tailieumoi.vn xin giới thiệu đến quý thầy cô và các em học sinh lớp 8 bài văn mẫu phân tích nhân vật ông giáo trong Truyện ngắn hay nhất 2022 của Lão Hạc bao gồm dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và phân tích 20 bài văn mẫu hay nhất giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn luyện, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho các bài thi môn văn. Chúc các em ôn tập hiệu quả và đạt kết quả như mong đợi.
Vui lòng tham khảo các tài liệu sau để biết chi tiết:
Phân tích hình tượng nhân vật lão Giảo trong truyện ngắn Hạc
Bài giảng: Lão Hạc
Phân tích nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc——Văn mẫu 1
Mỗi nhân vật trong truyện ngắn của ông lão là một cuộc đời, một số phận. Tôi cảm thấy tiếc cho cái chết bi thảm của Lao He, và tôi không quên người thầy bất hạnh. Ông có nhiều hoài bão nhưng rồi đều gục ngã vì “cơm áo không nên thơ”.
Hai người thầy đáng kính và thánh thiện. Ở vùng đất quê mùa thất học ấy, ít người được tôn làm thầy. Đó phải là người hiểu đạo lý, nhiều chữ mới gọi thế. Và thầy là một người như vậy.
Dưới lời giới thiệu của Tào Tháo, độc giả có thể biết được đôi chút về cuộc đời của thầy. Khi còn trẻ, thầy là một người ham học, sống có mục đích và có lý tưởng, thầy càng coi trọng điều này. Cuộc đời tôi là một cuốn sách. Nhưng cuộc đời đầy éo le, vào Sài Gòn lập nghiệp chưa được bao lâu thì thầy lâm bệnh, bán gần hết tài sản để mang về một thùng sách. Hạc yêu cậu vàng, và ông lão cũng yêu sách. Nhưng khi lập gia đình, nghèo khó, sách của ông bán hết dần, ông chỉ giữ lại năm cuốn và thề sẽ không bán nữa. Nhưng cuộc đời thật trớ trêu, con ốm đau mệt mỏi, mẹ phải làm sao đây? Tôi không còn cách nào khác đành phải bán vợ và bán dần số sách còn lại. Cuộc đời thầy cũng là một bi kịch, bi kịch của một người trí thức nghèo.
Thầy còn là một người có tấm lòng nhân hậu, luôn biết yêu thương và chia sẻ với mọi người. Cô giáo là trụ cột tinh thần vững chắc của hạc. Ông đã biến nó thành nơi để Sếu chia sẻ tâm sự cho vơi bớt nỗi đau, nhất là từ ngày con trai ông bỏ đồn điền cao su. Bức thư con gửi về cũng là tư liệu thầy đọc, để cho thỏa nỗi nhớ con. Sau này, khi Cẩu bán chó, nó cảm thấy đau đớn, tủi thân và tự trách mình, thì chính người thầy đã an ủi, động viên: “Không có cách nào là hạnh phúc thực sự, nhưng đây mới là hạnh phúc: bây giờ nó được ngồi đây chơi, và tôi sẽ nấu một ít khoai lang. Con trai tôi ăn khoai tây, uống trà và hút thuốc lào. Thế là tốt.” Đối với ông giáo, Hạc là gia đình, và ông cảm thông cho số phận bất hạnh của Lão Hạc. Vợ ông qua đời, Gà trống nuôi nấng một mình con anh Giờ con anh ra đi, anh ở một mình. Lão Hạc không có ai chăm sóc, chỉ có sự quan tâm, chia sẻ của cô giáo.
Mặc dù gia cảnh cũng không hơn lão hạc là bao. Thấy lão hạc gửi tiền lo ma chay, nhường ruộng vườn cho con, chỉ ăn khoai củ, ông giáo động lòng thương và xin giúp đỡ. Anh ấy đề nghị giúp đỡ từ tận đáy lòng, nhưng Xiahe từ chối anh ấy một cách gần như độc đoán. Anh ấy hiểu rằng vì anh ấy là một người đàn ông có lòng tự trọng, anh ấy không muốn ai thương hại mình. Cái chết của con sếu cũng khiến thầy bàng hoàng. Bấy giờ lão mới thực sự hiểu được nhân cách giản dị mà cao quý của hạc: “Lão hạc! Lão hạc ơi! Hãy nhắm mắt và yên lòng. Vườn nhà đừng lo. Tôi sẽ cố giữ lại cái cũ của lão. Con trai về, tôi sẽ đặt Đưa lại cho nó, bảo nó: Đây là ông bố vợ yêu của con muốn bỏ luôn ruộng vườn của con, thà chết chứ không bán sào…”.
