Chủ đề: Có người nói: “Cảm hứng chủ đạo của “Tây Du Ký” là nỗi nhớ Tây Du của Quảng Đông”. Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Bài tập
quang dũng là nhà thơ có tâm hồn phóng khoáng, lãng mạn và tự cao tự đại. Ông để lại dấu ấn qua nhiều tác phẩm tiêu biểu của thơ ca phương Tây. Nhắc đến miền Tây, người ta sẽ nghĩ ngay đến cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc, đồng thời cũng nghĩ đến hình ảnh người lính xưa hành quân về miền Tây, nhiều nét đẹp mang dấu ấn của những người lính tiêu biểu trong thời kỳ kháng chiến ác liệt. Có người nói: Cảm hứng chủ đạo của thơ Tây phương là nỗi nhớ Tây ở Quảng Đông.
Cảm hứng chủ đạo là một trạng thái cảm xúc mãnh liệt xuyên suốt tác phẩm văn học, liên quan đến những suy nghĩ, nhận định của tác giả, tác động mạnh mẽ đến người đọc. Diễn biến chuyến du hành ngược thời gian của quang dũng bắt đầu và kết thúc bằng hoài niệm. Có thể nói nỗi nhớ chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả bài thơ, làm cho cả bài thơ thêm dạt dào cảm xúc. Nỗi nhớ đã mang lại cho nhà thơ nhiều điều, đặc biệt là cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc, và kết tinh cuối cùng của nỗi nhớ là hình ảnh người lính đi về hướng Tây. Nỗi nhớ trong bài thơ mang những cảm xúc sâu lắng.
Nỗi nhớ đưa nhà thơ trở về với thiên nhiên Tây Bắc Trung Quốc, một vẻ đẹp vừa dữ dội, khắc nghiệt, vừa trữ tình, thơ mộng. Hai vẻ đẹp ấy bổ sung cho nhau trong ngòi bút và bút mực của nhà thơ, làm cho cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc trở nên rực rỡ và ngoạn mục. Nỗi nhớ đè nén trong lòng như xoáy nước thôi thúc gọi nhà thơ:
Mahe ở xa, đi về phía tây!
Nhớ núi nhớ chơi vơi
Tiếng gọi ấy như sự trống vắng, cô đơn của một người với tâm hồn Tây phương. Có lẽ chính vì cảm nhận ấy mà sự hùng vĩ, dữ dội của thiên nhiên trước hết được thể hiện qua hình ảnh sương núi: “nâng niu sương che gian lao”. Sương mù dày đặc, lạnh lẽo như muốn nhấn chìm đoàn quân. Không chỉ vậy, mà còn tái tạo sườn núi dốc và gồ ghề, làm tăng thêm ấn tượng về màu sắc thiên nhiên phong phú ở đây:
Dựa vào một khúc cua dốc
Lợn uống rượu, súng ngửi trời
Nghìn thước xuống, ngàn thước xuống
Ba câu thơ gợi tả một bức tranh thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ với những hình ảnh đèo dốc “khúc khuỷu”, “sâu thăm thẳm”, “ngoan”. Bài thơ “dốc lên khúc khuỷu” tuy có bảy chữ nhưng có đến năm thanh điệu, hai chữ dốc nằm xen kẽ với hai chữ ngoằn ngoèo. Con đường dốc và nguy hiểm. Bức tranh hoang sơ, huyền bí tiếp tục được vẽ nên rõ nét qua hai câu thơ tiếp theo:
“Chiều chiều thác hùng vĩ gầm gào
Đêm khuya hổ trêu người”
Thông qua biện pháp nhân hóa hai hình tượng “Thác nước huýt sáo” và “Cọp trêu người”, sự linh thiêng và đáng sợ của rừng thiêng càng được nhấn mạnh, khiến người ta rùng rợn, rùng rợn. .Tây Bắc thiên nhiên hiểm trở, dốc đứng nhưng cũng nên thơ đến lạ lùng:
“Hoa bạt ngàn”
Đi xa hơn về phía tây, sương mù bao la:
“Nhớ cầm đồ đi Tây Thiên
Mai Châu mùa em ngửi hương lúa nếp”
Dũng cảm và trữ tình nhất có lẽ là cảnh sông nước mênh mông trong bốn câu kết:
“Buổi chiều mọi người trở lại Zhoumu
Bạn có thấy những linh hồn dạt vào bờ không?
Bạn có nhớ các số trong cột không?
Nước trôi hoa trôi
Đây là khung cảnh thiên nhiên của Zhoumu vào buổi chiều, với nước sông mờ ảo, thơ mộng và lau sậy mọc bên bờ hoang vu. Chỉ bằng một vài nét gợi, Quảng Đông đã tạc nên một bức tranh phong cảnh kỳ ảo, xa xăm và thơ mộng cho thiên nhiên Tây Bắc. Khung cảnh thiên nhiên và cảnh quan văn hóa đặc trưng của Tây Bắc đã gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
Không chỉ có cảnh sắc thiên nhiên của Tây Bắc mà hình ảnh của những người lính Tây Bắc, đoàn quân Tây Bắc cũng được thể hiện thật đẹp trong nỗi nhớ Quảng Đông. Nếu thiên nhiên dữ dội, nên thơ và duyên dáng thì con người cũng mạnh mẽ, khỏe khoắn và dũng cảm nhưng cũng không kém phần lãng mạn, hào hoa. Hai vẻ đẹp của người lính ấy hiện lên cạnh nhau trong từng dòng hoài niệm. Nhớ lại những khó khăn, trở ngại trên đường hành quân, sương mù dày đặc, sườn đồi dốc đứng, tiếng hổ gầm dữ dội, những người lính vẫn bình tĩnh đối mặt, không chút lo lắng, sợ hãi.
