Bên cạnh văn học dân gian truyền miệng, còn có nhiều loại văn học viết, đầu tiên là chữ Hán, sau là chữ nôm, và sau đó là chữ quốc ngữ ngày nay. Dòng văn học này đã trải qua nhiều thời kỳ. Các văn bản sớm nhất được tìm thấy có niên đại từ thế kỷ thứ 10 và đại khái được chia thành hai thời kỳ:
Từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX đến nay.
Bạn đang xem: Văn học chữ Hán
Từ thế kỷ XX đến thế kỷ XII
Ở thời kỳ này, văn học viết được viết bằng hai loại chữ: chữ Hán và chữ Nôm. Người Việt tuy không bị đồng hóa sau ngàn năm Bắc thuộc nhưng đã dần dần phát triển một bản sắc dân tộc riêng biệt. Văn bản chữ Nôm xuất hiện rất sớm, nhưng từ thế kỷ XVI văn học chữ Nôm đã thịnh hành và đến thế kỷ XVI văn học chữ Nôm chiếm một vị trí rất lớn. Sự phát triển của ý thức dân tộc đã tạo điều kiện thuận lợi cho văn học danh nghĩa phát triển.
Sự hình thành và phát triển của văn học
Văn học chữ Hán thống trị hàng thế kỷ (trừ một số trường hợp như Hồ triều, Quế lệ, Quảng trung, v.v. nhấn mạnh chữ nôm), những tác phẩm văn học này, tuy dùng chữ Hán, nhưng vẫn đầy chất Việt tính cách và tâm hồn. Ví dụ: bài thơ lý thường kiệt nam quốc sơn hà, hịch tướng sĩ của Trần hưng đạo, bài thơ ca ngợi chiến thắng của quân dân ngụy ngữ. Ông già, Chen Guangkai, Master Qiang, con cáo của Ruan Ping’e, v.v. Tiếp đến là lịch sử y học mang âm hưởng dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ: Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Gia Liên, w.
Vào thế kỷ XV, văn học chữ Hán vẫn thịnh hành. Tuy nhiên, phi văn học tiếp tục phát triển. Nguyễn Trãi là người gắn bó với chữ Quốc ngữ và vận dụng chữ Nôm vào sáng tạo văn học. Tập thơ Nguyễn Trãi quốc âm thời kỳ này là một trong những tập thơ Nôm cổ nhất còn giá trị đến ngày nay.
Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ X, văn học chữ Nôm phát triển mạnh mẽ và chiếm ưu thế trong văn học. Các nhà thơ lớn đã sử dụng triệt để chữ quốc ngữ và cho ra đời nhiều tác phẩm tiêu biểu: Bài thơ canh nông Hồ Xuân Hương, Hoa kiều bi ký của Nguyễn Du, Cuộc chinh phạt của Đoàn Thị Điểm, Mối oán hận của Nguyễn Thiều, w,
Từ đầu thế kỷ 20 đến nay
Cuối thế kỷ X, đầu thế kỷ XX, các tác phẩm văn học chữ Hán dần dần xuất hiện. Văn học Việt Nam ngày nay không chỉ tiếp thu, ảnh hưởng văn học Trung Hoa mà còn tiếp thu văn học phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp, làm cho văn học Việt Nam thêm phong phú, đa dạng về thể loại. Văn học Việt Nam dần xa rời văn phong cổ điển và trở nên nặng nề hơn, linh hoạt hơn, chính xác hơn và gần với ngôn ngữ đời thường kinh điển hơn. Năm 1925, ở Việt Nam xuất hiện những tiểu thuyết đầu tiên: Tấm lòng của Hoàng ngọc Thập, Quả pháo của Nguyễn Trọng Thuật. Phong trào Thơ mới được coi là một cuộc “cách mạng” trong thơ ca, gò bó các niêm luật, lối diễn đạt ước lệ, phá vỡ lề thói, tình cảm bộc lộ tự nhiên hơn, cởi mở hơn, lãng mạn hơn.
Nhiều nhà thơ tài hoa nổi lên trong phong trào thơ mới: lưu trong lu, thế lữ, vũ đình liên, xuân điều, huy cận, tân đà, w.
Trước sự trỗi dậy của văn học Lãng mạn, năm 1932 Văn đoàn tự lực được thành lập, các thành viên gồm: nhất linh, khai hưng, hoàng đạo, thạch lam và một số cây bút trẻ, w. Dòng văn học này tuy đã có nhiều tiến bộ về sáng tác nhưng cũng không tránh khỏi những hạn chế về mặt tư tưởng.
Bên cạnh trào lưu văn học Lãng mạn, phải kể đến văn học hiện thực phê phán. Các tác phẩm của phong trào văn học này có tính chân thực mạnh mẽ và tràn đầy tinh thần Nhẫn. Phong trào này đã cho ra đời những tác phẩm xuất sắc cả về nội dung và hình thức như: Bước đi cuối cùng của Ruan Gonghuan, Tắt đèn của Wu Daduo, Phá vỡ đê, Bão tố của Wu Zhongfeng, Làn sóng xanh của Ruan Hong, v.v. , chí phèo của nam cao, w.
Ngoài hai phong trào trên còn có phong trào văn học cách mạng lưu hành không hợp pháp (dù đôi khi hợp pháp). Phong trào văn học này bao gồm những bài thơ do các chiến sĩ cách mạng viết trong tù và các tác phẩm đăng trên báo nước ngoài. Những người khởi xướng tiêu biểu của phong trào này có Hồ Chí Minh, Hong Bo, Du You, Chun Cui, v.v.
Cách mạng Tháng Tám thành công, văn học hiện đại phát triển rực rỡ. Những tác phẩm ra đời trong thời kỳ này như những mốc son, đánh dấu thời kỳ lịch sử của mỗi người anh hùng của dân tộc. Tác phẩm: Con trâu của Nguyễn Văn Bồng, Bãi mìn của võ, Tác phẩm của Nguyễn Đình Thi, Văn xuôi của Nguyễn Tuấn, w. Đó là thành tựu văn học thời chống Pháp.
Trong cuộc kháng chiến 21 năm chống Mỹ cứu nước, nhiều kiệt tác văn học đã ra đời, phản ánh cuộc đấu tranh vô cùng anh dũng của đồng bào và chiến sĩ cả nước như: “Gia đình Tần Nương”, “Mẹ và người hầu của Pan” v.v. Tu, đất Quảng Quốc, mẹ cầm thương của Ruan. Và các tác phẩm thơ ca: Giang Nam quê hương, hình tượng Lý An Hiên nước Việt, tiếng hót chim hồng hạc trong chậu mùa thu, gió cát trắng mùa xuân, w.
Hiện nay, các nhà văn, nhà thơ đang nỗ lực đưa văn học Việt Nam bước sang một giai đoạn mới, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, ổn định.