Thầy cũng là người rất nhạy cảm, nắm bắt tâm lý mọi người. Khi anh kể chuyện con sếu với vợ, cô ấy tức giận vì cho rằng anh làm khổ mình nên đã phớt lờ anh. Thầy không trách vợ vì: “Vợ tôi không ác, chỉ là cô ấy đau quá. Người bị đau chân có thể quên đau chân mà nghĩ đến chuyện khác không? Khi người ta đau quá, họ Bạn không thể nghĩ về bất cứ ai nữa.Bản chất của con người được ẩn giấu trong những rắc rối, nỗi buồn và sự ích kỷ.
Người thầy là nhân vật tư tưởng của tác giả Huấn Cao, là người thay tác giả Huấn Cao bày tỏ những tâm tư của mình trong cuộc đời. Việc khắc họa nhân vật với chiều sâu tâm lý thể hiện tài năng của tác giả, đồng thời cũng cho thấy sự đồng cảm sâu sắc của người cao cả đối với cảnh nghèo của người trí thức đương thời
Sơ đồ tư duy
Đề cương chi tiết
I. Giới thiệu:
– Giới thiệu về Nam Tào Tháo và tác phẩm: “Lão Hạc” là một truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn hiện thực – nhân văn Nam Tào.
-Giới thiệu và nêu những đặc điểm chính về người thầy: Người thầy trong tác phẩm tuy không phải là nhân vật chính nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng của tác giả.
p>
Hai. Văn bản:
*Paper One: Bối cảnh và Bối cảnh nhân vật.
– Cô giáo này là một trí thức nông thôn nghèo, gia cảnh khó khăn.
+ Nếu như với một người nông dân như Lão Hạc, cái nghèo khiến ông phải bán đi con chó, người bạn thân nhất của mình, thì với một người trí thức như ông giáo, thứ mà ông nâng niu, trân trọng nhất cuối cùng vẫn phải bán chúng đi chữa bệnh cho con trai mình – đó là một cuốn sách.
+ Những vất vả của đời thầy giáo còn được thể hiện qua hình ảnh người vợ của thầy. Nghèo đói, vất vả khiến bà trở nên ích kỷ với tất cả mọi người, trừ con cái.
⇒ Cuộc sống khó khăn đeo bám ngôi làng nhỏ, ngay cả những người trí thức cũng không thoát khỏi vòng vây của cái đói, cái đau.
*Luận điểm 2: Cô giáo là người có tâm và tình cảm.
– Ông giáo khác vợ ở chỗ dù nghèo khó nhưng vẫn giữ được phẩm chất, lòng nhân ái và sự đồng cảm, nhất là với người bạn cũ – Hạc.
+ Từ khi con trai Lão Hạc bỏ đi, ngoài Kim Thông ra, có lẽ ông giáo là người hiểu và thông cảm cho ông lão nhất, phải bỏ đồn điền, thậm chí còn muốn bán chó, gửi vườn, gửi tiền, và như thế.
+ Ông giáo luôn muốn giúp đỡ hạc dù chỉ là củ khoai và ly rượu, khi lão hạc từ chối sự giúp đỡ của ông, ông giáo rất buồn và thương cảm. Sự giúp đỡ duy nhất của anh ấy đối với anh ấy, có lẽ, là giữ khu vườn và tiền bạc với tư cách là người giám hộ của anh ấy.
– Không chỉ Lão Hạc, ông giáo cũng hiểu và thông cảm cho sự ích kỷ của vợ: “Vợ tôi không phải người xấu nhưng cô ấy quá đau đớn.”
*Luận điểm 3: Nhà giáo là trí thức nghèo và quý.
– Dường như trong câu chuyện này, lão Hạc là người đáng thương và đáng thương nhất, nhưng nhìn tất cả những điều này, có lẽ ông giáo mới là người đáng thương nhất.
+ Ông giáo là nhân vật tiêu biểu cho tầng lớp trí thức bần cùng sống trong sự bế tắc của xã hội cũ.
+ Sự bế tắc này cho thấy anh là người chứng kiến tất cả những đau khổ của Hạc, của con trai, của vợ anh và có lẽ của nhiều người khác, nhưng anh chỉ biết đứng nhìn. Không có cách nào để cứu họ khỏi sự đau khổ đó.
+ Người thầy không chỉ là gánh nặng thiếu thốn về vật chất mà còn là nỗi đau tinh thần, đó là sự day dứt, đau khổ khi không thể làm được gì cho xã hội, cho đất nước như chính bản thân mình. Trách nhiệm của một nhà Nho, trí thức đương thời.