Không những thế, người lính này còn tạo cho mình những phút giây thư giãn, nghỉ ngơi và vui vẻ. Chúng ta có thể thấy điều này qua hình ảnh “Ôn Thiên Súng”. Người lính nổi lên niềm lạc quan, yêu đời hơn bao giờ hết trước những gian nan của cuộc hành trình. Tuy nhiên, trong đêm hội đậm đà tình quân dân này, dáng vẻ hào hùng, đa tài của người lính càng được gợi lên rõ nét trong nỗi nhớ:
“Doanh trại được điểm xuyết bằng đuốc và hoa
Này, khi nào bạn mặc áo sơ mi?
Chàng trai chơi những cô gái nhút nhát
Nhạc mục đồng uốn nắn hồn thơ”
Cảnh vật và con người trong đêm liên hoan thực sự đã đem lại sức hấp dẫn kỳ lạ đối với những người lính. Đắm chìm trong tiếng kèn và lòng thơ, những người lính mơ về một ngày mai hạnh phúc ở Viêng Chăn. Chính ngày kỷ niệm tri ân quân nhân thân mật này đã mang lại nguồn cảm hứng, niềm an ủi cho những người lính vượt qua sự tàn khốc của chiến tranh.
Hình ảnh đoàn quân hành quân qua bốn dòng thơ vẫn hiện về trong nỗi nhớ Quảng Đông:
“Tây quân không mọc tóc
Quân xanh dữ lắm
Mắt dán, gửi ước mơ qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội, Việt Giao”
Những bức chân dung người lính rất đặc sắc, với những bức tranh khác thường “không tóc”, “xanh mướt”, “dữ dội”, “đôi mắt mơ màng”. Nhưng tất cả bắt nguồn từ thực tế khắc nghiệt và khắc nghiệt của chính cuộc sống. Trước đó, Quảng Đông không lảng tránh mà tái hiện một cách tinh tế với màu sắc lãng mạn: “Tây quân không mọc tóc”. Cách nói của Quang dũng cho thấy thái độ hỗn hào của những người lính trẻ thơ ngây: tóc không mọc chứ không phải vì sốt rét mà tóc không mọc. Nơi rừng thiêng nước độc thiếu đường, thuốc thang không đủ, “Quân xanh” có gì sai đâu. Nỗi nhớ “bạn hiền” là yếu tố cân bằng đời sống nội tâm của người lính sau những tháng ngày hành quân gian khổ, chứ không phải là yếu đuối như một số người lầm tưởng. Quang dũng đã tạc nên một tượng đài với vẻ ngoài uy nghiêm và bên trong lãng mạn, sang trọng bằng bút pháp tài tình.
Những người lính gan góc, dũng cảm, hiên ngang cũng toát lên vẻ đẹp bi tráng của thế hệ thanh niên máu lửa. Ngòi bút của Quang Dũng khắc họa thành công hình ảnh người lính Tây Tiến nhưng không đưa người đọc vào nỗi buồn mà bộc lộ vẻ đẹp hào hùng ở khắp mọi nơi:
“Rải rác khắp biên giới của những vùng đất xa xôi”
Sống xanh không tiếc chiến trường
Áo đưa tôi đến một đất nước xa lạ
Mã Giang solo.
Việc nhà thơ sử dụng những từ Hán như “cạnh”, “xa” như làm vơi đi nỗi buồn. Mặt khác, nỗi buồn ấy lại bị lu mờ bởi lí tưởng sống cao cả của người lính “ra trận chẳng tiếc đời xanh”. Hình ảnh ẩn dụ “chiếc áo phản anh về với thiên hạ” tiếp tục làm nền cho bi kịch chết chóc. Về với đất liền là về với đất mẹ thân yêu, về với tất cả những gì giản dị, thân thương nhất. Tiếng gầm của sông Mahe dường như đang sáng tác một bản nhạc độc đáo và riêng biệt cho những người lính của các Vùng đất phía Tây.
Với sự lựa chọn từ ngữ chính xác, tinh tế và hình ảnh thơ độc đáo, mới mẻ, nhà thơ đã vẽ lại một đường nét vừa mềm mại vừa mạnh mẽ. Nỗi nhớ phải chân thành, tình yêu phải sâu đậm, da diết thì mới tạo nên một bức tranh tuyệt sắc.
Tây di cư là nỗi nhớ của những tín đồ. Nỗi nhớ ấy đưa nhà thơ về với những kỉ niệm khó quên. Dù nhớ về kỉ niệm nào thì cảm xúc của nhà thơ cũng thật da diết, thật chân thành, thật đau xót. Chỉ những người biết nâng niu kỷ niệm mới làm được những bài thơ như vậy.
Xem thêm các bài văn mẫu luyện thi lớp 12:
Giới thiệu về kênh youtube
Các chủ đề bổ sung của lớp 12