, nó không có nghĩa là vô nghĩa.
Ai cũng biết sống cho đời và cống hiến hết mình cho đời thì cuộc đời sẽ xanh tươi và tràn đầy ý nghĩa. Mỗi suối nước nhỏ hợp lưu sẽ trở thành suối nước lớn của đất trời. Cũng giống như bông lục bình ấy, cô đơn nhưng tươi tắn. Giống như con chim chiền chiện ấy, cô đơn nhưng cuồng nhiệt đến tận cùng. Vô tình, nhà thơ như lạc vào thế giới của những điều kỳ diệu. Cả thế giới hòa cùng tiếng chim, trôi khắp trời:
“Mỗi giọt long lanh rơi, tôi đưa tay hứng lấy.”
“Cảm hứng” là một từ hay để sử dụng. Tiếng chim chiền chiện bây giờ dường như tạo thành mọi âm thanh mà chúng ta có thể nghe được, chúng ta có thể bắt được. Tiếng chim chiền chiện như gom sắc xuân, khí xuân, tình xuân vào giọt nước ngọt ngào trong thời kỳ chuyển mình siêu thăng, thăng thiên của trời đất.
Với từ “hứng”, nhà thơ đã “bắt” mùa xuân vào tay mình, chặn đứng dòng chảy của tạo vật. Thơ khẳng định thế chủ động chiếm lĩnh cuộc đời. Anh muốn ôm lấy tất cả những đam mê đang bày ra trước mắt, những cam go, những đam mê của cuộc đời, làm chủ quy luật của đất trời, giữ mãi màu xanh của mùa xuân cho cuộc đời này.
Vô dụng vô tình, Thanh Hải lặng lẽ vẽ mùa xuân, bày tỏ tình yêu nơi đây. Anh luôn muốn là những người ưu tú của “Koizumi, âm thầm cống hiến đời mình” em ạ, để góp phần vào mùa xuân lớn của thế giới và mùa xuân lớn của đất nước. Đó là một hoài bão cao cả, một lý tưởng cách mạng sáng ngời, đáng trân trọng biết bao.
Tranh xuân cảnh xuân Tiểu Xuân – mẫu 6
Mùa xuân là đề tài mà các thi nhân xưa và nay nói mãi không hết. Nếu như họa sĩ dùng đường nét, màu sắc, nhạc sĩ dùng âm điệu, âm thanh thì nhà thơ dùng hình ảnh, ngôn từ để bộc lộ tình cảm của mình, đặc biệt là tình yêu thiên nhiên, yêu men rượu, say hơi thở của mùa xuân. Lật trang sách tìm bốn câu đầu của cảnh xuân trong tiểu sử nổi tiếng của Nguyễn Du Kiều, ta hãy dùng bốn câu đầu của Qinghai Xiaochun để chuyển đến thế giới của Huế, và bạn sẽ thấy núi, sông và những dòng sông.Quê hương Việt Nam đẹp biết bao!
Mùa xuân, én bay về trời. Chín mươi năm trước cỏ xanh như trời, cành lê trắng điểm xuyết vài bông hoa
Và:
Mọc giữa dòng sông xanh, một bông hoa tím vang một góc trời.
Nguyễn Du và Thanh Hải tuy không phải là những nhà thơ cùng thế hệ, hoàn cảnh sống khác nhau nhưng tâm hồn của những nghệ sĩ ấy luôn chan chứa một tình yêu thiên nhiên lạ lùng! Văn của nhà thơ đã được thăng hoa, hòa quyện với vạn vật trong thiên nhiên, đã thổi vào đó hơi ấm tình xuân ngọt ngào. Sao không mê, sao không ngây ngất! Vẻ đẹp của hương xuân, hơi ấm của mùa xuân trên thế gian.
Mùa xuân ấy là màu xanh tuyệt vời của sự sống, là chồi non đâm chồi nảy lộc trong từng câu thơ. Hai thứ cảm hứng từ hai thời đại, dệt nên bức tranh xuân muôn màu bằng sợi tơ, có xa có gần, có động có tĩnh, có náo nhiệt, có yêu say đắm. Chỉ vài cú nhấp chuột mà sao hai bức ảnh thanh xuân ấy đẹp đến thế.