+ Khi vợ ích kỷ với lão He, lão chỉ “buồn chứ không giận”, khi nghe tên lính nói Lão đi đánh chó, lão chỉ biết thở dài “Đời thật là ngày càng thêm “. Đáng buồn thay”. Cho đến khi chứng kiến cái chết của Crane, điều duy nhất anh có thể làm là giữ lời hứa với Crane.
⇒ Sự bế tắc và tấm lòng nhân đạo của ông giáo cho người đọc thấy đâu đó trong ông là chính tác giả – một Tào Tháo nam nhân lao tâm khổ tứ.
*Bài 4: Nghệ thuật
– Lời tường thuật ở ngôi thứ nhất tự nhiên, linh hoạt
– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
– Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại…
Ba. Kết luận:
– Khẳng định lại phẩm chất nhân vật người thầy và vai trò của nhân vật xuyên suốt tác phẩm: người thầy có những phẩm chất tiêu biểu cho tầng lớp trí thức đương thời.
– Liên hệ, đánh giá cảm hứng nhân văn, nhân đạo của truyện: Đọc truyện, có thể thấy đằng sau nhân vật ông giáo là hình ảnh tấm lòng nhân đạo rộng lớn, sâu sắc của tác giả. Nỗi khổ của người dân lao động.
Các bài luận mẫu khác:
Phân tích nhân vật ông giáo trong truyện ngắn “Lão Hạc” – Văn mẫu 2
Truyện ngắn Lão Hạc là một trong những hình tượng Nam Cao đã xây dựng thành công hình ảnh người nông dân Việt Nam dưới ách thống trị nặng nề của xã hội thực dân nửa phong kiến, họ phải sống cuộc đời đầy khổ cực nhưng vẫn có tâm hồn cao thượng, cao đẹp. Nếu lão Hạc là nhân vật cảm động trước tình phụ tử thiêng liêng, nhân cách cao cả thì người thầy còn là điểm nổi bật của lòng thương người, là sự cảm thông, kính trọng đối với những người nông dân nghèo khổ khắp nơi. thời gian.
Trước hết ta thấy nhân vật “tôi” trong tác phẩm là một người trí thức nghèo. Nghề dạy học trong xã hội ấy thường xuyên thất nghiệp. Tất cả ước mơ, tất cả lý tưởng, tất cả nhiệt huyết tuổi trẻ đều phải từ bỏ và lụi tàn. Ngay cả những cuốn sách quý thầy cũng phải bán đi để chữa bệnh cho con trai. Vì vậy, ông giáo tỏ ra đồng cảm với nỗi đau của lão Hạc, bộc bạch nỗi lòng của mình, như muốn nói với người bạn cùng cảnh ngộ: “Lão Hạc ơi! Tôi có quyền giữ lại cho mình một chút gì không? là gốc vàng của anh ấy?” Năm cuốn sách quý giá của tôi! “
Từ kinh nghiệm và nỗi đau cá nhân, người thầy dễ đồng cảm với Crane. Anh ta nhìn thấy phẩm chất cao quý của con hạc và rất tôn trọng nó. Ông nhận xét rằng nếu không hiểu tâm hồn và phẩm chất của họ, chúng ta chỉ thấy họ ngu ngốc, điên rồ, xấu xa! Ngược lại, giáo viên biết rõ Lao He và yêu Lao He, nhưng lại bí mật giúp đỡ Lao He rất nhiều, khiến Lao He phải phàn nàn. Đây là thời điểm cái đói và cái chết rình rập bất cứ ai! Sự hiểu biết tinh thần, được thể hiện bằng những hành động giúp đỡ cụ thể, rõ ràng là một loại lòng tốt sâu sắc.
Tuy nhiên, cả xã hội đang đứng trước hiểm họa của nạn đói, có người vẫn giữ được đạo đức, nhân cách, có người phải trộm cắp để kiếm sống. Vì vậy, nhìn thấy Xiahe xin mồi chó từ quân tư nhân, giáo viên đã lầm tưởng rằng Xiahe cũng đã từ bỏ nhân cách của mình và tuyệt vọng. Dù vậy, ông giáo cũng hiền từ nghĩ: Lão Hạc theo chân tư binh trộm chó kiếm sống, chẳng lẽ một người hiền lành chất phác như vậy bây giờ lại có tâm ác sao? Không chỉ kính trọng nhân cách mà còn thương hoàn cảnh của anh, người thầy xót xa trước sự sa sút về đạo đức của anh. Khi nghe và nhìn thấy cái chết thê thảm của lão cẩu chó mồi, ông giáo chợt nhận ra: “Không! Đời không hẳn là buồn, hay vẫn buồn, nó chỉ buồn theo một nghĩa khác mà thôi.” Quả thật, đời chưa hẳn đã buồn, vì Hạc vẫn là người nhân đức cao thượng, lão Hạc vẫn đáng để lão tin tưởng, lão không vì một hạt gạo mà đánh mất phẩm giá của mình! Không hẳn là buồn, vì Ngài vẫn là người đức độ cao thượng, Lão Ngài vẫn đáng để con tin tưởng, Ngài chưa vì một hạt cơm mà đánh mất phẩm giá của mình! Nhưng cuộc đời buồn theo một nghĩa khác: thầy buồn vì những người thầy yêu thương, kính trọng lại quá nghèo để có đủ ăn và tồn tại trên cõi đời này. Đời người lương thiện sao mà khổ thế? Vậy nguyên tắc “lấy mềm khắc phục cứng rắn” có còn không?
Đối với Hạc, không có gì quý hơn lời hứa thực hiện tâm nguyện cuối cùng: Lão Hạc! lão hạc! Hãy nhắm mắt và yên lòng! Ông già đừng lo vườn của ông ấy, ông ấy sẽ không bao giờ bán một sào trong vườn đó đâu. p>
Truyện lão Hạc cho ta thấy còn rất nhiều cảnh éo le trong xã hội đương thời, nơi những con người lương thiện bị đẩy vào tình thế tuyệt vọng, không giúp đỡ lẫn nhau, không chịu nhường nhịn nhau, trong cuộc cuối cùng họ phải tự kết liễu đời mình một cách bi thảm. . Câu chuyện tắc trách đã nói lên nhiều điều!
Tóm lại, thầy là một trí thức kém may mắn trong xã hội đương thời, nhưng vẫn có tấm lòng nhân hậu đáng quý, có cái nhìn sâu sắc để cảm thông, chia sẻ và trân trọng một con người chất phác, chân chất. Chẳng hạn như cần cẩu. Có bao nhiêu người có ý tốt mà không giúp nhau vượt qua những bi kịch của cuộc đời! Qua thầy, chúng tôi hiểu được ánh mắt tin tưởng của người đàn ông cao lớn về nhân cách đáng quý: Dù là trí thức hay nông dân thì giữa họ với nhau vẫn là tri kỷ, và họ có thể giao phó những điều quan trọng, những điều thiêng liêng nhất của đời mình.
Phân tích nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc——Mẫu 3
Trong ngòi bút của Huấn Cao, hình ảnh người nông dân và người trí thức xuôi ngược. Đó là nơi nhà văn gửi gắm nghệ thuật, nhân sinh quan, là nơi gửi gắm tâm tư tình cảm. Những người trí thức mà ông mô tả là những nạn nhân đáng thương của điều kiện sống tồi tàn. Sinh mệnh, tàn tạ, sinh mệnh dư thừa, bị Mi Yi đè xuống đất. Bi kịch hơn nữa, họ lại là những người trí thức – những người luôn ý thức được nỗi khổ của chính mình trong cuộc đời. Ông giáo trong truyện ngắn Lão Húc của Tào Tháo là một người như vậy.
Người thầy trong truyện ngắn “Lão Hạc” được tác giả giao phó nhiều trọng trách. Nhân vật này đứng thứ hai sau lão Hạc, vừa là nhân chứng, vừa là người tham gia vào câu chuyện của nhân vật chính, không chỉ đóng vai trò dẫn dắt câu chuyện mà còn trực tiếp bộc lộ thái độ, tình cảm, tư tưởng, trạng thái. Điều này cũng giống nhưng khác với cách kể chuyện trong tiểu thuyết – tự truyện thời thơ ấu của Nguyễn Hồng.
Thầy cũng là người khó tính. Khi còn trẻ, ông đã đi nhiều nơi, xa nhất là Sài Gòn với niềm tin và khát khao lớn lao. Những người như vậy rồi cũng bị ném về miền quê nghèo khó, bao hy vọng tan tành, 11 tưởng đó chỉ là một giấc mơ không thành hiện thực. Anh nâng niu, trân trọng những cuốn sách “mỗi khi mở sách ra, chưa kịp viết một dòng nào, trong lòng tôi như thấy bình minh đầu tiên, một hình ảnh trong trẻo của tuổi đôi mươi, biết yêu biết ghét…”, và bởi vì tôi bị ốm, tôi không thể bán nó bằng tay vì tôi sống trên cùng một con đường. Đọc chương về nam Tào Tháo, tuy tác giả không miêu tả cuộc sống của ông giáo nơi quê nhà nhưng ta vẫn cảm nhận được một nỗi buồn mơ hồ bao trùm lên cuộc đời ông.