Mỗi bài thơ đều độc đáo theo cách riêng của nó. Ruan Qiu đa tình, Thanh Hải nồng nàn, thơ giàu hình ảnh. Nguyễn Du đã kế thừa và sáng tạo ra thể thơ cổ Thi Liên Bích / Lệ chi sách diên hoa khi tả mùa xuân. Nếu như các nhà thơ Trung Quốc xưa dùng màu cỏ xanh để vẽ nên bức tranh mùa xuân, vẻ đẹp của hoa lê trên cành thì Nguyễn Du lại vẽ mùa xuân bằng cỏ xanh trăm hoa đua nở. Vài chữ non, xanh, trắng nhưng dường như chứa đựng tất cả hương, sắc, tình người gửi vào đó. nguyễn du báo hiệu mùa xuân bằng cánh én còn thanh hải là bông hoa tím mọc giữa dòng sông xanh. Nguyễn Du dùng không gian để vẽ thời gian. Hai tháng trôi qua trong nháy mắt, như một quả cầu lông, và chỉ còn lại tia sáng cuối cùng của mùa xuân trong Lễ hội Qingming. Còn thanh hải sử dụng phép đảo ngữ của động từ lớn lên để phác họa hình ảnh sức sống mạnh mẽ của đám lục bình Huế vươn mình trên nền sông xanh rờn. Nguyễn Du đã dùng những thi liệu như cỏ non, cánh én, thiều quang, hoa lê trắng để vẽ nên bức tranh thơ mộng về một mùa xuân cao rộng, vắng vẻ, còn thanh hải lại dùng sông xanh, hoa tím. Bầu trời, những chú chim chiền chiện hót vang trời tạo nên nét độc đáo chỉ có thể tìm thấy ở xứ Huế mộng mơ. Tiếng gọi của Thanh Hải, chim chiền chiện, sao tôi nghe tha thiết, ngọt ngào, đẹp đẽ, chân tình như người Huế.
Cảnh xuân của Nguyễn Du non xanh như tâm hồn của những cô gái thuý kiều, thuý văn trong chuyến du xuân. Tranh xuân của Thanh Hải trong sáng, trìu mến, chan chứa tình cảm, vô cùng cảm động. Tâm hồn họ thăng hoa và rất nghiêm túc, nhưng mỗi người lại có một phong cách nghệ thuật riêng, ghi dấu ấn cá nhân trong lòng người đọc. Nếu nguyễn du vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ lục bát dân tộc thì thanh hải cũng vận dụng thể thơ ngũ ngôn rất nhuần nhuyễn, ngân nga như điệu nhạc Huế trong bản giao hưởng dân tộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ruan Du và Thanh Hải, đã lưu lạc mười lăm năm, cận kề cái chết, nhưng họ vẫn có một tình yêu nồng nàn đối với thiên nhiên và vạn vật trên đời. Tình cảm này luân chuyển trong các tác phẩm khác viết về mùa xuân.
Đã nhiều năm trôi qua nhưng khi đọc lại những câu thơ trên, lòng người đọc vẫn rạo rực, xúc động, say đắm. Có lẽ Nguyễn Du và Thanh Hải sẽ mãi sống trong lòng người đọc bởi những vần thơ như thế, bởi tình yêu của họ với mùa xuân, thiên nhiên, đất trời và con người. Vì những ngòi bút của họ đã thăng hoa thành nguồn mạch bất diệt trong sâu thẳm tâm hồn tôi, gieo vào lòng tôi khát vọng được cống hiến và làm:
Koizumi lặng lẽ thổi hồn vào cuộc sống.
Tiểu cảnh sơn thủy ngày xuân – mẫu 7
Mùa xuân là đề tài giàu nội hàm, là đề tài tồn tại trong văn học cổ lẫn văn hiện đại. Có thể nói, đây là nguồn cảm hứng cho mọi thi nhân, cảnh xuân không chỉ gợi cảm giác xao xuyến xao xuyến mà còn khiến lòng người lưu luyến, xao xuyến. Chính vì vậy mà hai bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của thi sĩ Thanh Hải và “Cảnh ngày xuân” của thi hào Nguyễn Du luôn mang đến hai luồng cảm xúc cho người đọc.
Ở hai khổ thơ đầu của hai bài thơ này, ta có thể thấy rõ nét tương đồng giữa vẻ đẹp mùa xuân trong con mắt của hai phong cách thơ và hai góc nhìn khác nhau.
“Sóng xanh lăn tăn, hoa tím khắp trời, từng giọt sáng rơi, tôi đưa tay hứng lấy.”
(Koizumi-Thanh Hải)
“Vào mùa xuân, những cánh én thấp thoáng trên bầu trời với chín sáu chục ngọn cỏ xanh, và một vài bông hoa điểm xuyết trên cành lê trắng như tuyết.”
(Cảnh xuân- nguyễn du)
Ta có thể thấy, hai bức tranh mùa xuân đều miêu tả một bộ cánh đầy sức sáng tạo, một nét mặt thanh thoát và hơi ấm của mùa xuân. Cả hai câu thơ đều thể hiện được màu sắc trong sáng tươi đẹp của khung cảnh trữ tình mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Các chi tiết “Dòng sông xanh”, “Hoa tím”, “Chim chiền chiện” và “Cỏ xanh”, “Cành lê trắng” được lồng ghép một cách tự nhiên. Kết hợp lại tạo nên một khung cảnh vừa tươi vui vừa êm dịu, hài hòa giản dị mộc mạc.