Giáo viên là một nhân vật chu đáo. Có lẽ chính những điều đó đã đưa anh đến gần đàn sếu hơn. Ông giáo tỏ ra thương cảm, đồng cảm với hoàn cảnh của lão Hạc – người hàng xóm già tốt bụng, tìm đến an ủi, giúp đỡ. Đặc biệt là từ khi con trai của Lão Hạc bỏ đi và bán đi cậu bé vàng của mình, cậu chủ giống như một trụ cột tinh thần, là nơi duy nhất Lão Hạc có thể trút bầu tâm sự. Khi Lão Hạc bán cậu bé vàng, anh ta đến nhà ông giáo với một tâm trạng vô cùng buồn bã, và ông giáo đã ở bên cạnh, động viên anh ta với sự đồng cảm rất chân thành. Khi Lao He gom góp mọi thứ và để lại cho con cái và tương lai của chính mình, nhưng càng ngày anh càng lún sâu hơn, chỉ có cô giáo là người hiểu anh: “Giấu vợ, và đôi khi lén giúp He” Anh tốt bụng và yêu thương hàng xóm. anh ấy Chúng tôi cảm động và đánh giá cao, đây là một nhân cách cao quý.
Cũng như rất nhiều người trí thức trong tác phẩm Nam Tào, họ đều là những người dân nghèo. Nếu bạn là một nông dân bình thường, đói nghèo có thể là nỗi đau duy nhất và lớn nhất. Nhưng đối với những người trí thức cao, họ cũng phải chịu sự dày vò về tinh thần. Những người có học thì luôn dày vò, luôn đấu tranh tư tưởng. Kết thúc câu chuyện ta mới hiểu thầy là người luôn phải chứng kiến nỗi đau của người khác. Tôi nhìn quanh cuộc sống của mình và không có một tia vui vẻ, không một tia sức sống. Cuộc sống cơ cực của gia đình Lao He và những suy nghĩ của vợ khiến ông thở dài đau đớn: “Cuộc sống mỗi ngày một buồn hơn”. Anh ấy là một người chu đáo, nhưng anh ấy không thể làm gì trước hoàn cảnh của người khác. Xianhe luôn ở bên cạnh anh, thỉnh thoảng chia sẻ nhận thức về cuộc sống với anh, nhưng người thầy không thể giữ Xianhe ở lại thế giới này. Cuối cùng, anh ta vẫn chết một cách thê thảm, đáng thương. Cái nhìn của vợ ông giáo về Lão Hạc có phần méo mó, nhưng ông chỉ hối hận “vì mình đã quá đau khổ khi nhìn người khác đau khổ”. Chúng tôi thấy thầy là một nhân vật vừa đáng thương vừa đáng kính.
Triết lý nhân sinh về nỗi đau trước cuộc đời và con người cho mình một tiếng nói trong câu chuyện. “Ôi với những người xung quanh, nếu tôi không cố gắng” để hiểu họ, tôi chỉ nghĩ họ điên, ngu, đê tiện, xấu xa, khét tiếng, bao biện cho sự độc ác của mình, chúng ta không bao giờ nghĩ họ là những người đáng thương và chúng ta có chưa bao giờ yêu họ. “Ông giáo không những thấu hiểu vì sao vợ không chịu giúp sếu mà còn tỏ ra thông cảm với nỗi khổ của chính mình. Ông chỉ buồn chứ không giận, tự nhắc mình phải cố gắng hiểu và thông cảm cho chúng. , anh cũng rất buồn vì thấy Cẩu không thèm để ý đến sự giúp đỡ của mình, hai người dần trở nên xa cách, buồn hơn nữa, anh thất vọng với lối sống thay đổi của mình vì không thể chịu đựng nổi cái đói, cái nghèo “Vụng về, đói khát và tham lam” , một người thầy nhân loại trong sáng, tự trọng của Ruhe rất buồn vì trực giác đã lấn át nhân tính, nhưng sau cái chết đột ngột đầy bi thảm của thầy, cảm xúc của anh đã thay đổi, có nhiều suy nghĩ hơn. Bởi có cái chết với tinh thần xả thân cao cả như con hạc.Cái chết chứng tỏ con người đã chiến thắng, còn lòng tự trọng vẫn khiến con người đứng trên bờ vực của sự xa lánh. nghĩa khác” là một bức chân dung Lão Hạc hay, thật đáng thương, thật đáng cảm thông nhưng cuối cùng vẫn hoàn toàn bế tắc. Vô vọng, vẫn phải tìm đến cái chết như một cứu cánh duy nhất, như một sự giải thoát tự nguyện và bất đắc dĩ. Còn gì bằng. buồn là không phải ai cũng hiểu hết ý nghĩa cái chết của thầy.Tâm trạng của thầy đầy tình thương và lòng thương xót sâu sắc nhưng cũng phảng phất một nỗi buồn sâu lắng và giọng điệu bi quan.Hồn người mất chỉ còn chút an ủi là thầy xưa còn giữ lời hứa của anh và canh giữ cả khu vườn.Có dịp gặp gỡ giao lão hạc.
Có một điều mà không phải độc giả nào cũng dễ dàng nhận ra: người đau khổ nhất trong câu chuyện không nhất thiết phải như Lão Hạc, con trai Lão Hạc, bộ đội Lão Sĩ,… mà chính là một người thầy – một con người người biết tất cả mọi thứ ở đời Một người đau khổ nhưng không còn cách nào khác là “chịu đau cho đến chết”.
Việc tạo hình nhân vật ông giáo, người cao lớn dường như muốn cho Lão Hạc một người bạn an ủi, chia sẻ, đồng thời với nhân vật này, tác giả muốn bày tỏ quan điểm, suy ngẫm về cuộc đời, về cuộc đời của mình. . Chúng tôi như thấy bóng dáng đàn ông cao lớn trong thầy. Sự tương đồng giữa nhân vật này với tác giả giống như một lời tâm sự chân thành được tác giả gửi vào trang viết. Văn là người. Các tác phẩm của Nan Cao tràn đầy nhiệt huyết, sự quan tâm nhân văn và sự quan tâm nhân văn. Trí thức có thể không đổi đời được trong những sáng tạo của họ, nhưng chúng tôi vẫn tin rằng dù cuộc sống có khó khăn đến đâu, họ vẫn giữ được những nét nhân cách đáng trân trọng.
Phân tích nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc——Mẫu 4
Lão Hạc, người viết truyện ngắn, không nóng cũng không lạnh mà bộc trực, bền bỉ, không dửng dưng, dửng dưng mà nồng nàn. Tác giả tự nhận mình là người trong cuộc (tại hà minh đức). Đó là vì có tính cách thầy.
Truyện ngắn của Lão Hạc nếu đánh mất đạo lý nhà giáo thì quả là một thiếu sót. Giáo viên đã thắp sáng và làm nổi bật nội hàm tư tưởng sâu sắc của tác phẩm.
Có thể coi Tào Nam là một nhà văn trăn trở đời đời, nhân vật thầy giáo không phải vô tình được đưa vào tác phẩm của ông. Với tư cách là người kể chuyện và kể chuyện, thầy bộc bạch trực tiếp và bộc lộ cảm xúc một cách tự nhiên, khái quát. Tác phẩm trở nên phong phú hơn, như được rót vào một con người chân thành—dòng cảm xúc được người thầy chắt lọc.
Tôi bị ốm và tôi về nhà. Hành lý chỉ là một vali đầy sách. Ồ, thật là một cuốn sách quý giá. Cuối cùng chỉ còn lại năm cuốn sách, và tôi quyết định không bán chúng. Tuy nhiên, tôi cũng bán! Mới hơn một tháng trước con tôi bị kiết lỵ gần như kiệt sức… KHÔNG! lão hạc! Tôi có quyền giữ một cái gì đó cho riêng mình không? Cay đắng thấm từng lời. Người thầy đầy hoài bão, tràn đầy đam mê và nhiệt huyết, nguyện cống hiến hết tài năng của mình cho đời. Nhưng cuộc sống hiện thực dường như đã trói buộc và xóa nhòa những ước mơ ấy. Không có gì tốt hơn là một bức tường đứng trước một người sẽ trao tất cả lý tưởng đó. Nhân vật ông giáo có một lão Hạc tươi cười rạng rỡ. Nhân vật này là cái bóng của nhân vật trí thức tiểu tư sản thanh cao, đáng thương, là đối tượng khai thác của nhà văn. Đó cũng là hình bóng, là hiện thân của một người đàn ông cao lớn.