Nhưng trong sâu thẳm, hai câu thơ này mang hai tâm hồn rất khác nhau. Nhà thơ Thanh Hải đã miêu tả với phong cách tươi vui trong “Mùa xuân nho nhỏ”, cảm nhận được sắc xuân, vẻ đẹp của tuổi trẻ, sức sống tràn trề. Có thể thấy tình cảm của nhà thơ là tình cảm của một người cách mạng yêu đời, yêu dân tộc, yêu quê hương. Hai câu đầu hình dung vẻ đẹp của cố đô Huế giữa mùa xuân:
“Sóng xanh rì rào, hoa tím đua nở”
Màu xanh dịu với bông tím, màu đặc trưng của xứ sở tình yêu, khiến lòng người thư thái, vui vẻ. Lúc đầu, nó khiến người ta cảm thấy trẻ trung và xinh đẹp, nhưng đặc biệt, họ có thể cảm nhận được sự yên bình của mùa xuân. Từ “sheng” trong câu đầu tiên cũng được kết nối với số “một” trong câu thứ hai để cho thấy rằng mặc dù đặc điểm của fuchsia là nhỏ, nhưng nó đánh dấu ý thức tồn tại mạnh mẽ và vẫn chứng minh sự tồn tại của nó. thanh hải dùng màu nhạt để miêu tả cảnh mùa xuân trong trẻo, êm dịu. Và trong bức ảnh đó, có một âm thanh nhỏ vang vọng trên bầu trời của chim chiền chiện:
“Hỡi chim chiền chiện vang trời, từng giọt sáng rơi, ta đưa tay hứng lấy.”
Trong không gian tĩnh lặng được tạo nên bởi những gam màu nhẹ nhàng, tiếng hót của chim chiền chiện phá vỡ sự tĩnh lặng dịu dàng của cảnh sắc mùa xuân. Bài hát “Voices in the Sky” mô tả tiếng hót của các loài chim một cách ồn ào, nhưng êm dịu và yên bình. Những giọt nước trong vắt ở đây là giọt nước của âm thanh, của nước mưa, của nắng lấp lánh, những giọt nước rơi chầm chậm rồi từ từ kết hợp với nhau tạo thành nước suối của thiên nhiên. Ở câu thơ cuối, tác giả thể hiện tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, vươn mình đón nhận mọi quà tặng mà thiên nhiên ban tặng. Tất cả những thứ này kết hợp với nhau để tạo ra một bảng màu đặc biệt đẹp và thanh bình.
So với phong cách thơ Thanh Hải, so với vẻ đẹp tươi vui, lạc quan và tràn đầy sức sống của mùa xuân, thì mùa xuân của Nguyễn Du lại gợi lại một cảm giác tiếc nuối, một hơi thở nhẹ tênh. Nhưng nó cảm thấy một chút nặng nề.
“Vào mùa xuân, những cánh én thấp thoáng trên bầu trời với chín sáu chục ngọn cỏ xanh, và một vài bông hoa điểm xuyết trên cành lê trắng như tuyết.”
“Đu đưa đón xuân” là cách miêu tả sáng tạo của Nguyễn Du, thể hiện sự vội vã của mùa xuân, giống như cánh én bay về trời. “Thiếu quang” nghĩa là ánh sáng đẹp, “chín mươi” nghĩa là còn ba tháng xuân, tức là chín mươi ngày, nay “quá sáu mươi”, ánh xuân đã qua. buồn buồn.
Tháng giêng, tháng hai đã qua, tháng ba còn đây, xuân còn mà lòng người hoài niệm. “Cỏ cuối trời” mở ra cho người đọc những cảm xúc bất tận, màu cỏ trải dài trong không gian bao la, dễ khiến người ta cảm thấy mình thật nhỏ bé giữa bầu trời rộng lớn. Tuy nhiên, ở trung tâm của không gian phù du đó, có những nốt nhạc trắng rải rác. Từ “điểm” có nghĩa là hoa lê rải rác và không đầy đủ. Điều này càng khắc họa thêm sự êm đềm, tĩnh lặng giữa không gian rộng lớn. Màu trắng tinh khôi, trắng nhẹ nhàng, nhỏ nhắn là điểm nhấn của khung cảnh mùa xuân.
Suy cho cùng, mùa xuân của hai bài thơ có những chi tiết có thể lồng ghép nhưng lại mang hai ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Thanh Hải mùa xuân tràn đầy sức sống tươi vui, khiến người ta cảm thấy thiên nhiên tươi đẹp, nhưng ở Nguyên Du cảnh sắc lại có chút u buồn, có lẽ là bởi vì luyến tiếc mà xuân sắp qua đi, lưu lại một hồi dài bơ vơ. định mệnh.