Là người từng trải và chứng kiến nhiều cảnh đời, thầy luôn quan tâm đến đời sống, quan tâm đến mọi người. Trong công việc, không ít lần thầy phải nói lời cay đắng về mối quan hệ giữa người với người và sự tan biến của mọi người: Than ôi! Đối với những người xung quanh ta, ta chưa bao giờ thấy tiếc cho họ; ta chưa bao giờ yêu thương. không! Cuộc sống không nhất thiết phải buồn, hay vẫn buồn, nhưng theo một cách khác. Nỗi lo lắng, trăn trở của cô giáo cũng là nỗi niềm của chàng trai cao lớn. Những câu chuyện của các nhân vật mang nỗi đau của thời đại. Trân trọng và sâu sắc. Nhưng đó là một kẻ bất lực—”không thể bỏ cuộc”, chỉ biết khóc và hát một cách chân thành. Cô giáo không biết, không thể chỉ cho con sếu một lối thoát, và nó cũng không thể tự mình tìm ra lối thoát. Đây cũng là đặc điểm của nhiều nhân vật tiểu tư sản nghèo trong tác phẩm của Cao Nhân.
Người thầy có học thức, giàu kinh nghiệm sống, có hiểu biết sâu sắc và có lòng yêu thương con người, yêu quê hương đất nước. Đối với vợ, một người hay hiểu lầm con mình, thầy chỉ biết buồn chứ không thể giận. Khi biết quy luật khắc nghiệt của cuộc sống, người thầy sẵn sàng tha thứ cho những tính xấu hay lỗi lầm. Đối xử khoan dung với mọi người một cách chính xác. Đặc biệt với vai lão Hạc, thầy càng thể hiện cảm xúc của mình hơn. Anh ấy là một người đàn ông biết cách nhìn và đánh giá cao cái đẹp. Vì vậy, anh từng sợ vẻ đẹp trên người Lão Hạc sẽ biến mất. Cô giáo phát hiện ra rằng người đàn ông gian xảo này có một vẻ đẹp rực rỡ bên trong. Bởi vậy, tính cách của cao thủ trong bài văn lúc đầu lạnh lùng, sau đó càng ngày càng cố chấp.
Sống trong một xã hội mà con người lừa dối lẫn nhau, hiểu biết đúng đắn và có tấm lòng tôn sư trọng đạo mới là điều đáng quý. Ông giáo đã lầm về những người nông dân, nhưng cuối cùng, ông cũng nhìn thấy vẻ đẹp hiếm có ở họ. Dù cuộc sống không như ý nhưng thầy vẫn luôn giúp đỡ những người đói khổ hơn mình: Tôi trốn vợ, có khi lén giúp hạc.
Là một nhân vật, người giáo viên không giấu giếm những gì anh ấy nghĩ và cảm nhận về độc giả của mình. Đó cũng là một cách để khai thác tính cách vốn có của các nhân vật nam cao. Như con sếu, người thầy trở thành người bạn tâm tình của những người cùng khổ. Ông giáo đã tận mắt chứng kiến và thực sự xúc động trước nỗi đau của lão Hạc. Đôi mắt anh đẫm lệ và anh đã khóc.
Mọi người cho rằng Ngô là nhà văn kính trọng nông dân nhất, Cao Nam cũng thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với nông dân qua nhân vật ông giáo của mình. Học từ lão hạc, kết bạn với lão hạc, bất cứ nơi nào người đến.
Truyện ngắn của Lão Hạc kết thúc bằng một tiếng thút thít trong lòng người thầy. Tiếc cho vẻ đẹp đã ra đi mãi mãi Tấm lòng và sự hiểu biết của người thầy là điều không thể thiếu trong tác phẩm.
Dù còn nhiều hạn chế nhưng nhân vật người thầy này là một tấm gương hiếm có về lòng nhân ái, về cách nhìn nhận và trân trọng những phẩm chất cao đẹp của những người cùng khổ trong một xã hội nhiễu nhương đầy cạm bẫy. Thầy cũng là một đấng nam nhi cao lớn, đoan trang và chân thành. Chủ nghĩa nhân văn qua nhân vật ông giáo giúp tác phẩm được chứng kiến và cảm nhận câu chuyện bằng tiếng nói của con người. từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc. Đồng thời, qua nhân vật ông giáo, ta cũng tìm thấy nét phá cách, độc đáo trong việc tạo hình nhân vật Tào Nan. Người thầy được xác lập qua suy nghĩ và tình cảm của tác giả. Nhân vật ông giáo để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc và có vai trò quan trọng
Trong tác phẩm, các nhân vật cũng đưa ta đến với chân, thiện, mỹ. Bởi vậy, không chỉ có tính cách của lão Hạc mà còn có tính cách của ông giáo, những tác phẩm của lão truyền hơi thở cuộc sống, sự nũng nịu của con người đến với chúng ta, và cái đẹp cũng theo đó mà đi.
Phân tích nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 5
nam cao là cây bút tài năng viết truyện ngắn hiện thực. Truyện của ông viết về nông dân và làng quê. Chủ đề này dường như đã trở nên quen thuộc trong tác phẩm của anh. “Lão Hạc” cũng là một trong những truyện ngắn xuất sắc về đề tài nông dân của ông. Trong truyện ngắn, không chỉ nhớ đến nhân vật trung tâm Lão Hạc mà còn làm nổi bật hình ảnh người thầy – người bạn, người hàng xóm của ông.
Trong truyện, vai ông giáo là hàng xóm của Sếu. Đó là một nhân vật, là một giáo viên, một nghề cao quý, bởi vì trong thời đại đó, nó là một nghề danh giá, được nhiều người tôn trọng. Anh sống gần gũi và thân thiết với Lão Hạc, được Lão Hạc kính trọng và tin tưởng. Trong mối quan hệ với Lão Hạc, nhân vật chính của câu chuyện, ông giáo là người hiểu, thông cảm sâu sắc và yêu thương Lão Hạc. Tall Man khắc họa điều này một cách tinh tế qua nhiều chi tiết. Lao He thường đến nhà cô giáo chơi và trò chuyện: chia sẻ và giải thích mọi chuyện ở nhà, những rắc rối và cảm xúc về cậu con trai Jingou, những khó khăn trong cuộc sống, nỗi nhớ đứa trẻ và những đặc điểm tính cách. Toán hiệu quả, công việc, và nhiều hơn nữa. Hoàn cảnh của Lao He, thầy rất lắng nghe, thấu hiểu và thông cảm nên Lao He luôn chăm chú lắng nghe, trong lòng chứa đầy lòng trắc ẩn.
Thầy lắng nghe tất cả những câu chuyện của anh, từ thời thơ ấu đến khi trưởng thành, kể cả những chuyện không mấy quan trọng, vô nghĩa. Chuyện cậu vàng ăn vạ, chuyện cậu vàng thông minh như một người bạn. Làng biết rõ hơn ai hết rằng chỉ có ông giáo là người biết rõ nhất hoàn cảnh của Lão Hạc. Anh hiểu rằng Laohe chỉ có những chàng trai và cô gái vàng làm thịt viên vì vợ anh mất sớm, và con trai anh bỏ đồn điền cao su vì không cưới được vợ. Người thầy cũng là một nông dân tốt bụng và một người cha yêu thương, một người đàn ông thấu hiểu cảm xúc, nỗi đau, tình yêu, lòng tốt và sự trung thực. Khi lão Hạc tuyên bố bán con chó. Cô giáo ngạc nhiên và cảm thấy tiếc cho con sếu. Thấy ông già bật khóc, cô giáo thấy thương ông. Anh ta không biết khi nào Crane gửi tất cả số tiền cho anh ta. Vẫn lặng lẽ nhìn Lão Hạc làm lụng vất vả, miếng ăn chật vật, muốn giúp mà bất lực, vì hoàn cảnh khó khăn như mình.
Mặc dù nhiều người nói Hạc bị điên nhưng ông giáo vẫn kính trọng vì biết Hạc chết vì quyết định canh giữ khu vườn cho đàn con. Cô giáo nhận ra vẻ đẹp của người lớn tuổi, đức hi sinh cao cả của người cha, lòng tự trọng cao đẹp của con người. Tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị xã hội khác nhau nhưng không ngăn cách được hai tâm hồn. Thầy và sếu vẫn rất thân thiết, tin cậy và hiểu nhau. Từ đó, ta thấy thầy là một người có tấm lòng nhân hậu, yêu thương mọi người, nhất là những người nghèo khó, có hoàn cảnh khó khăn. Trước khi Xiahe qua đời, người thầy buồn bã và thất vọng, cho rằng Xiahe đã đánh mất trái tim trong sáng của mình. Nhưng nhân vật chính chứng kiến cái chết vì ăn thịt chó của ông già, mặc dù không phải là nhân vật trung tâm, nhưng luôn gắn bó với nhân vật chính như một người bạn, người bạn tâm tình, nhân chứng và câu chuyện có thật. câu chuyện.
Ông giáo biến thành nhà văn nam cao phát biểu cảm nghĩ về số phận của những người nông dân bất hạnh và phẩm chất cao quý của họ. Qua nhân vật ông giáo, ta không chỉ thấy được diện mạo của nhân vật mà còn thấy được thái độ tình cảm của tác giả, cảm nhận được cuộc sống của người nông dân lúc bấy giờ.